5 Phi Vụ Gian Lận Tài Chính Kinh điển Nhất - Vietnam Business Insider

Nhiều người luôn cho rằng chỉ có những thị trường mới như Việt Nam thì hiện tượng gian lận tài chính mới phổ biến như vậy. Nhưng sự thực thì dù ở các nước non trẻ hay ở các nước đã có nền tài chính phát triển cũng không thể tránh khỏi những chiêu trò gian lận báo cáo tài chính. Có chăng chỉ khác nhau ở quy mô, sự tinh vi mà thôi. Đằng sau mỗi cuộc khủng hoảng dường như lại xuất hiện thêm những cái tên mới tô vẽ thêm bức tranh “gian lận tài chính”.

Bài viết về 5 vụ bê bối tài chính lớn nhất trong lịch sử dưới đây được viết bởi đội ngũ SAPP Edu, mình đánh giá đây là dịch và tổng hợp rất hay nên xin mạn phép cop nhặt về trang để có thêm thông tin lưu trữ, và nhiều người cùng đọc.

gian-lan-bao-cao-tai-chinh-1645083836.jpeg

I. WASTE MANAGEMENT, INC. (1998)

Thông tin chung:

Waste Management, Inc. là một công ty quản lý chất thải của Mỹ thành lập năm 1971, cung cấp các dịch vụ về môi trường và xử lý chất thải cho vùng Bắc Mỹ. Mạng lưới của Công ty bao gồm 367 trạm thu thập, 346 trạm xử lý, 293 khu vực chứa, 16 nhà máy xử lý nước thải thành năng lượng, 146 nhà máy tái chế, và 6 nhà máy sản xuất điện độc lập. Waste Management, Inc. cung cấp dịch vụ môi trường cho gần 27 triệu dân, các khu công nghiệp ở Mỹ, Canada, và Puerto Rico. Waste Management, Inc. cùng với Republic Service, Inc trở thành 02 nhà cung cấp dịch vụ môi trường lớn nhất ở Mỹ trong những năm hoạt động.

Chuyện gì đã xảy ra?

Từ năm 1992 đến năm 1997, các lãnh đạo cấp cao của Waste Management, Inc đã bắt đầu “xào nấu” sổ sách kế toán để tăng lợi nhuận bằng các phương pháp:

  • Từ chối ghi nhận các chi phí không được phép vốn hóa (chủ yếu là các Dự án xây dựng khu đất chứa thải không thành công) vào chi phí trong kỳ;
  • Vốn hóa các chi phí không có bản chất được vốn hóa;
  • Ghi giảm chi phí khấu hao bằng cách ghi nhận cao giá trị thanh lý tài sản ước tính và kéo dài thời gian sử dụng hữu ích ước tính của hệ thống xe tải trở rác;
  • Không ghi nhận giảm giá trị của các tài sản bị giảm giá trị trong kỳ;

Các lãnh đạo của doanh nghiệp bị buộc tội làm đẹp báo cáo tài chính theo ý muốn chủ quan của mình. Giá trị của khoản lợi nhuận được làm đẹp lên đến 1,7 tỷ USD.

Tại sao bị phát hiện?

Khi CEO mới (A. Maurice Meyers) được bổ nhiệm, ông tiến hành soát xét lại toàn bộ sổ sách kế toán của những năm trước đây và phát hiện ra lợi nhuận đã bị khai khống 1,7 tỷ USD. Giá trị của gian lận này sau đó đã được công bố lại trong báo cáo tài chính của năm đương nhiệm và trở thành giá trị được công bố lại trên báo cáo tài chính lớn nhất trong lịch sử.

Những tác nhân chính

Người sáng lập/ Điều hành Dean L.Buntrock, các Giám đốc Điều hành cấp cao và Kiểm toán của Công ty Authur Andersen đã thông đồng để “xào nấu” báo cáo tài chính nhằm đánh lừa người đọc và các bên liên quan.

Chuyện vui

Sau khi phát hiện ra gian lận, CEO mới (A. Maurice Meyers) đã thành lập đường dây nóng trong nội bộ doanh nghiệp để nhân viên có thể tố cáo trực tiếp về các hành động thiếu trung thực trong các hoạt động.

II. ENRON CORPORATION (2001)

Thông tin chung:

Enron Corporation là một Tập đoàn năng lượng của Mỹ thành lập năm 1985 từ sự hợp nhất của Houston Natural Gas và InterNorth. Enron Corporation có 20.000 nhân viên và là một trong những công ty lớn nhất nước Mỹ về cung cấp điện, gas, viễn thông với doanh thu lên đến 101 tỷ USD trong năm 2000. Enron Corporation đã từng được Tạp chí Fortune bình chọn trong 06 năm liền với giải thưởng “Doanh nghiệp sáng tạo nhất nước Mỹ”.

Chuyện gì đã xảy ra?

Từ những năm 1990, Các quản lý cấp cao của Enron Corporation đã thành lập hàng loạt các Công ty trách nhiệm hữu hạn (một trong những thông lệ của các Doanh nghiệp năng lượng thời bấy giờ). Tuy nhiên ngoài mục đích là thông lệ kinh doanh, Enron còn sử dụng các Công ty con này với mục đích giấu các khoản nợ phải trả để tăng điểm tín dụng từ đó lấy được lòng tin của các tổ chức tín dụng và nhà đầu tư.

Tài sản và lợi nhuận của Enron cũng bị thổi phồng bằng các gian lận kế toán nhằm che mắt nhà đầu tư:

  • Lập các Công ty SPV cho mục đích giấu nợ và các khoản lỗ của Công ty chủ;
  • Sử dụng phương pháp hạch toán theo giá thị trường (Mark to Market) nhằm đẩy doanh thu thực từ 13,3 tỷ USD (năm 1996) lên 100,8 tỷ USD (năm 2000). Bỏ qua tính thận trọng trong ghi nhận doanh thu bằng cách ghi nhận doanh thu ước tính bán được thay vì ghi nhận doanh thu thực bán được cho những mặt hàng đã được đặt trước.
  • Tham gia 1 hợp đồng Swap trả trước (Prepaid forward sales contracts) mới 1 doanh nghiệp tên là Mahonia. Enron nhận tổng 1 cục tiền & đồng ý giao khí gas trong tương lai cho Mahonia. Mahonia lại làm 1 hợp đồng tương tự, nhận 1 cục tổng tiền từ JP (JPMorgan Chase) & đồng ý giao gas trong tương lai cho JP. JP lại là cổ đông lớn sở hữu Mahonia, vì vậy rủi ro của công ty con Mahonia cũng là rủi ro của JP. JP hedge rủi ro này với Enron. Sau khi cấn trừ các nghiệp vụ này, Enron giao hàng cho Maho, Maho bán lại cho JP, JP lại bán lại hàng cho Enron, cuối cùng coi như Enron không phải giao hàng mà lại nhận được tổng 1 cục tiền doanh thu bán hàng từ Maho, trong khi đó chỉ phải trả tiền từng kì trong tương lai cho JP. Nói cách khác, nghiệp vụ này thực chất là JP cho Enron vay, Enron sẽ trả dần từng kì. Tuy nhiên nhờ thủ thuật trên, Enron không những không phải ghi nhận 1 khoản nợ từ JP mà còn được ghi nhận doanh thu bán hàng.

Tại sao bị phát hiện?

Vụ gian lận này được phát hiện bởi một người trong nội bộ doanh nghiệp tên là Sherron Watkins vì nghi ngờ Enron Corporation có gian lận khi giá cổ phiếu tăng quá cao (90 USD vào giữa năm 2000).

Những tác nhân chính

02 lãnh đạo cao nhất Jeffrey Skilling và Kenneth Lay từ người hùng trở thành những “kẻ dối trá và lừa gạt vĩ đại”, đã khoa trương quá mức tình trạng sức khỏe của công ty và đưa công ty tới thảm cảnh phá sản. Bên cạnh đó còn có sự tham gia và thông đồng của Doanh nghiệp Kiểm toán Authur Andersen.

Chuyện vui

Vụ bê bối Enron đã đưa họ tới giải IgNobel “Sử dụng sáng tạo nhất những con số tưởng tượng” vào đầu năm 2002, nhưng không một cựu thành viên nào trong ban quản lý Enron chịu nhận giải thưởng khét tiếng này.

III. WORLDCOM CORPORATION (2002)

Thông tin chung

WorldCom là một Tập đoàn Viễn thông của Mỹ thành lập năm 1983 với tên gọi Long Distance Discount Services, Inc và có trụ sở tại Jackson, Mississippi.

Vào năm 1997, WorldCom sáp nhập với MCI Communication với giá trị 37 tỷ USD và trở thành thương vụ sáp nhập lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ. Tổng tài sản của WorldCom được vốn hóa với giá trị 107 tỷ USD.

Chuyện gì đã xảy ra?

CEO Bernard Ebbers đã trở nên giàu có nhờ giá cổ phiếu phổ thông của WorldCom tăng giá bất thường vào cuối năm 1999. Từ những năm 1999 đến 2002, CEO và CFO của WorldCom đã sử dụng các thủ thuật nhằm làm đẹp Báo cáo Tài chính và giữ giá cổ phiếu của Doanh nghiệp trên sàn chứng khoán ở mức cao. 2 phương pháp được sử dụng bao gồm:

  • Vốn hóa các chi phí không đủ điều kiện vốn hóa thay vì ghi nhận chi phí trên Báo cáo Thu nhập; Tổng giá trị tài sản bị ghi khống lên đến 11 tỷ USD;
  • Ghi nhận khống doanh thu chưa thực hiện thành doanh thu;

Vụ bê bối này đã trở thành vụ bê bối lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ cho đến tận năm 2008.

Tại sao bị phát hiện?

Một nhóm kiểm toán nội bộ của WorldCom làm việc bí mật vào ban đêm để tìm ra một khoản gian lận trị giá 3,8 tỷ USD. Ngay sau đó, ủy ban kiểm toán và HĐQT thông báo về vụ gian lận này khiến cho CFO và Kiểm soát tài chính của WorldCom bị sa thải. Authur Andersen đã phải rút lại ý kiến kiểm toán cho năm 2001.

Những tác nhân chính

CEO Bernard Ebbers và hệ thống Quản trị Công ty yếu, thiếu trung thực.

Chuyện vui

Nhờ có scandal này mà Quốc Hội Mỹ đã thông qua Đạo luật Sarbanes-Oxley về Quản trị Công ty.

IV. TYCO INTERNATIONAL (2002)

Thông tin chung

Tyco International thành lập từ năm 1960 tại Mỹ và hoạt động ở trên 100 Quốc gia . Tyco được mệnh danh là doanh nghiệp lớn nhất trong lĩnh vực sản xuất và cung cấp các thiết bị điện, thiết kế và lắp đặt hệ thống viễn thông dưới biển, hệ thống phòng chống hỏa hoạn và an toàn điện. Từ năm 1986, Tyco International đã có hơn 40 lần mua bán sáp nhập lớn nhỏ trên toàn thế giới.

Chuyện gì đã xảy ra

  • CEO (Dennis Koslowski) cùng với CFO (Mark Swartz) của Tyco bị buộc tội vì đã tự cho mình hưởng những ưu đãi về lãi suất của những khoản vay cá nhân với Công ty mà thiếu sự phê duyệt của HĐQT. Những khoản vay phát sinh này là một phần của chương trình “Các khoản vay cho nhân viên ưu tú”.
  • Những lãnh đạo cấp cao này còn bị buộc tội bán cổ phiếu phổ thông do mình nắm giữ mà không thông báo cho nhà đầu tư (Theo Ủy ban Chứng khoán thì nếu lãnh đạo cấp cao bán cổ phiếu cần được sự đồng ý của Đại hội đồng Cổ đông do lo sợ ảnh hưởng đến giá cổ phiếu của doanh nghiệp).
  • CEO, và CFO của Tyco đã bị buộc tội vì lấy trộm đến 600 triệu USD thông qua các khoản lương thưởng mà chưa được HĐQT phê duyệt.
  • Các tin đồn về việc mua rèm phòng tắm lên đến 6,000 USD, thùng rác 2,000 USD là minh chứng rất rõ ràng cho việc sử dụng sai ngân sách của doanh nghiệp.
  • Những lãnh đạo cấp cao này còn bị buộc tội bán cổ phiếu phổ thông do mình nắm giữ mà không thông báo cho nhà đầu tư (Theo Ủy ban Chứng khoán thì nếu lãnh đạo cấp cao bán cổ phiếu cần được sự đồng ý của Đại hội đồng Cổ đông do lo sợ ảnh hưởng đến giá cổ phiếu của doanh nghiệp).

Các lãnh đạo cấp cao của Tyco đương nhiên là đã can thiệp vào hệ thống kế toán nhằm che dấu sự thật cũng như đối phó với sự giám sát của các thành viên HĐQT.

Tại sao bị phát hiện

Năm 2002, Koslowski bị điều tra trốn thuế do không chi trả thuế giá trị gia tăng cho một tác phẩm nghệ thuật với giá trị 13 triệu USD bằng nguồn vốn của doanh nghiệp. Đồng thời, Koslowski từ chức vì lý do “cá nhân” và được thay bởi người mới càng làm tăng thêm nghi vấn về các vấn đề không minh bạch của doanh nghiệp. Tháng 09 năm 2002, các lãnh đạo cấp cao bao gồm cả CEO và CFO đều bị cáo buộc vì đã không thuyết minh các khoản vay của họ với Công ty cho Cổ đông. Ủy ban Chứng khoán đã yêu cầu cả hai bồi hoàn lại cho doanh nghiệp những khoản thiệt hại mà họ đã gây ra.

Những tác nhân chính

Thiếu đạo đức kinh doanh của tầng lớp quản lý cùng các điểm yếu trong hệ thống Quản trị Công ty.

Chuyện vui

Koslowski đã tổ chức sinh nhật cho vợ với chi phí lên đến 2 triệu USD tại một hòn đảo ở Italia.

SATYAM COMPANY (2008)

Thông tin chung

Satyam thành lập năm 1987 ở Ấn Độ và nhanh chóng trở thành Doanh nghiệp phát triển nhanh thứ 04 tại thị trường này với thị phần lên đến 9%. Satyam có 53.000 nhân viên với doanh thu hàng năm khoảng 2,1 tỷ USD và là doanh nghiệp đầu tiên của Ấn Độ niêm yết trên các sàn giao dịch Quốc tế như NYSE, DOW, EURONEXT.

Chuyện gì đã xảy ra?

Raju và anh trai là Rama đã bị bắt vì những cáo buộc vì phá vỡ niềm tin, lừa dối, và làm sai lệch các ghi nhận kế toán.

  • Khai khống 13.000 nhân viên để chuyển khoản tiền lương của số nhân viên này về tài khoản cá nhân của mình. Như vậy số nhân viên thực tế của Satyam chỉ là 40.000 thay vì 53.000 như các báo cáo chính thức.
  • Raju cũng bị cáo buộc dùng tiền của Công ty cho các mục đích cá nhân đặc biệt là việc mua lại Công ty của con trai ông.
  • Bảng cân đối kế toán của Satyam tại ngày 30 tháng 09 năm 2008 đã khai khống tài khoản tiền mặt và tiền gửi ngân hàng lên đến gần 1 tỷ USD, một khoản chi phí phải trả khoảng 70 triệu USD. Khai thiếu một khoản nợ lên đến 200 triệu USD.

Kiểm toán của Satyam (PwC Ấn Độ) được coi là một đồng lõa trong vụ bê bối này khi không thu thập đủ các bằng chứng kiểm toán như xác nhận ngân hàng, lãi vay và xác nhận phải thu khách hàng.

Tại sao bị phát hiện

Một người trong doanh nghiệp viết email cho HĐQT nói về các câu chuyện đã xảy ra. Mọi chuyện đã đi quá xa nên Raju tự thú “Mọi chuyện giống như ở trên lưng cọp, bạn không biết làm sao mà xuống được để không bị ăn thịt”.

Những tác nhân chính

Thiếu sự giám sát của HĐQT với các hoạt động của CEO (điểm yếu trong Quản trị Công ty) cùng sự thông đồng của Kiểm toán viên.

Chuyện vui

Vợ của Raju đã viết một cuốn sách để tặng Raju với chủ đề “Chủ nghĩa hiện sinh” (một tình trạng mất định hướng và bối rối khi đứng trước một thế giới có vẻ như vô nghĩa và phi lý).

Từ khóa » Những Vụ Gian Lận Kế Toán