Bài Thơ: Á Tế Á Ca (Tăng Bạt Hổ - 曾拔虎) - Thi Viện

Thi Viện ×
  • Tên tác giả/dịch giả
  • Tên bài thơ @Tên tác giả
  • Nội dung bài thơ @Tên tác giả
  • Tên nhóm bài thơ @Tên tác giả
  • Tên chủ đề diễn đàn
  • Tìm với Google
Toggle navigation
  • Tác giả
    • Danh sách tác giả
    • Tác giả Việt Nam
    • Tác giả Trung Quốc
    • Tác giả Nga
    • Danh sách nước
    • Danh sách nhóm bài thơ
    • Thêm tác giả...
  • Thơ
    • Các chuyên mục
    • Tìm thơ...
    • Thơ Việt Nam
    • Cổ thi Việt Nam
    • Thơ Việt Nam hiện đại
    • Thơ Trung Quốc
    • Đường thi
    • Thơ Đường luật
    • Tống từ
    • Thêm bài thơ...
  • Tham gia
    • Diễn đàn
    • Các chủ đề mới
    • Các chủ đề có bài mới
    • Tìm bài viết...
    • Thơ thành viên
    • Danh sách nhóm
    • Danh sách thơ
  • Khác
    • Chính sách bảo mật thông tin
    • Thống kê
    • Danh sách thành viên
    • Từ điển Hán Việt trực tuyến
    • Đổi mã font tiếng Việt
Đăng nhập ×

Đăng nhập

Tên đăng nhập: Mật khẩu: Nhớ đăng nhập Đăng nhập Quên mật khẩu? Đăng nhập bằng Facebook Đăng ký 104.60Thể thơ: Song thất lục bátThời kỳ: Cận đại1 bài trả lời: 1 bình luận1 người thíchTừ khoá: tác giả tồn nghi (256) yêu nước (34) Đông Kinh nghĩa thục (20) Duy Tân (4)

Tuyển tập chung

- Thi văn quốc cấm thời thuộc Pháp (1968) » Phần thi ca
  • Chia sẻ trên Facebook
  • Trả lời
  • In bài thơ

Một số bài cùng từ khoá

- Giang hành vô đề kỳ 098 - Vạn mộc dĩ thanh sương (Tiền Hử)- Thuật hứng bài 1 (Nguyễn Trãi)- Trúc Bạch hồ (Hồ Xuân Hương)- Cần phải học đúng (Nguyễn Phan Lãng)- Vợ khuyên chồng (Khuyết danh Việt Nam)

Một số bài cùng tác giả

- Gặp cô đầu Trang- Như đông thời tác

Một số bài cùng nguồn tham khảo

- Cảnh mới nhà Thương Bạc (Nguyễn Phúc Ưng Bình)- Đám tang bà Bông bài 2 (Phan Điện)- Thu nhật nhàn toạ (Nguyễn Thị Du)- Chùa Ông Núi (Bích Liên hoà thượng)- Một bộ áo gấm, ba tấm nhiễu vuông (Khuyết danh Việt Nam)

Đăng bởi Lịch Sử Việt vào 12/08/2013 17:02, đã sửa 2 lần, lần cuối bởi tôn tiền tử vào 30/12/2018 09:11

(Từ Nhật Bản ký hồi Thống sứ phủ)Á Tế Á năm châu là bậc nhất,Người nhiều hơn mà đất cũng rộng hơn.Cuộc đời mở hội doanh hoàn,Anh hùng bốn bể giang san một nhà.Gẫm từ thuở Âu La tìm đất,Vượt Chi Na qua Nhật đến Triều Tiên.Xiêm La, Ấn Độ gần liền,Cao Miên, Đại Việt thông miền Ai Lao.Thịt một miếng trăm dao xâu xé,Chiếc kim âu chẳng mẻ cũng khôn lành.Tôi con Pháp, tớ thầy Anh,Nín hơi Đại Đức, nép mình cường Nga.Gương Ấn Độ còn xa đâu đó,Chẳng máu đào, nhưng cũng họ da vàngMênh mông một dải Đông Dương,Nước non quanh quất trông càng thêm đau.Cờ tự lập đứng đầu phất trước,Nhật Bản kia vốn nước đồng văn,Thái Đông nổi hiệu duy tân,Nhật Hoàng là đấng anh quân ai bì?Dòng Thần Vũ riêng về một họ,Vùng Phù Tang soi tỏ góc trời,Kể đời trăm hai mươi hai,Năm hai nghìn lẻ năm mươi có thừa.Sẵn cơ hội trời đưa lại đó,Chốn kinh thành Thần Hộ mới dời sang.Dẹp Mạc Phủ, bỏ phiên bang,Đổi dòng chính sóc, thay đường y quan.Khắp trong nước dân đoàn xã hội,Nhà học đường đã ngoại ba muôn.Việc kỹ nghệ, việc bán buôn,Nơi lò hấp bát, nơi khuôn đúc đồng.Chè, lụa, tơ, gai, bông, nhung, vũ,Mọi đồ sơn, vân mẫu, pha lê.Dao với quạt, tán với xe,Đủ mùi hải lục, hợp nghề nông thương.Bốn lăm triệu kể lương dân số,Các sắc quân ước độ triệu người.Chu vi mặt đất rộng dài,Tính vuông Pháp lý bốn mươi vạn thừa.Bốn mốt huyện năm xưa mới đổi,Đầu Nại Xuyên mà cuối Lộc Nhi.Đông Kinh ba phủ cận kỳ,Ngoài thì Đại Bản, trong thì kinh đô.Tỉnh Bắc Hải dư đồ quanh bể,Huyện Xung Thằng chưa kể đất Lưu Cầu.Gò Đối Mã bốn bể sâu,Nghiêm Đồng đặt súng, Trúc Phu đỗ tàu.Nhà dây thép đâu đâu cũng đặt,Truyền thông thương khắp mặt ngoại dương.Kìa thiết lộ, nọ ngân hàng,Đăng đàn, báo quán, ngổn ngang phụ đầu.Cuộc biến pháp năm đầu Minh Trị,Ba mươi năm dân trí mở mang,Chữ Hán tự, chữ Tây dương,Mọi bài diễn thuyết, các phường chuyên môn.Đất Đại Bản mở đồn đúc súng,Xưởng Đông Kinh riêng cũng một toà.Trường Kì thuyền cục mấy nhà,Dã Tân, Tu Hạ ấy là hải quân.Tàu với súng trăm phần chấn chỉnh,Lại ngư lôi bác đĩnh ai tày.Quan quân luyện tập đêm ngày,Mọi nghề so với Thái Tây kém gì.Đội mã bộ, lục sư các trấn.Từ Hà Di đến tận Tát Ma.Tám đạo rộng, bốn gò xa,Phú sơn cao ngất, Tỳ Bà trong veo.Tướng, tá, uý, cũng theo Tây lệ,Đủ vương binh, pháo vệ chỉnh tề,Đồng bào nghĩa khí gớm ghê,Cái thù nô lệ, ắt thề giả xong.Năm Giáp Ngọ đùng đùng sóng gió,Vượt quân sang thẳng trỏ Đại Hàn.Quân Lục Áo, tướng Thái Sơn,Ra tay cho biết cái gan anh hùng.Đông tam tỉnh thu trong tay áo,Bọn trắng da ngơ ngáo giật mình,Cuộc hoà đâu bất thình lình,Chủ trương này dễ Nga đình vẽ khôn.Bụng ái quốc ghê hồn Nhật Bản,Giận xung quan khôn cản nghĩa đồng cừu.Đã toan trở súng quay tàu,Y Đằng can khéo mưu sâu vãn hồi.Nhận bồi khoản Bành, Đài nhượng địa,Trong mười năm rồi sẽ chịu nhau.Nga kia nước lớn lại giàu,Bên giường giấc ngáy, dễ hầu chịu yên,Hàn với Mãn lợi quyền thu sạch,Xe Nhĩ Tân, tàu lạch Sâm Uy.Cõi Đông đương cuộc an nguy,Có ta, ta phải phù trì chúng ta.Việc khai hấn chắc là quyết liệt,Đất Á Đông thấy huyết phen này.Giáp Thìn trong tháng Chạp tây,Chiến thư hai nước đợi ngày giao tuy.Trận thứ nhất Cao Ly lừng tiếng,Khắp toàn cầu muôn miệng đều khen.Sa trường xung đột mấy phen,Ngọn cờ Áp Lục, tiếng kèn Liêu Đông.Châu Lữ Thuận mơ màng khói bạc,Thành Phụng Thiên ngơ ngác non xanh.Hải quân một trận tan tành,Thái Hoa cắt núi, Đông Thanh xẻ đường.Sức hùng vũ ai đương lại được,May điều đình có nước Hoa Kỳ.Khéo điều hoà cuộc giải vi,Nếu không Bỉ Đắc còn đâu là đời.Hội vạn quốc diễn bài thương nghị,Chấu mới voi chuyện cũng nực cười.Xem trong hoà khoản mười hai,Bề nào Nga cũng chịu lui trăm phần.Cuộc tang hải khuất thân từng lúc,Áng liệt cường nay cũng chen vai.Khen thay Nhật Bản anh tài,Từ nay danh dự còn dài về sau.Ngồi mà nghĩ thêm sầu lại tủi,Nước Nam mình gặp buổi truân chuyên.Dã man quen thói ngu hèn,Cũng như Minh Trị dĩ tiền khác đâu.Từ giống khác mượn màu bảo hộ,Mưu hùm tinh, lừa lũ voi già.Non sông thẹn với nước nhà,Vua là tượng gỗ, dân là thân trâu.Việc dây thép, việc tàu, việc pháo,Việc luyện binh, việc giáo học trường,Việc công nghệ, việc nông thương,Việc khai mỏ khoáng, việc đường hoả xa.Giữ các việc chẳng qua người nước,Kẻ chức bồi, người tước culi.Thông ngôn kí lục chi chi,Mãn đời lính tập, trọn vì quan sang.Các thức thuế các làng thêm mãi,Hết đinh điền rồi lại trâu bò.Thuế chó cũi, thuế lợn bò,Thuế diêm, thuế tửu, thuế đò, thuế xe.Thuế các chợ, thuế trà, thuế thuốc,Thuế môn bài, thuế nước, thuế đèn.Thuế nhà cửa, thuế chùa chiền,Thuế rừng tre gỗ, thuế thuyền bán buôn.Thuế gò, thuế bãi, thuế cồn,Thuế người chức sắc, thuế con hát đàn.Thuế dầu mật, thuế đàn đĩ thoã,Thuế gạo rau, thuế lúa, thuế bông.Thuế tơ, thuế sắt, thuế đồng,Thuế chim, thuế cá, khắp trong lưỡng kỳ.Các thức thuế kể chi cho xiết,Thuế xia kia mới thật lạ lùng,Làm cho thập thất cửu không,Làm cho xơ xác, khốn cùng chưa thôi.Lại nghe nỗi Lào Cai, Yên Bái,So muôn người như giải lũ tù.Ăn cho ngày độ vài xu,Việc làm gian khổ, công phu lạ lùng.Độc thay phong chướng nghìn trùng,Nước sâu quẳng xác, hang cùng chất xương.Nỗi diệt giống bề lo bề sợ,Người giống ta biết có còn không?Nói ra sởn gáy động lòng,Cha con khóc lóc, vợ chồng thở than.Cũng có lúc bầm gan tím ruột,Vạch trời kêu mà tuốt gươm ra.Cũng xương cũng thịt cũng da,Cùng hòn máu đỏ, giống nhà Lạc Long.Thế mà chịu trong vòng trói buộc,Bốn mươi năm nhơ nhuốc lầm than.Thương ôi! Bách Việt giang san,Văn minh đã sẵn, khôn ngoan có thừa.Hồn mê mẩn tỉnh chưa, chưa tỉnh?Anh em ta phải tính nhường sao.Đôi bên, bên nọ, bên cừu,Họ khôn phải học, cừu sâu phải đền.Việc tân học phải đem dựng nước,Hội dân đoàn, cả nước với nhau.Sự buôn phải lấy làm đầu.Mọi nghề cũng ghé địa cầu một vai.Bây giờ kể còn dài chưa hết,Chữ tự do xin kết bên lòng.Gương Nhật Bản đất Á Đông,Giống ta, ta phải soi trông kẻo nhầm.Bốn mươi triệu đồng tâm nhất đức,Mãnh hổ kia đem sức với quần dương.Hiệu cờ nổi chữ tự cường,Thay bầy nô lệ làm phường văn minh.Kìa thuở trước như Anh, Pháp, Đức,Cũng chẳng qua cùng cực tắc thông,Hoạ may trời có chiều lòng,Việt Nam dựng lại, phương Đông có mình.Thân phiêu bạt đã đành vô lại,Bấy nhiêu năm Thượng Hải, Hoành Tân.Chinh Nga nhân lúc hoàn quân,Tủi mình bô bá, theo chân khải hoàn.Bưng chén rượu ân ban hạ tiệp,Gạt hàng châu khép nép quỳ tâu,Thiên Nam mù mịt ngàn dâu,Gió Tây như thồi dạ sầu năm canh.Biết bao nỗi bất bình khôn giải.Mượn bút hoa mà cải quốc âm,Thân giàn bao quản cát lầm,Khuyên ai đúc chữ đồng tâm sau này.

1906Theo bản của Võ Văn Sạch sưu tầm được. Á Tế Á ca nghĩa là bài ca Châu Á, còn có tên gọi khác là Đề tỉnh quốc dân ca (Bài ca thức tỉnh quốc dân), Nam hải bô thần ca (Bài ca của một bề tôi trốn tránh người biển Nam), là một bài thơ diễn ca yêu nước được lưu truyền tại Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Trong ba tên gọi khác nhau đã biết của bài thơ tên gọi Á Tế Á ca được nhiều người biết đến hơn cả.Về tác giả của bài ca, cho đến nay người thì cho là tham tán Nguyễn Thiện Thuật, người khác thì cho là Tăng Bạt Hổ, Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền, Dương Bá Trạc, Trần Tán Bình. Theo Quách Tấn (trong Hương vườn xưa), năm 1905 thì Nguyễn Thiện Thuật, Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền đều không ở Nhật. Thêm nữa, đoạn kết đã kể rõ việc “đổng khốc” khi Nhật hoàng ban rượu là câu chuyện được kể nhiều về Tăng Bạt Hổ.Tăng Bạt Hổ sau khi phong trào Cần Vương tan rã đến cùng Lưu Vĩnh Phúc. Sau làm thuỷ thủ một tàu buôn, qua lại Trường Kỳ, Hoành Tân, rồi xung vào thuỷ quân Nhật Bản. Ông có công lớn trong các trận Đại Liên, Lữ Thuận, được Nhật hoàng thưởng huy chương quân công. Trong bữa tiệc Nhật hoàng khao thưởng các tướng sĩ thắng trận năm 1905, ông có tham dự. Nhật hoàng tự rót rượu thưởng, ông uống cạn rồi khóc lớn, kể nỗi nước mất nhà tan, ai nghe cũng cảm động. Sau đó ông xin viện binh về Việt Nam đánh Pháp, Thủ tướng Khuyển Dưỡng Nghị khuyên nên lo phát triển tinh thần duy tân trong nước trước đã, và hứa giúp du học sinh Việt Nam được phép cư trú ở Nhật và được miễn học phí. Ông sau đò bèn về nước cùng Phan Bội Châu gây phong trào Đông Du.[Thông tin 3 nguồn tham khảo đã được ẩn] Xếp theo: Ngày gửi Mới cập nhật

Trang 1 trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)[1]

Ảnh đại diện

Lời bình của Quách Tấn

Gửi bởi tôn tiền tử ngày 02/01/2019 09:37

Nhưng lối văn biền ngẫu này không có tánh cách bình dân, chỉ để cổ động trong hàng trí thức. Phổ biến trong dân chúng, là lối lục bát, song thất lục bát, vè, thơ Đường luật.Như những bức thư máu của cụ Phan Sào Nam ở hải ngoại gởi về, như bài Đề tỉnh quốc dân của cụ Tăng Bạt Hổ ở Nhật Bản, v.v… Những áng văn này đã gây một ảnh hưởng lớn trong nước. Thật chẳng khác những tiếng chuông khua, tiếng trống gióng, vang dội lúc canh khuya, khiến quốc dân đương bị bọn Thực Dân Phong Kiến ru ngủ say mê, vùng tỉnh dậy…Đây thử trích đôi đoạn trong bài Đề tỉnh quốc dân của cụ Tằng Bạt Hổ:

Á Tế Á năm châu là bậc nhất,Người đã nhiều, đất đai lại rộng hơn.Cuộc đời mở hội doanh hoàn,Anh hùng bốn bể giang san một nhà.Gẫm từ thuở Âu Ba tìm đến,Việc chiến tranh qua Nhật đến Triều TiênXiêm La Diến Điện gần liên,An Nam, Chân Lạp thẳng miền Ai Lao.Thịt một tấm trăm dao cắt xé,Chiếc Kim âu chẳng mẻ cũng không lànhTôi con Pháp, tớ thầy Anh,Nín hơi Đại Đức, nép mình Cường Nga!Gương Ấn Độ có xa chi đó,Chẳng máu đào cũng họ da vàng.Mênh mông một giải Đông Dương,Nước non quanh quất trông càng thêm đau.
Đó là khúc đầu nói đại lược về cảnh sống chung hoà bình của dân tộc cõi Á Đông trước khi người  La Ba, tức người Âu Châu đến, và cảnh chiến tranh do người Âu gieo vào Đông Á.Đoạn thứ hai, nói đến nước Nhật đứng dậy đánh Nga và thắng một cách vẻ vang. Trong đoạn này có nhiều câu rất hay. Như:
Trận thứ nhất Cao Ly lừng tiếng,Khắp hoàn cầu muôn miệng đều khen.Sa trường xung đột mấy phen,Ngọn cờ Áp Lục tiếng kèn Liêu Đông.Cửa Lữ Thuận trập trùng sóng bạc,Thành Phụng Tiên ngơ ngác khói xanh.Hải quân một trận tan tành,Thái Hoà cắt nẻo, Đông Kinh rẽ đường.
vân vân…Sau khi ca tụng chí quật cường và tinh thần chiến đấu của người Nhật Bản, tác giả ngoảnh lại cảnh đất nước Việt Nam:
Càng nghĩ lại thấm lâu càng tủi,Nước Nam nhà gặp buổi truân chuyên.Trăm quan quen thói ngu hèn,Vua là tượng gỗ, dân là thân trâu…
Đó là người nước… Vì người nước như thế nên việc nước đều ở trong tay Thực Dân Pháp. Chúng muốn làm gì thì làm. Từ vua quan chí dân đều là đầy tớ của chúng, “Kẻ chức Bồi, người chức cu ly”. Chúng lại đánh nhiều thứ thuế lạ lùng:
Nhiều hạng thuế kể sao cho xiết,Thuế “xi” kia mới thiệt lạ lùng!
Thuế xi là thuế nhà xí! Không món gì sản xuất ra mà không đánh thuế, không việc gì làm ra mà không chịu thuế! Cho đến cái thứ hôi thúi kia mà cũng đánh thuế. Chánh sách của Thực Dân cay nghiệt biết bao nhiêu!Bởi vậy tác giả mới kêu gọi đồng bào mau tỉnh dậy:
Thật lắm lúc bầm gan tím ruột,Vạch trời kêu mà tuốt gươm ra.Cũng xương cũng thịt cũng da,Cũng hòn máu đỏ, con nhà Lạc Long.Thế mà chịu trong vòng trói buộc,Mấy mươi năm nhơ nhuốc lầm thanThan ôi! Bách Việt hà sanThông minh đã sẵn khôn ngoan có thừa.Hồn mê mộng tỉnh chưa? Chưa tỉnh!Anh em mình phải tính sao đây?
Tác giả khuyên phải học cái hay cái giỏi của nước ngoài, phải chú trọng kỹ nghệ, thương mãi…, phải lập liên đoàn để bênh vực quyền lợi cho nhau…, phải mở mang việc học hành, lấy Nhật Bản và Lang Sa làm gương, chớ không cần tìm kiếm đâu xa. Nếu chúng ta kết một lòng lo với nhau, thì:
Đường học thức dân đà mở rộng,Người Lang Sa rồi cũng nể nang.May ra được chữ bình hàng,Trời Nam đứng vững phương đông một mình.
Bài văn kết thúc bằng mấy câu nói qua thân thế tác giả từ lúc xa quê hương, và nỗi lòng lúc được vua Nhật thưởng công đã giúp Nhật Bổn đánh Nga:
Thân phiêu bạt đã đành vô lại,Mấy năm nay Thượng Hải Hoành Tân.Chinh Nga những lúc tùng quân,Chút thân bồ bá theo chân khải hoàn.Nâng chén rượu ơn ban hạ thiệp,Gạt hàng châu khép nép quì tâu:Trời Nam mù mịt ngàn dâuGió thu như thổi dạ sầu năm canh!Biết bao nỗi bất bình chứa mãi,Mượn bút hoa mà giải quốc âm,Tấm thân bao quản cát lầm,Khuyên ai đúc chữ đồng tâm sau này…
Đoạn kết văn chương cảm động nhất, và dư vị làm cho những ý tứ ở các đoạn trên thêm thấm thía vào lòng người.Như trên đã nói, bài này cũng như những bài Hải ngoại huyết thư của cụ Phan Sào Nam đã gây ảnh hưởng sâu rộng trong đám sỹ phu và một số đông công dân, nông dân. Lòng yêu nước yêu nòi bị khích động, và bầu không khí Cách Mạng lần lần lan rộng từ Bắc vào Nam…Gây được ảnh hưởng lớn như vậy là nhờ văn chương một phần. Một phần nữa, có lẽ là phần lớn hơn, là do người viết ra những áng văn chương ấy. Người viết vốn là người có thành tâm nhiệt huyết. Nguồn nhiệt thành của tác giả trào sang văn chương, tạo nên những lời nồng nàn thành thật, đủ sức truyền cảm, rung cảm người đọc người nghe. Phan Sào Nam, Nguyễn Thiện Thuật… là những bậc chí sỹ suốt đời hy sinh cho dân cho nước, một lời nói ra là xuất tự đáy lòng, mang từng giọt lệ, từng giọt máu, chớ đâu phải lời nói đầu môi. Bởi vậy những lời các cụ nói ra thường thường được đại đa số đồng bào hưởng ứng.Chứ những lời nói của những kẻ chứa đầy tham vọng cá nhân, đặt quyền lợi cá nhân lên trên quyền lợi Tổ Quốc, vì một chút hư danh một chút quyền lợi, có thể bán cả Dân Tộc cho kẻ thù…, thì dù có hay đến đâu, có khéo đến đâu, cũng không làm cho người tin tưởng được.Cho nên văn chương tuyên truyền, muốn gây được ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng, thì trước hết phải chân thật. Nghĩa là không có ý phỉnh phờ lừa dối, và nhất là người viết ra nói ra phải là người có đạo đức để khỏi bị phạm điều “xảo ngôn lịnh sắc” làm giảm hiệu lực của văn chương.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]tửu tận tình do tại 55.00Chia sẻ trên FacebookTrả lời

© 2004-2024 VanachiRSS

Châu Á, phiên âm từ “Asie”. Âu La Ba - châu Âu, phiên âm từ “Europe”. Kể từ khi lập quốc đến nay có 2500 năm lịch sử và trải qua 122 đời vua cùng họ. Kobe. Thủ lĩnh của chư hầu thường lấn át quyền vua. Những nước chư hầu nhỏ. Quần đảo Ryukyu ở phía nam Nhật Bản, nay là Okinawa. Cột đèn bể, nhà bán báo, đầy rẫy ở bến tàu (phụ đầu). Pháo thuyền nhỏ, có đặt súng đại bác. Núi Phú Sĩ (Fuji) gần Kyoto. Hồ Biwa gần Kyoto. Năm 1894. Cả đoạn thơ này nói về việc tranh chấp giữa Trung-Nhật thời đó. Tức ba tỉnh miền đông Trung Quốc là Phụng Thiên, Cát Lâm, Hắc Long Giang. Tức Ito, thủ tướng Nhật thời đó. Chỉ Triều Tiên và Mãn Châu bị xâm chiếm. Đường xe lửa Cáp Nhĩ Tân và bến tàu thuỷ hải Sâm Uy. Thành phố Saint Péterbourg, thủ đô Nga. Ý câu này nói Nga có thề mất cả kinh đô. Chỉ việc làm đường xe lửa Yên Bái-Lào Cai. Trốn tránh. Tiệc tượu vui mừng chiến thắng.

Từ khóa » Than ôi Bách Việt Giang San