Ảnh Hưởng Của Tư Tưởng Phật Giáo đến Suy Nghĩ Của Người Việt Nam

Ảnh minh họa. Nguồn: internet

1. Những giá trị hợp lý của tư tưởng Phật giáo tại nước ta

1.1 Sự hòa nhập của tinh thần từ bi, hỷ xả với tinh thần yêu nước Việt Nam

“Đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam là hệ thống giá trị truyền thống yêu nước, cần cù, thương người, vì nghĩa, anh hùng, sáng tạo và lạc quan, trong đó chủ nghĩa yêu nước là giá trị đạo đức tinh thần đứng đầu bảng trong giá trị truyền thống Việt Nam, truyền thống đó được hình thành trong quá trình hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Trong bối cảnh lịch sử ấy và những giá trị đặc trưng truyền thống ấy, Phật giáo muốn tồn tại và phát triển được ở Việt Nam tất nhiên phải có sự thích ứng hòa hợp”(1). Phật giáo với những giá trị xây dựng từ tinh thần đại từ, đại bi, cứu khổ, cứu nạn đã hòa quyện với tư tưởng yêu nước, nhân nghĩa Việt Nam. Sự hòa nhập của Phật giáo được thể hiện trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Đã có rất nhiều vị cao tăng là quốc sư, giúp vua trị nước, an dân thời phong kiến. Thời kỳ đầu của chế độ phong kiến, chùa chiền cũng là nơi đào tạo giới trí thức, dạy dân cách tổ chức đời sống.

1.2 Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo trong quan hệ ứng xử, giao tiếp

Đạo đức Phật giáo hòa nhập với các giá trị đạo đức của dân tộc trở thành phương tiện diễn đạt quan niệm đạo đức truyền thống của người Việt Nam. Các thuật ngữ như “từ bi, hỷ xả”, “vô ngã, vị tha”, “cứu nhân độ thế”, “tu nhân tích đức”, “sống nhân từ để phúc cho đời sau”… đã không còn nguyên nghĩa của riêng Phật giáo, mà trở thành một phần trong lẽ sống của người Việt, trở thành ngôn ngữ của đời sống thường ngày. Cách thức giao tiếp, ứng xử của người Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng rất lớn bởi các quan niệm Phật giáo. Nét phổ biến trong quan hệ ứng xử và giao tiếp của Phật giáo là cái thật, cái thiện ở cả thân, khẩu, ý. Trong bát chính đạo của Phật giáo, có chính ngữ (giữ cho lời nói được đúng mực), đó chính là một trong các điều kiện để mỗi con người có những ứng xử phù hợp với mọi người trong xã hội. Về ứng xử, giao tiếp trong gia đình, Phật giáo đề cao sự hòa thuận và trách nhiệm của các bậc cha mẹ, anh em, vợ chồng… đề cao sự hiếu thuận thông qua thực hiện Tứ ân. Điều này được thể hiện rất nhiều trong ca dao, tục ngữ Việt Nam: “Công cha như núi Thái Sơn/Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra/Một lòng thờ mẹ, kính cha/Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”, hay như: “Đi khắp thế gian, không ai tốt bằng mẹ/Gánh nặng cuộc đời, không ai khổ bằng cha” đã trở thành đạo lý, lẽ sống của người Việt.

1.3 Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo trong sự công bằng, bình đẳng

Tư tưởng bình đẳng, công bằng của Phật giáo khi du nhập và phát triển ở Việt Nam đã hòa nhập với tư tưởng, công bằng, bình đẳng của người Việt Nam. Cơ sở của sự ảnh hưởng hòa nhập này dường như bắt nguồn từ tư tưởng bình quân nguyên thủy của nền văn minh làng xã. Phật giáo chủ trương thiết lập quan hệ công bằng, bình đẳng giữa mọi người và cho rằng mọi người đều bình đẳng như nhau, trong mỗi người đều có phật tính; trong quan hệ với người khác, mỗi cá nhân không được cầu lợi cho mình… có ảnh hưởng rất lớn đối với quan niệm sống của người Việt, điển hình như: “Một người vì mọi người, mọi người vì một người”.

1.4 Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo về tính trung thực

Trong giáo lý của nhà Phật, tính trung thực thuộc vào giới “không nói dối” của ngũ giới. Thập thiện bao gồm: thực ở cả “thân, khẩu, ý”. Trung thực ở ý là trung tâm điều chỉnh hành vi theo luật nhân quả, nhân nào quả ấy. Theo đó, sự dối trá sẽ bị nghiệp báo. Thuyết nhân quả, nghiệp báo của Phật giáo gặp gỡ với tín ngưỡng của người Việt Nam đã lan tỏa thành nếp sống, nếp nghĩ “ở hiền gặp lành”, “ác giả ác báo”… trong nhân dân.

1.5 Ảnh hưởng trong tính thiện, tình nghĩa và tình thương

 Tính thiện, tình nghĩa và tình thương mang bản sắc Việt Nam được con người Việt Nam hun đúc trong quá trình dựng nước và giữ nước. Cái thiện của con người Việt Nam mang tinh thần bình đẳng, vị tha, tôn trọng, yêu thương con người. Phật giáo đã hòa đồng với tư tưởng truyền thống Việt Nam để xây dựng tính thiện, tình nghĩa và tình thương. Đó là, tình “thương người như thể thương thân”, “lá lành đùm lá rách”… Tình thương, tình nghĩa, tính thiện không chỉ thể hiện trong quan hệ với hiện tại mà còn được thể hiện trong quan hệ với quá khứ như: uống nước nhớ nguồn hoặc ăn quả nhớ kẻ trồng cây…

1.6 Ảnh hưởng trong tấm lòng bao dung rộng lớn

 Phật giáo đã góp phần cùng với dân tộc Việt Nam trong việc xây dựng tấm lòng bao dung rộng lớn, vô ngã, vị tha. Tinh thần bao dung rộng lớn được thể hiện trước lỗi lầm của con người. Trong cách ứng xử của người Việt thể hiện rất rõ như: “biển cả mênh mông, quay đầu là bờ”, “đánh kẻ chạy đi không ai đánh người chạy lại”… Tinh thần bao dung còn được thể hiện trong cách ứng xử với kẻ thù khi chúng bại trận, trong chính sách nhân đạo đối với tù binh, hàng binh...

1.7 Ảnh hưởng trong tinh thần tự lực, tự chủ của mỗi người

 Phật giáo khẳng định mỗi cá nhân là chủ nhân của chính mình, không phải làm nô lệ của người khác kể cả nô lệ cho đức Phật, hãy “tự đốt đuốc mà đi”. Tư tưởng này của Phật giáo khiến con người được giải phóng khỏi sự trói buộc của thần quyền, nhờ đó mà được tự do. Chính con người phải tự quyết định số phận và tiền đồ của chính mình. Quan điểm tự lực, tự chủ của Phật giáo đã góp phần xác định thêm cho tinh thần tự lực, tự chủ của mỗi người Việt Nam.

2. Những hạn chế

Bên cạnh những tác động tích cực, Phật giáo cũng có những tác động tiêu cực không nhỏ tới đời sống của người Việt Nam. Với cách nhìn cuộc đời là bể khổ không bờ bến, thoát khổ bằng tu tâm, dưỡng tính để diệt trừ vô minh đạt giác ngộ, Phật giáo đưa lại quan niệm sống bi quan, yếm thế, coi cuộc đời chỉ là phù hoa, thoảng qua, là sống gửi, thác về. Nhìn cuộc đời một cách bi quan, thụ động nên không ít người Việt dễ chùn bước khi gặp khó khăn, sống buông trôi cho qua ngày, đoạn tháng với niềm tin chỉ lo tu tâm, dưỡng tính là đủ. Khi gặp trắc trở một số người Việt thường nghĩ đến số phận, nghiệp chướng, nhân quả, khiến con người hình thành tính cách bị động, ít chịu vươn lên, hạn chế năng lực đấu tranh xã hội của những con người hiện thực, thậm chí thờ ơ, do dự đối với cái tiêu cực, cái ác đang gây bất bình trong xã hội; không tin tưởng vào hoạt động đấu tranh tích cực cải tạo, chống tiêu cực trong xã hội, mà chờ đợi, tin vào nhân quả tự đến.

Như vậy, từ đánh giá sự ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đến giá trị truyền thống của người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, cần phải có quan điểm duy vật biện chứng cũng như nhận thức và vận dụng đúng quan điểm của triết học Mác - Lênin về tính hai mặt của tôn giáo. Các nhà kinh điển của chủ ngĩa Mác - Lênin khi bàn về tôn giáo đã đề cập đến vấn đề đạo đức tôn giáo không những phê phán mặt tiêu cực mà còn chỉ ra một số ý nghĩa tích cực của đạo đức tôn giáo. Tuy nhiên, trong bối cảnh lịch sử khi đó, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin thường xem xét tôn giáo gắn với thực tiễn đấu tranh giai cấp ở châu Âu, phục vụ cho yêu cầu cách mạng của giai cấp vô sản nên phải bàn nhiều đến mặt tiêu cực của tôn giáo, mà chưa có điều kiện đi sâu nghiên cứu các khía cạnh tích cực của văn hóa, tâm lý, tình cảm, đạo đức tôn giáo.

3. Phát huy tính hợp lý của Phật giáo trong xây dựng đời sống văn hóa hiện nay

Trong giai đoạn hiện nay, cần có sự đánh giá đầy đủ những giá trị và ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đối với con người Việt Nam, từ đó kế thừa, phát huy những giá trị của tư tưởng Phật giáo.

Tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng, ngoài mặt tiêu cực còn có những “hạt nhân hợp lý” hiện vẫn còn phù hợp với xã hội. Đó là mặt văn hóa, đạo đức và đáp ứng được yêu cầu đời sống tâm linh của con người. Đảng ta đã khẳng định: “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo”(2). Trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Phật giáo vẫn giữ khả năng tự biến đổi và thích nghi theo xu hướng đi cùng với dân tộc, sống “tốt đời đẹp đạo”, “đồng hành cùng dân tộc”, “Đạo pháp - dân tộc - xã hội chủ nghĩa”. Quan điểm này của Đảng và Nhà nước ta cần phải được phát huy thành các định hướng cụ thể trên tinh thần khai thác các yếu tố văn hóa, đạo đức, tinh thần tích cực của Phật giáo. Trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế hiện nay, tư tưởng Phật giáo đang góp phần cùng pháp luật chống lại những biểu hiện tiêu cực, phi nhân tính trong sản xuất, kinh doanh, phai nhạt bản sắc dân tộc trong đời sống xã hội, góp phần phát huy những nét đẹp trong quan hệ giữa con người với con người; xây dựng và điều chỉnh nhân cách con người Việt Nam trong thời đại mới vừa hiện đại vừa giàu bản sắc dân tộc.

Những điều kiện về kinh tế, xã hội, nhận thức, tâm lý là cơ sở cho Phật giáo phát triển vẫn còn tồn tại trong xã hội hiện đại. Hơn nữa, bản thân Phật giáo cũng không ngừng tự vận động biến đổi cho phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện mới. Vì vậy, cần phải có quan điểm khoa học để nghiên cứu một cách toàn diện những cơ duyên tồn tại và phát triển của Phật giáo. Đây cũng là cơ sở để tiếp tục khái quát, tìm ra những ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo, từ đó có quan điểm, biện pháp phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của tư tưởng Phật giáo đến suy nghĩ, lối sống của người Việt Nam hiện nay.

ThS. Nguyễn Thị Huyền Chi - Đại học Điện lực

------------------------------------

Ghi chú:

(1) Trần Văn Giàu, Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, H.1980, tr.145.

(2) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H.2016, tr.165.

Tài liệu tham khảo:

1. Nguyễn Duy Hinh, Tư tưởng Phật giáo Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, H.1999.

2. Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên), Những vấn đề về lý luận tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, H.2012.

tcnn.vn

Từ khóa » Tích Cực Và Hạn Chế Của Phật Giáo