Bài Thơ: Việt Bắc (Tố Hữu - Nguyễn Kim Thành) - Thi Viện
Có thể bạn quan tâm
- Tên tác giả/dịch giả
- Tên bài thơ @Tên tác giả
- Nội dung bài thơ @Tên tác giả
- Tên nhóm bài thơ @Tên tác giả
- Tên chủ đề diễn đàn
- Tìm với Google
- Tác giả
- Danh sách tác giả
- Tác giả Việt Nam
- Tác giả Trung Quốc
- Tác giả Nga
- Danh sách nước
- Danh sách nhóm bài thơ
- Thêm tác giả...
- Thơ
- Các chuyên mục
- Tìm thơ...
- Thơ Việt Nam
- Cổ thi Việt Nam
- Thơ Việt Nam hiện đại
- Thơ Trung Quốc
- Đường thi
- Thơ Đường luật
- Tống từ
- Thêm bài thơ...
- Tham gia
- Diễn đàn
- Các chủ đề mới
- Các chủ đề có bài mới
- Tìm bài viết...
- Thơ thành viên
- Danh sách nhóm
- Danh sách thơ
- Khác
- Chính sách bảo mật thông tin
- Thống kê
- Danh sách thành viên
- Từ điển Hán Việt trực tuyến
- Đổi mã font tiếng Việt
Đăng nhập
Tên đăng nhập: Mật khẩu: Nhớ đăng nhập Đăng nhập Quên mật khẩu?
Đăng nhập bằng Facebook Đăng ký Bình luận nhanh 14
Bạn đang bình luận với tư cách khách viếng thăm. Để có thể theo dõi và quản lý bình luận của mình, hãy đăng ký tài khoản / đăng nhập trước.
Tên của bạn: Thông tin liên hệ: Xác nhận bạn không phải người máy: Gửi bình luận
Nhan Tran Nhan10/07/2025 20:33Nhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh. Ấy vậy mà khi đất nước thống nhất ....
Tom Mai04/08/2024 22:08 Đoạn trích "Nhớ Việt Bắc" (SGK Tiếng Việt 3 cũ): "Ta về, mình có nhớ ta Ta về, ta nhớ những hoa cùng người. Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng. Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang. Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình Rừng thu trăng rọi hoà bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung. Nhớ khi giặc đến giặc lùng Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây. Núi giăng thành luỹ sắt dày Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù Mênh mông bốn mặt sương mù Đất trời ta cả chiến khu một lòng." Đoạn trích "Nhớ Việt Bắc" (SGK Tiếng Việt 3 cũ): "Ta về, mình có nhớ ta Ta về, ta nhớ những hoa cùng người. Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng. Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ…
Dee04/10/2021 20:21Thơ ca như là một phương diện để bày tỏ để bộc lộ, để viết một bài" nịnh" hài hòa về nghệ thuật lẫn nội dung như thế này trước hết là phải có 1 tình cảm tha thiết nồng nàn,sâu đậm và những tình cảm đó khó mà người ngoài hiểu hết được.
Chuong Tue06/05/2020 19:21Tính cách đăc biêt thơ TÔ HỮU là nịnh, nên mất tính trung thực, khó hay được. Lòi thật mất lòng! hlh
Nguyễn Thị Thanh Hà01/01/2020 22:12rất hay
Lê Sỹ Thiệp18/10/2019 05:07 “Việt Bắc” thì KHỎI CẦN KHEN Bao nhiêu “Giấy- Mực- Sách- Đèn” ngợi ca Chỉ hiềm một “ TÍ THÔI MÀ” Cớ sao sông Đáy chảy qua miền này Việt Bắc đâu phải Hà Tây Hà – Nam- Ninh dải đất này Khu III* Mấy dòng trích PÉT- ĐIA(Wikipedia) Anh Lành xem nhé, liệu ta có nhầm Hay là sông Chảy, sông Gâm “Chính tông Việt Bắc” quê “BẦM”** ĐÓ NGHE * “Bầm ơi”- Thơ TH ** Wikipedia: Sông Đáy là dòng sông chảy suốt qua các tỉnh thành Hà Nội, Hà Nam, Ninh Bình và Nam Định. Dòng sông chảy song song bên hữu ngạn hạ lưu sông Hồng.[1][2][3] Sông Đáy là một trong những con sông dài ở miền Bắc Việt Nam, và là con sông chính của lưu vực sông Nhuệ - Đáy ở phía tây nam vùng châu thổ sông Hồng. Trong lưu vực sông Đáy có nhiều sông khác như sông Tích, sông Nhuệ, sông Bùi, sông Bôi, sông Lạng, sông Hoàng Long, sông Sắt, sông Vạc, sông Nam Định, liên quan đến nhau nên đã được quy hoạch thủy lợi chung vào hệ thống sông Đáy. ) Lê Sỹ Thiệp “Việt Bắc” thì KHỎI CẦN KHEN Bao nhiêu “Giấy- Mực- Sách- Đèn” ngợi ca Chỉ hiềm một “ TÍ THÔI MÀ” Cớ sao sông Đáy chảy qua miền này Việt Bắc đâu phải Hà Tây Hà – Nam- Ninh dải đất này Khu III* Mấy dòng… Xem thêm... ☆☆☆☆☆ 11284.36Thể thơ: Lục bátThời kỳ: Hiện đại11 bài trả lời: 2 thảo luận, 9 bình luận109 người thíchTừ khoá: kháng chiến (204) Ngữ văn 12 [2007-2020] (12) thơ sách giáo khoa (673) Văn học 12 [1990-2006] (30) Việt Bắc (30)Tuyển tập chung
- Thơ Việt Nam 1945-1985 (1985)- Trả lời
- In bài thơ
- Tài liệu đính kèm 5
Một số bài cùng từ khoá
- Vội vàng (Xuân Diệu)- Tây Tiến (Quang Dũng)- Sóng (Xuân Quỳnh)- Bếp lửa (Bằng Việt)- Đồng chí (Chính Hữu)Một số bài cùng tác giả
- Lượm- Từ ấy- Bác ơi!- Người con gái Việt Nam- Khi con tu húMột số bài cùng nguồn tham khảo
- Lượm (Tố Hữu)- Từ ấy (Tố Hữu)- Khi con tu hú (Tố Hữu)- Bầm ơi! (Tố Hữu)- Hoan hô chiến sĩ Điện Biên (Tố Hữu)Đăng bởi Vanachi vào 30/06/2006 16:35, đã sửa 2 lần, lần cuối bởi demmuadong vào 09/10/2006 20:28
Tìm hiểu nhà thơ Tố Hữu với bài thơ Việt BắcĐang tải...
Giọng đọc Hướng DươngĐang tải...
NS Châu Loan & NS Trần Thị Tuyết song ngâmĐang tải...
Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo trong một phiên họp tại chiến khu Việt Bắc, chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên PhủĐang tải...
Chủ tịch Hồ Chí Minh với Đoàn đại biểu Nam Bộ từ chiến trường miền Nam ra chiến khu Việt Bắc báo cáo về quyết định kháng chiến của đồng bào và chiến sĩ miền Nam (10/1949)- Mình về mình có nhớ ta?Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.Mình về mình có nhớ khôngNhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?Tiếng ai tha thiết bên cồnBâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước điÁo chàm đưa buổi phân lyCầm tay nhau biết nói gì hôm nay...- Mình đi, có nhớ những ngàyMưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?Mình về, có nhớ chiến khuMiếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?Mình về, rừng núi nhớ aiTrám bùi để rụng, măng mai để già.Mình đi, có nhớ những nhàHắt hiu lau xám, đậm đà lòng sonMình về, còn nhớ núi nonNhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt MinhMình đi, mình có nhớ mìnhTân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?- Ta với mình, mình với taLòng ta sau trước mặn mà đinh ninhMình đi, mình lại nhớ mìnhNguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...Nhớ gì như nhớ người yêuTrăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nươngNhớ từng bản khói cùng sươngSớm khuya bếp lửa người thương đi về.Nhớ từng rừng nứa bờ treNgòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.Ta đi, ta nhớ những ngàyMình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...Thương nhau, chia củ sắn lùiBát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.Nhớ người mẹ nắng cháy lưngĐịu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.Nhớ sao lớp học i tờĐồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoanNhớ sao ngày tháng cơ quanGian nan đời vẫn ca vang núi đèo.Nhớ sao tiếng mõ rừng chiềuChày đêm nện cối đều đều suối xa...Ta về, mình có nhớ taTa về, ta nhớ những hoa cùng người.Rừng xanh hoa chuối đỏ tươiĐèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.Ngày xuân mơ nở trắng rừngNhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.Ve kêu rừng phách đổ vàngNhớ cô em gái hái măng một mìnhRừng thu trăng rọi hoà bìnhNhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.Nhớ khi giặc đến giặc lùngRừng cây núi đá ta cùng đánh Tây.Núi giăng thành luỹ sắt dàyRừng che bộ đội, rừng vây quân thùMênh mông bốn mặt sương mùĐất trời ta cả chiến khu một lòng.Ai về ai có nhớ không?Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng.Nhớ sông Lô, nhớ phố RàngNhớ từ Cao - Lạng, nhớ sang Nhị Hà...Những đường Việt Bắc của taĐêm đêm rầm rập như là đất rungQuân đi điệp điệp trùng trùngÁnh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan.Dân công đỏ đuốc từng đoànBước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.Nghìn đêm thăm thẳm sương dàyĐèn pha bật sáng như ngày mai lên.Tin vui chiến thắng trăm miềnHoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui vềVui từ Đồng Tháp, An KhêVui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.Ai về ai có nhớ không?Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.Nắng trưa rực rỡ sao vàngTrung ương, Chính phủ luận bàn việc côngĐiều quân chiến dịch thu đôngNông thôn phát động, giao thông mở đườngGiữ đê, phòng hạn, thu lươngGửi dao miền ngược, thêm trường các khu...Ở đâu u ám quân thùNhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soiỞ đâu đau đớn giống nòiTrông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.Mười lăm năm ấy, ai quênQuê hương Cách mạng dựng nên Cộng hoàMình về mình lại nhớ taMái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào.- Nước trôi nước có về nguồnMây đi mây có cùng non trở về?Mình về, ta gửi về quêThuyền nâu trâu mộng với bè nứa maiNâu này nhuộm áo không phaiCho lòng thêm đậm, cho ai nhớ mình.Trâu về, xanh lại Thái BìnhNứa mai gài chặt mối tình ngược xuôi.- Nước trôi, lòng suối chẳng trôiMây đi mây vẫn nhớ hồi về nonĐá mòn nhưng dạ chẳng mònChàm nâu thêm đậm, phấn son chẳng nhoà.Nứa mai mình gửi quê nhàNước non đâu cũng là ta với mình.Thái Bình đồng lại tươi xanhPhên nhà lại ấm, mái đình lại vui...- Mình về thành thị xa xôiNhà cao, còn thấy núi đồi nữa chăng?Phố đông, còn nhớ bản làngSáng đèn, còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?Mình đi, ta hỏi thăm chừngBao giờ Việt Bắc tưng bừng thêm vui?- Đường về, đây đó gần thôi!Hôm nay rời bản về nơi thị thànhNhà cao, chẳng khuất non xanhPhố đông, càng giục chân nhanh bước đường.Ngày mai về lại thôn hươngRừng xưa núi cũ yêu thương lại về.Ngày mai rộn rã sơn khêNgược xuôi tàu chạy, bốn bề lưới giăng.Than Phấn Mễ, thiếc Cao BằngPhố phường như nấm như măng giữa trời.Mái trường ngói mới đỏ tươiChợ vui trăm nẻo về khơi luồng hàngMuối Thái Bình ngược Hà GiangCày bừa Đông Xuất, mía đường tỉnh Thanh.Ai về mua vại Hương CanhAi lên mình gửi cho anh với nàngChiếu Nga Sơn, gạch Bát TràngVải tơ Nam Định, lụa hàng Hà ĐôngÁo em thêu chỉ biếc hồngMùa xuân ngày hội lùng tùng thêm tươiCòn non, còn nước, còn trờiBác Hồ thêm khoẻ, cuộc đời càng vui!- Mình về với Bác đường xuôiThưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ NgườiNhớ Ông Cụ mắt sáng ngờiÁo nâu túi vải, đẹp tươi lạ thường!Nhớ Người những sáng tinh sươngUng dung yên ngựa trên đường suối reoNhớ chân Người bước lên đèoNgười đi, rừng núi trông theo bóng Người...- Lòng ta ơn Đảng đời đờiNgược xuôi, đôi mặt một lời song song.Ngàn năm xưa, nước non HồngCòn đây, ơn Đảng nối dòng dài lâuNgàn năm non nước mai sauĐời đời ơn Đảng càng sâu càng nồng.Cầm tay nhau hát vui chungHôm sau mình nhé, hát cùng Thủ đô.
10-1954Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi, tháng 7-1954, Hiệp định Genever về Đông Dương được kí kết. Hoà bình lập lại, miền Bắc nước ta được giải phóng và bắt tay vào sự nghiệp xây dựng cuộc sống mới. Một trang sử mới của đất nước được mở ra. Tháng 10-1954, những người kháng chiến từ cân cứ miền núi trở về miền xuôi, Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại thủ đô. Nhân sự kiện thời sự có tính lịch sử ấy, Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc. Bài thơ có hai phần: phần đầu tái hiện những kỉ niệm cách mạng và kháng chiến, phần sau gợi viễn cảnh tươi sáng của đất nước và ngợi ca công ơn của Đảng, Bác Hồ đối với dân tộc.Trích đoạn bài thơ này từ đầu tới câu “Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào” được sử dụng trong các chương trình SGK Văn học 12 giai đoạn 1990-2006, SGK Ngữ văn 12 từ 2007.[Thông tin 2 nguồn tham khảo đã được ẩn] Thơ có nội dung liên quan:- Cây thông già và anh thợ rừng (Huỳnh Văn Nghệ)
Trang 12 trong tổng số 2 trang (11 bài trả lời)[1] [2] ›Trang sau »Trang cuối
Phân tích tính dân tộc trong nội dung và nghệ thuật của đoạn trích bài thơ Việt Bắc
Gửi bởi kdu ngày 01/06/2008 21:31Có 2 người thích
Tính dân tộc là một phạm trù mĩ học, là một thuộc tính tất yếu của vốn học, được coi là tiêu chuẩn để đánh giá một tác phẩm văn học. Mỗi nền văn học bao giờ cùng là thành tựu của cả một dân tộc nhất định, dù ít hay nhiều, sâu sắc hay không sâu sắc thì nền Văn học bao giờ cũng hiển hiện những nét của dân tộc mình. Tính dân tộc quán triệt khá nhiều mặt của sáng tác văn học, từ nguồn gốc đến chức năng, từ ngồn ngữ đến thể loại, từ nội dung đến hình thức.Khi thế giới còn tồn tại nhiều dân tộc thì nền văn học dân tộc nhất định phải có nét riêng, phải có tính dân tộc. Không có một nền văn học nào là phi dân tộc, không có một người nào là phi dân tộc. Văn học có tính dân tộc là một trong những yêu cầu của người sáng tạo nghệ thuật. Người nghệ sĩ phải đòi hỏi có ý thức về dân tộc một cách sâu sắc, phản ánh được những truyền thống ý thức của dân tộc. Văn học phản ánh hiện thực, khi đi vào tác phẩm của mỗi nhà văn, bao giờ cũng thấy hiển hiện trước hết là hiện thực của đất nước mình, dân tộc mình.Tính dân tộc được biểu hiện ở cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Đề tài là những sự kiện xảy ra trong lịch sử dân tộc, những hiện tượng chính trị của dân tộc; chủ đề ca ngợi lòng yêu nước, khẳng định ý thức, tinh thần dân tộc; nhân vật là những con người điển hình, biểu hiện tập trung tâm lí, tính cách của cả một dân tộc,… đó chính là những yếu tố nội dung in đậm tính dân tộc trong một tác phẩm văn học. Tác phẩm ấy còn phải biểu hiện được sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa truyền thống và cách tân, dân tộc và hiện đại khi sử dụng linh hoạt những yếu tố hình thức như thể loại, ngôn ngữ, hình ảnh…Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu được thể hiện sinh động, phong phú qua hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Cách mạng tháng Tám thắng lợi, Tố Hữu đã tham gia, chứng kiến với tư cách là một người chiến sĩ đấu tranh không mệt mỏi, một nhà thơ mang hồn thơ thời đại, bởi thế, thơ ông kết tinh, quy tụ được giá trị nhân văn, sức mạnh tinh thần của dân tộc. Tiếng nói của người nghệ sĩ hoà nhập với cuộc đời chung. Rất khó phân biệt ở thơ Tố Hữu cái riêng, cái chung. Cái chung dược miêu tả như những tiếng reo vui của tác giả trước những niềm vui lớn của dân tộc. Tố Hữu là nhà thơ nói được những vui buồn của lịch sử qua những chặng lịch sử dài. Bên cạnh sức cuốn hút của những hình ảnh, sự kiện lịch sử hiện tại, thơ Tố Hữu còn tìm về quá khứ, về với đời sống hàng ngày của dân tộc. Quá khứ được khơi nguồn trên nhiều bình diện, có bất khuất, có xót đau,… nhưng tất cả đều thuộc về dân tộc. Tất cả những gì gần gũi, thân yêu của lịch sử dân tộc đều được Tố Hữu trân trọng đưa vào trong thơ. Tác giả cố gắng nắm bắt những âm thanh của đời sống dân tộc rất đời thường, bình dị, nhưng cao cả, đẹp đẽ. Đáng quý là cuộc sống bình dị ấy được Tố Hữu biểu hiện bằng một tiếng nói thẳm sâu, đằm thắm, từ con tim xúc động, từ giao cảm tinh tế với cái đẹp của thiên nhiên, con người Việt Bắc.Từ dân tộc trong Việt Bắc còn được thể hiện qua hình thức độc đáo của bài thơ. Tác phẩm trước hết được viết bằng thể thơ lục bát, một thể thơ truyền thống của dân tộc. Thơ Tố Hữu thuộc thơ trữ tình điệu nói, thành thạo trong thể thơ truyền thống, gần gũi lời ăn tiếng nói hàng ngày. Chất văn xuôi được đưa vào thơ, tạo ra một thế giới nghệ thuật long lanh ngời sắc, cả lịch sử và con người đều toả sáng. Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn cho phép nhà thơ biểu hiện tập trung những vấn đề cách mạng của dân tộc, nhân loại, thời đại. Ngôn từ tinh tế, phong phú, nhiệt huyết, sáng ngời vói những lối ví von, so sánh độc đáo, cách xưng hô “mình”, “ta” đã tạo nên một giọng điệu đằm thắm, trữ tình.Việt, Bắc hội tụ tình yêu và niềm tin của con người trong kháng chiến. Người ta nhận ra trong lời thơ tình cảm tha thiết, bền chặt của con người. Không chỉ là chín, mươi hay mười lăm năm mà chính sự gắn bó sâu sắc giữa người và đất đã tạo nên một tình yêu sâu nặng, một mối ân tình cao đẹp. Việt Bắc chính là cội nguồn của quê hương cách mạng, những câu thơ chính là tiếng lòng nhớ thương của con người. Cái hay của bài thơ chính là cái hay của một khúc ca đằm thắm, yêu thương, hùng tráng mà chung thuỷ, ngọt ngào, lắng sâu.
(Nguyễn Thị Thanh Huyền, giáo viên dạy văn tại trường THPT chuyên Hùng Vương - Việt Trì - Phú Thọ)☆☆☆☆☆ 1034.28Trả lờiHoàn cảnh sáng tác của bài thơ Việt Bắc
Gửi bởi 黄浩民 ngày 18/10/2008 21:12Có 1 người thích
Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi. Tháng 7-1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương dược kí kết. Hoà bình lập lại, miền Bắc nước ta được giải phóng và bắt tay và sự nghiệp xây dựng cuộc sống mới. Một trang sử mới của đất nước được mở ra.Tháng 10-1954, những người kháng chiến từ căn cứ miền núi trở về xuôi, trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại Thủ đô (Hà Nội).Nhân sự kiện thời sự có tính lịch sử ấy, Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc.
☆☆☆☆☆ 904.08Trả lờiPhân tích đoạn trích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
Gửi bởi dtuyen31 ngày 17/06/2009 21:26Có 1 người thích
Sau chiến thắng lừng lẫy trên chiến trường Điện Biên Phủ (7-5-1954), Hiệp nghị Giơnevơ về Đông Dương được ký kết, miền Bắc nước ta được giải phóng, mở ra một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn mới của cách mạng.Tháng 10-1954, các cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Nhân sự kiện lịch sử trọng đại đó, nhà thơ Tố Hữu sáng tác bài Việt Bắc. Đây là bài thơ dài, gồm 152 câu viết theo thể lục bát. Phần lớn bài thơ tái hiện một giai đoạn gian khổ, vẻ vang của cách mạng và kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc nay đã trở thành những kỷ niệm sâu nặng trong lòng người. Phần sau tác giả nói lên sự gắn bó máu thịt giữa miền ngược và miền xuôi trong một viễn cảnh hoà bình, tươi sáng của đất nước và kết thúc bằng lời ngợi ca công lao của Bác Hồ, của Đảng đối với dân tộc. Có ý kiếu cho rằng: Việt Bắc là một đỉnh cao của thơ Tô Hữu và cùng là một tác phẩm xuất sắc của vàn học Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp.Đoạn thơ trong sách giáo khoa được trích từ phần đầu của bài thơ Việt Bắc:
Mình về mình có nhớ taMười lăm năm ấy thiết tha mặn nồngMình về mình có nhớ khôngNhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?Với hình thức kết cấu hỏi đáp, người đọc sực nhớ đến một hình thức quen thuộc trong ca dao: Mình về có nhớ ta chăng? Ta về ta nhớ hàm răng mình cười... Nhưng ở khung cảnh này, dường như nhà thơ chỉ mượn hình thức của ca dao, còn nội dung đã được đổi mới từ tình cảm giao duyên sang bình diện mới: đó là ý thức về cội nguồn. Nên chỉ điều nhắc nhở ở đây trước hết là nhắc nhớ về cội nguồn – cái cội nguồn nghĩa tình những tháng năm gian lao kháng chiến: Áo chàm đưa buổi phân ly, Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay... Sự lưu luyến trước buổi phân ly đôi ngả sao mà da diết, sao mà nao lòng đến thế! Điều đó không phải ngẫu nhiên, càng không phải vô cớ. Trong giờ phút thiêng liêng ấy, tất thảy kỷ niệm như cùng dội về choáng ngợp – nhất là những kỷ niệm đã từng chung vai gắn bó: Mình đi có nhớ những ngày. Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù... Tất thảy thiên nhiên, cảnh sắc, con người Việt Bắc như cùng thẫn thờ đứng lặng. Trong một đoạn thơ 14 câu đan xen sự kiện "mình đi" – "mình về" tác giả sử dụng một kết cấu hết sức đặc biệt: mỗi câu lục (sáu chữ) "mình đi" lại tương xứng với một câu lục kế tiếp "mình về", và ở tất cả các câu bát (tám chữ), đều có sự cân xứng hình ảnh và nhịp thơ rất hài hoà:– Mưa nguồn suối lũ // những mây cùng mù– Miếng cơm chấm muối // mối thù nặng vai– Trám bùi để rụng // măng mai để già– Hắt hiu Um xám // đậm đà lòng son– Nhở khi kháng Nhật // thuở còn Việt MinhCác câu lục "đi" – "về" xen nhau, còn các câu bát chia đều làm hai vế, được ngăn cách bởi một dấu phảy (,)... tạo ra sự cân đối mà hô ứng nhịp nhàng như trên cùng đôi vai, trong cùng lý tưởng của một chủ thể. Đặc biệt câu thơ Mình đi, mình có nhớ mình là một sự hài hoà quyện hình ảnh ta – mình đến độ đồng nhất.Ở đoạn thơ tiếp theo:
Ta với mình, mình với ta,Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh...Việc đảo phách (ngắt nhịp 3/3 ở câu lục) và đảo từ, hai đối tượng mình – ta càng trở nên quấn quyện, để từ đó nỗi nhớ được lan toả dư ba Nỗi nhớ ở đây (nỗi nhớ giữa người về xuôi và người ở lại) còn được ví với nỗi nhớ người yêu – một cung bậc thiêng liêng và thi vị nhất của con người, gắn với từng cảnh vật và sinh hoạt hàng ngày: Từng lên dầu núi, nắng chiều lưng nương, bản khói cùng sương, sớm khuya bếp lửa và được điệp lại: Nhớ từng... như mỗi lúc gia tăng, cụ thể. Hàng chục lần nhắc tới nỗi nhớ, gắn với trong sự việc, con người cụ thể nhưng nét nghĩa nhớ không hoàn toàn giống nhau. Nỗi nhớ đồng đội, nỗi nhớ lớp học, cơ quan, nỗi nhớ sinh hoạt rất đặc trưng miền núi: Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều, Chày đêm nện cối đều đều suối xa... Âm thanh mõ trâu, tiếng chày giã gạo nơi con nước dường như còn ngân vọng, dường như còn thấm đẫm trong hình dung về Việt Bắc. Chưa hết! Nỗi nhớ còn in đậm những hoa cùng người, rừng xanh hoa chuối, mơ nở trắng rừng; người đan nón, cô em gái hái măng... Câu thơ: Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi, Đào cao nắng ánh dao gài thắt lưng là một câu thơ "xuất thần", nó vượt qua mức độ một câu miêu tả, vươn tới sự tài hoa trong nghệ thuật pha màu rừng xanh (màu nền) và hoa chuối, đỏ tươi – nhất là sự phản chiếu lấp lánh từ phía đèo xa ánh lại. Bức tranh thiên nhiên – con người ở đây bỗng có hồn, sáng lên và lay động. Đó cũng là lời nhắn nhủ tâm tình của người ra đi với người ở lại: Ta về mình có nhớ ta, Ta về ta nhớ.... Nỗi nhớ khôn nguôi về những gì đã qua, những gì đã trải: những Phủ Thòng, đeo Giàng, sông Lô, phố Ràng...; nỗi nhớ như những dấu nối tình cảm ngân dài không dứt: Nhớ từ Cao Lạng, nhớ sang Nhị Hà.... Nỗi nhớ đó được chuyển hoá từ chủ thể sang đối tượng: Ai về ai có nhớ không? Trong nỗi nhớ, không chỉ có cảnh và người, không chỉ có thiên nhiên và sinh hoạt – trong nỗi nhớ còn vẹn nguyên thanh âm vang dội của cuộc hành quân ái quốc:
Những đường Việt Bắc của taĐêm đêm rầm rập như là đất rungQuan đi điệp điệp trùng trùngÁnh sao đầu súng bạn cùng mũ nanDân công đỏ đuốc từng đoànBước chân nát đá muôn tàn lửa bay...Không phải một ngả đường mà nhiều ngả đường Việt Bắc, âm thanh bước chân đoàn quân bừng bừng hoà khí. Câu thơ nối nhau qua điệp từ (điệp điệp trùng trùng), qua hình ảnh thơ nối dài vô tận: điệp điệp trùng trùng – ánh sao – mũ nan – dân công... tạo ra một sức mạnh tổng hợp, công phá nhấn chìm kẻ địch: Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay. Một loạt động từ mạnh được sử dụng để diễn tả hào khí vẹn nguyên trào dâng mãnh liệt. Nếu như ở đoạn thơ trên, nỗi nhớ tạo nên dấu nối âm vang chiến thắng:
Tin vui chiến thắng trăm miềnHoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui vềVui từ Đồng Tháp, An KhêVui lên Việt Bắc, đèo De, núi HồngNiềm vui chiến thắng tưởng như tràn qua giới hạn câu thơ, tràn qua khoảng trống giữa các con chữ và các dòng thơ... đến bất tận!Trong niềm vui dào dạt, nỗi nhớ lại trở về với thủ đô kháng chiến. Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang một thuở mà trung tâm là hình ảnh Bác Hồ – biểu tượng của lý tưởng và niềm tin yêu vào tương lai tươi sáng của dân tộc. Kết thúc đoạn thơ là một khái quát:
Mười lăm năm ấy ai quênQuê hương cách mạng dựng nên cộng hoàÝ thức cội nguồn, lòng biết ơn quê cách mạng đó là lẽ sống, lẽ làm người chân chính. Một Việt Bắc gian lao, bền bỉ, một Việt Bắc nghĩa tình và yêu nước – sẽ mãi còn là nỗi nhớ và tình cảm sắt son. Đoạn thơ được thể hiện bằng lối gieo vần truyền thống, hình ảnh và ngôn ngữ mộc mạc giản dị mà nồng đượm nghĩa tình – đậm đà tính dân tộc và tính nhân dân, thể hiện sâu sắc tình cảm không chỉ của riêng tác giả mà còn là tình cảm của tất cả chúng ta với quê hương Việt Bắc thân yêu.(Nguyễn Thị Thanh Huyền, giáo viên dạy văn tại trường THPT chuyên Hùng Vương - Việt Trì - Phú Thọ)☆☆☆☆☆ 614.33Trả lời
Những nét chính của trích đoạn “Việt Bắc” trong sách giáo khoa
Gửi bởi pé gà ngày 01/11/2009 18:42Có 1 người thích
Việt Bắc là một đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là một tác phẩm xuất sắc của văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp. Sử dụng hình thức đối đáp như những khúc ca dao giao duyên truyền thống nhà thơ đã thể hiện rất thành công cảm xúc của người ra đi và người ở lại. Qua đó, một Việt Bắc vô cùng tươi đẹp, trong sáng, tràn đầy tình người đã được hiện lên. Mối tình quân dân thắm thiết và tấm lòng của người dân Việt Bắc với Cụ Hồ, với cách mạng đã được khẳng định.Những nét chính trong trích đoạn Việt Bắc:– Tình quân dân gắn bó thể hiện ở cuộc chia tay đầy lưu luyến, nhớ lại những ngày cùng gian nan vất vả nhưng đầy niềm tin cách mạng (Từ đầu đến “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”).– Cuộc sống sinh hoạt và khung cảnh thiên nhiên Việt Bắc được hiện lên qua nỗi nhớ của nhân vật trữ tình với tư cách người ra đi (từ “Nhớ gì như nhớ người yêu” đến “Nhớ từ Cao Lạng nhớ sang Nhi Hà”). Qua nỗi nhớ ấy, cuộc sống sinh hoạt, thiên nhiên, con người Việt Bắc và những ngày cùng kháng chiến hiện lên sinh động và đáng yêu. Những câu thơ giàu chất nhạc hoạ và chứa chan cảm xúc trữ tình.– Không khí chiến thắng tràn đầy niềm vui, tự hào, lời thề gắn bó thuỷ chung hai miền ngược xuôi (từ “Những đường Việt Bắc của ta” đến “Gửi dao miền ngược thêm trường các khu”).– Khẳng định vị trí lịch sử của thủ đô gió ngàn – Việt Bắc đối với cách mạng (Khổ thơ cuối).Bao trùm lên cả đoạn trích là tình cảm gắn bó của người ra đi với chiến khu Việt Bắc. Cách xưng hô “mình” và “ta” biến đổi vô cùng linh hoạt đã thể hiện được tình cảm tuy hai mà một của người cách mạng với Việt Bắc, giữa miền xuôi với miền ngược.
(Nguyễn Thị Thanh Huyền, giáo viên dạy văn tại trường THPT chuyên Hùng Vương - Việt Trì - Phú Thọ)☆☆☆☆☆ 473.83Trả lờiCách mạng và dân tộc trong “Việt Bắc”
Gửi bởi littlepumpkin ngày 09/01/2010 08:29Có 1 người thích
Tố Hữu là ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng. Tính chất cách mạng ấy thể hiện ở chỗ các sự kiện lớn của cách mạng đều được Tố Hữu phản ánh kịp thời. Việt Bắc là bài thơ đánh dấu sự kết thúc kháng chiến, Chính phủ rời Việt Bắc về thủ đô Hà Nội. Bài thơ như là một tổng kết nhỏ, nhìn lại toàn bộ những ngày tháng gian nan kháng chiến hào hùng. Trong bài thơ, ta có thể thấy hình ảnh thể hiện sức mạnh kháng chiến:
Những đường Việt Bắc của ta,Đêm đèm rầm rập như là đất rung,Quân đi điệp điệp trùng trùng.Ta có thể tìm thấy những chủ trương lớn của kháng chiến:
Điều quân chiến dịch thu đông,Nông thôn phát động, giữa thông mở đường,Giữ đê, phòng đạn, thu lương,Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu…Đồng thời, nhà thơ cũng đã vẽ ra viễn cảnh xây dựng của đất nước khi kháng chiến kết thúc:
Ngày mai rộn rã sơn khêNgược xuôi tàu chạy bốn bề lưới giăng.Đấy là thơ, nhưng cũng là đường lối phát triển của cách mạng khi một nửa nước bắt tay vào khôi phục cuộc sống và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Yếu tố cách mạng còn thể hiện trong sự son sắt thuỷ chung với Việt Bắc – quê hương cách mạng dựng nên cộng hoà của Chính phủ mà Tố Hữu là người phát ngôn bằng thơ ca.Trình bày một bản tổng kết kháng chiến, nhưng Tố Hữu chọn thể thơ lục bát là thể thơ truyền thống của dân tộc. Lại chọn cách trình bày đối đáp như trong ca dao. Hơn thế nữa cách xưng hô: ta, mình, ai của ca dao được sử dụng rất linh hoạt càng làm tăng thêm sự thân thiết, gắn bố giữa kẻ ở người đi. Những hình ảnh thiên nhiên, con người Việt Bắc được hồi tưởng lại trong nỗi nhớ da diết, bâng khuâng: nhớ gì như nhớ người yêu càng làm cho bài thơ thâm đẫm tình cảm, dễ dàng hoà nhập vào văn mạch dân tộc vốn dào dạt trong mỗi trái tim người Việt.(Nguyễn Thị Thanh Huyền, giáo viên dạy văn tại trường THPT chuyên Hùng Vương - Việt Trì - Phú Thọ)☆☆☆☆☆ 363.36Trả lời
Việt Bắc trong nỗi nhớ của người ra đi
Gửi bởi hanxo ngày 30/01/2010 05:30Có 1 người thích
Việt Bắc trong nỗi nhớ của người ra đi được tái hiện theo ba phương diện: thiên nhiên với những địa danh cụ thể; những hoạt động kháng chiến; hoa và người. Và bao trùm lên là tình cảm gắn bó sâu nặng nghĩa tình với Việt Bắc.Bắt đầu là nỗi nhớ da diết, nôn nao như là nhớ người yêu. Việt Bắc hiện ra với buổi chiều, với đêm trống, với bếp lửa, với núi, với nương, rừng nứa bờ tre, ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê. Một không gian rộng lớn và một thời gian dài với các mùa khác nhau (Ngòi Thia sông Đáy suối Lê vơi đầy), với các thời điểm khác nhau (chiều, sớm, khuya, đêm).Rồi nỗi nhớ cụ thể hơn với kỉ niệm kháng chiến: người mẹ bẻ ngô, lớp học i tờ, đêm liên hoan, ngày tháng cơ quan. Việt Bắc hiện ra qua âm thanh đặc biệt của núi rừng:
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều,Chày đêm nện cối đều đều suối xa.Nỗi nhớ tập trung vào hoa và người Việt Bắc. Đó là bông hoa chuối đỏ tươi nổi bật giữa màu xanh của rừng. Rồi một rừng hoa mơ nở trắng. Một rừng phách đổ vàng đầy tiếng ve kêu. Con người Việt Bắc nhìn thấy thấp thoáng qua dao cài thắt lưng nắng ánh trên đèo. Lại cũng là con người cụ thể với bàn tay khéo léo chuốt từng sợi giang. Và đậm nét có lẽ là cô em gái hái măng một mình với tiếng hát ân tình thuỷ chung.Tất cả những nỗi nhớ ấy khi da diết, khi thấp thoáng, nhưng đọng lại nhất, ấn tượng nhất là tình người Việt Bắc, cái tình thể hiện bằng hành động giản dị nhường cơm sẻ áo:
Thương nhau chia củ sắn lùiBát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùngTrong khổ thơ từ nhớ được sử dụng rất nhiều. Nó là từ đứng đầu mỗi câu thơ: Nhớ gì.., Nhớ từng…, Nhớ người.., Nhớ sao…, Nhớ ai.. Nỗi nhớ cứ đầy mãi lên trong tâm trí người ra đi. Nhớ cảnh, nhớ hoa, nhớ người, nhớ kỉ niệm ngày tháng kháng chiến. Điều đó nói lên sự gắn bó sâu nặng của người đi với Việt Bắc.(Nguyễn Thị Thanh Huyền, giáo viên dạy văn tại trường THPT chuyên Hùng Vương - Việt Trì - Phú Thọ)☆☆☆☆☆ 383.34Trả lời
Mình và ta là ai trong bài thơ “Việt Bắc”
Gửi bởi Minh Trúc ngày 28/05/2014 23:28
Mình và ta là cách xưng hô thân mật của người Việt được sử dụng khá uyển chuyển trong đời sống. Mình với ta tuy hai mà một, Ta với mình tuy một mà hai. Như vậy mình và ta trong một số trường hợp là một mà thôi. Vì sao có thể như vậy? Vì bản thân đại từ mình là để người nói tự xưng, nhưng mình cũng còn là từ người nói gọi người bạn đối thoại thân thiết. Ta là đại từ để người nói tự xưng, nhưng ta lại cùng bao hàm cả người đối thoại để chỉ người chung một phía, một chí hướng, một mục đích.Vận dụng cách xưng hô thân thiết của dân gian đó, nhà thơ Tố Hữu tạo ra hai nhân vật trữ tình người đi, người ở với cách gọi mình và ta, tạo ra một cuộc đối đáp đầy tình cảm lưu luyến, bịn rịn.
Mình về mình có nhớ ta.Mình (người về, người đi) có nhớ ta (người ở lại)?
Ta về, mình có nhớ ta.Ta (người về, người đi) không rõ mình (người ở lại) có nhớ người đi hay không?Như vậy là hai nhân vật trữ tình hoán đổi cho nhau cách xưng hô. Ta là người ở lại, ta cũng là người ra đi. Mình là người ra đi, mình cũng là người ở lại. Vì thế mà mình vói ta như hình với bóng, như bóng với hình. Hơn thế nữa, mình không chỉ là người đi, hoặc người ở mà mình còn bao gồm cả hai: Mình đi mình có nhớ mình. Ta cũng không chỉ là người đi, hoặc người ở mà ta cũng bao gồm cả hai:
Rừng cây núi đá to cùng đánhTày, Đất trời ta cả chiến khu một lòng.Ngoài cách xưng hô mình ta thắm thiết uyển chuyển, nhà thơ còn rất thành công khi sử dụng đại từ ai. Ai để chỉ người ở lại: Tiếng ai tha thiết bên cồn. Ai để chỉ người ra đi: Ai về ai có nhớ không. Và ai là để chỉ một bộ phận người ra đi của ta: Ai về ai có nhớ không, Ta về ta nhớ Phủ Thông đèo Giàng. Ai còn để chỉ một người không rõ tên giữa mình và ta: Rừng thu trăng rọi hoà bình, Nhớ ai tiếng hất ân tình thuỷ chung. Và ai cùng là để chỉ chung tất cả mọi người, cả mình, cả ta: Mười lăm năm ấy ai quên, Quê hương cách mạng dựng nên cộng hoà.Tóm lại, mình, ta, ai những từ xưng hô đã được Tố Hữu sử dụng linh hoạt tạo nên sự gắn bó rất thú vị giữa người ở, người đi, tạo ra sự bâng khuâng, bịn rịn, tưởng như không thể tách rời giữa Việt Bắc và những người đã gắn bó với quê hương cách mạng, thủ đô gió ngàn.(Nguyễn Thị Thanh Huyền, giáo viên dạy văn tại trường THPT chuyên Hùng Vương - Việt Trì - Phú Thọ)I see the light of love in your eyesThe love is forever no more goodbyes☆☆☆☆☆ 363.86Trả lời
Bình giảng bài thơ Việt Bắc
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 18/03/2015 11:09
Bằng những vần thơ lục bát ngọt ngào mang đậm màu sắc ca dao dân ca, thông qua cuộc đối đáp có tính chất tưởng tượng giữa kẻ ở người đi như thể người yêu đưa tiễn người yêu đầy lưu luyến vấn vương; bằng lối xưng hô Mình – Ta, một lối xưng hô truyền thống đậm đà tình nghĩa, bài thơ Việt Bắc đã tái hiện một cách chân thực và sinh động cuộc kháng chiến anh hùng và nhân dân anh hùng của cuộc kháng chiến, cùng những tình cảm điển hình của con người kháng chiến.Bài thơ ra đời vào tháng 10/1954, sau chiến thắng Điện Biên, khi Trung ương Đảng và Chính phủ, Bác Hồ rời “Thủ đô gió ngàn” về với “Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình”. Bài thơ vừa là khúc hát ân tình thuỷ chung của miền ngược và miền xuôi, vừa là bài ca chiến thắng của một thời kỳ lịch sử oanh liệt. Đoạn thơ ta phân tích nằm ở phần đầu, tái hiện một giai đoạn gian khổ, vẻ vang của cách mạng và kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc nay đã trở thành những kỷ niệm sâu nặng trong lòng người.Bài thơ mở ra trong một khung cảnh chia tay với tâm trạng bâng khuâng bồn chồn lưu luyến vấn vương của hai người đã từng gắn bó bền lâu sâu nặng. Người ở lại lên tiếng trước, như nhạy cảm với hoàn cảnh đổi thay gợi nhắc những kỷ niệm gắn bó, những cội nguồn tình nghĩa.
Mình về mình có nhớ ta Nhìn cây nhở núi, nhìn sông nhớ nguồnNhưng người ra đi cũng cùng chung một tâm trạng ấy, nên nỗi nhớ không chỉ là hướng về người khác má cũng là nỗi nhớ chính mình: “Mình đi mình lại nhớ mình”. Lời hỏi của người ở lại đã làm khơi dậy cả một quá khứ đầy kỷ niệm, khơi nguồn cho mạch nhớ thương tuôn chảy. Đối đáp ở đây là một thủ pháp khơi gợi, bộc lộ tâm trạng và tạo ra sự hô ứng đồng vọng của tình cảm. Bao trùm trong tâm trạng của kẻ ở người về là nỗi nhớ cứ thấm đượm lên tất cả, lan toả lên cả cỏ cây mây nước. Chỉ riêng trong đoạn thơ ta phân tích đã có đến 35 từ “nhớ”. Nỗi nhớ tha thiết ấy, qua dòng hồi tưởng đã làm sống dậy những kỷ niệm sâu nặng nghĩa tình. Và trong niềm hoài niệm, hối tưởng suốt “mười lăm năm thiết tha mặn nồng” ấy, bao trùm có mấy bức tranh hiện thực hoà nhập thống nhất khó có thể tách rời. Đó là nỗi nhớ cội nguồn tình nghĩa; nỗi nhớ thiên nhiên Việt Bắc; con người, cuộc sống Việt Bắc, cùng những kỷ niệm về cuộc kháng chiến anh hùng.Trước hết bài thơ mở đầu bằng tiếng hát ân tình chung thuỷ, gợi nhắc cội nguồn tình nghĩa, thấm nhuần đạo lý Việt Nam:
Mình về mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tìm mặn nồng Mình về mình có nhớ không Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ ngườiLời thơ nghe như ca dao, lại phảng phất âm hưởng thơ Kiều. Sâu nặng biết bao trong “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” và cùng ân tình, thuỷ chung biết bao khi “nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Bốn câu thơ mà có đến bốn chữ “mình”, bốn chữ“nhớ” một chữ “ta” hoà quyện quấn quýt với nhau như hình với bóng, khiến cho cái đạo lý ân tình thuỷ chung ấy thêm sâu nặng.Sau khúc hát dạo đầu, là cảnh tiễn đưa bâng khuâng trong nỗi nhớ cả người ở lại và người ra đi như là một khúc hát giao duyên quan họ. Ở đây có âm thanh da diết thiết tha của ai đó “Tiếng ai tha thiết bên cồn”; có bước chân “bồn chồn” và những bàn tay nắm nhau lưu luyến. Tiểu đối “bâng khuâng... bồn chồn” đã làm tăng thêm biết bao nỗi nhớ thương vấn vương lưu luyến. Cái màu “áo chàm” trong câu thơ trên vừa gợi hình, vừa gợi cảm: màu áo của người Việt Bắc không phai, đậm đà bền vững như lòng thuỷ chung sắt son của họ. “Cầm tay... hôm nay” không phải là không biết nói gì, mà vì trong lòng tràn ngập tình nhớ thương khó nói nên lời.Sau khi “dàn cảnh” khung cảnh chia tay, Tố Hữu để cho người ở lại lên tiếng. Chỉ có 12 câu nhưng đều xoáy vào những kỷ niệm của những ngày cách mạng còn “trứng nước” rất gian nan nhưng sâu nặng nghĩa tình: "Miếng cơm chan muối, mối thù nặng vai – Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son. “Miếng cơm chấm muối” là hình ảnh chân thực được rút ra từ thực tế cuộc kháng chiến đầy khó khăn, gian khổ. Hình ảnh “mối thù nặng vai” đã cụ thể hoá, vật chất hoá mối thù của nhân dân ta với quân xâm lược. Hai hình ảnh ấy đối xứng và kết hợp với nhau tạo nên một ý nghĩa mới: mối tình đoàn kết chiến đấu cùng gian khổ để chiến thắng quân thù. Người ra đi có nhớ không? Và còn biết bao điều đáng nhớ nữa về chiến khu Việt Bắc với những địa danh cách mạng lịch sử, với biết bao gian nan cơ cực mà thắm thiết nghĩa tình “Hắt hiu lau xám” nhưng “đậm đà lòng son” rồi những mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù" – chỉ một câu thơ ngắn gọn nhưng lại sống dậy được tất cả cái khắc nghiệt, dữ dội của thiên nhiên Việt Bắc những ngày kháng chiến. Trong một đoạn thơ ngắn mà đà cố đến 8 chữ “mình” và 7 chừ “nhớ”, trong đó có câu thơ 3 chữ “mình” luyến láy và chuyển nghĩa rất tài tình khi nhắc đến những địa danh cách mạng từ nay đà di vào lịch sử nối tiếp Chương Dương, Vạn Kiếp, Đống Đa...
Mình đi, mình có nhớ mình Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đaTố Hữu đã để cho người về xuôi trả lời nhiều hơn, vì trong họ chứa chất biết bao nồi nhớ về quê hương cách mạng, khi phải rời xa. Đây là nỗi nhớ của những người đã từng cùng cam, cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi, từng “đinh ninh lời thề” sau trước có nhau, nên câu trả lòi của họ chính là tiếng đồng vọng của cõi lòng người ở lại:
Ta với mình, mình với ta Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh Mình đi, mình lại nhớ mình Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêuNhững chữ “ta”, “mình” quấn quýt, luyến láy trong câu thơ đã nói rõ lời đồng vọng đó. Người ở lại hỏi: “Mình đi, mình có nhớ mình” thì người ra đi có ngay lời đồng vọng “mình đi, mình lại nhớ mình”, tuy hai mà một. Thật hài hoà, gắn bó, thắm thiết. Bởi nghĩa tình của họ như suối nguồn không bao giờ cạn: “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”. “Bao nhiêu, bấy nhiêu” – Cặp từ hô ứng đã nhấn mạnh được sự giàu có, phong phú của nghĩa tình keo sơn không sao kể xiết.Qua hoài niệm, trái tim người ra đi cứ dào lên biết bao nỗi nhớ với đủ mọi sắc màu đẹp đẽ: Có nỗi nhớ thơ mộng:
Nhớ gì như nhớ người yêu Trăng lên đầu núi bóng chiều lưng nươngCó nơi nhớ ấm áp:
Nhớ từng bản khói cùng sương Sớm khuya bếp lửa người thường đi vềNhưng nhớ nhất là những ngày cay đắng ngọt bùi của thuở “hàn vi” thắm tình đồng chí, đồng bào, đã từng cưu mang đùm bọc lẫn nhau:
Ta đi, ta nhớ những ngày Mình đây, ta đấy đắng cay ngọt bùi...Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngôCủ sắn lùi thì “chia”, bát cơm thì “sẻ”, chăn sui thì “đắp cùng”. Đúng, cái đẹp nhất là ở tình nghĩa của con người, ở sự san sẻ, cùng chung mọi gian khổ và niềm vui. Nghĩa tình càng đẹp hơn nữa trong cuộc sống gian nan thiếu thốn; càng sắt son thấm thía trong khó khăn thử thách. Trong đoạn thơ này, có những câu gợi lên cảnh sinh hoạt và cuộc sống bình dị của con người, vốn rất hiếm thấy trong thơ Tố Hữu, nhưng lại là những câu thơ hay, chứa đựng những dung động, tình cảm chân thật, thắm thiết nghĩa tình của nhà thơ với cuộc sống và con người của chiến khu Việt Bắc. Chẳng hạn “bản khói cùng sương” thì e lanh giá, hoang vu, nhưng sau đó với “sớm khuya bếp lửa người thương đi về”, thì ấm áp hẳn lên. “Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê” chỉ là những tên gọi địa danh, nhưng khi kèm với hai chữ “vơi đầy”, thì cảnh bỗng trở nên tràn đầy tình nghĩa, có sự gắn bó thiết tha giữa con người với thiên nhiên, giữa con người với con người.Giữa bao nỗi nhớ ấy, tác giả đã dành cho thiên nhiên Việt Bắc một tình cảm đặc biệt. Qua tấm lòng chứa chan tình nghĩa cách mạng, kháng chiến của tác giả, thiên nhiên.Việt Bắc hiện ra không chỉ là thiên nhiên với vẻ đẹp hùng vĩ và nên thơ, mà đó còn là thiên nhiên đã cùng con người đánh giặc và ghi lại biết bao sự tích anh hùng:
Nhớ khi giặc đến giặc lùng...Mái đình Hồng Thái cây đa Tân TràoThiên nhiên ở đây hiện lên với những vẻ đẹp da dạng trong thời gian và không gian khác nhau, trong các thời tiết sương sớm, nắng chiều trăng khuya, trong các mùa thay đổi. Điều đặc biệt là hình ảnh thiền nhiên gắn với bóng dáng con người, làm cho cảnh bớt hoang sơ hiu hắt và trở nên gần gũi thân thiết với con người hơn. Tiêu biểu nhất là đoạn thơ sau:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi ....Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chungTố Hữu đã dựng được bốn bức tranh theo đúng nghệ thuật truyền thống, tạo nên một bộ tứ bình đặc sắc. Mỗi bức tranh đều có một màu sắc, âm thanh chủ đạo và rất sinh động đa dạng: Khi lắng dịu, khi rực rỡ chói chang, khi rộn ràng náo nức. Tương ứng với mỗi màu sắc, âm thanh của tự nhiên là một nét đẹp con người. Thiên nhiên làm nền cho con người và chính con người lại tô điểm cho thiên nhiên trở nên đẹp đẽ sinh động hơn.Theo dòng cảm xúc hồi tưởng, bài thơ đã dẫn người đọc vào khung cảnh Việt Bắc kháng chiến với những bức tranh rộng lớn, những hoạt động tấp nập, sôi động của cuộc kháng chiến anh hùng chuẩn bị cho cuộc tổng phân công bằng một chiến dịch “Điện Biên lừng lẫy địa cầu”:
Những đường Viết Bắc của ta ....Đèn pha bột sáng như ngày mai lênĐoạn thơ được viết với bút pháp anh hùng ca, mang đậm màu sắc sử thi. Giọng thơ dào dạt sảng khoái với những hình ảnh vừa chân thực vừa bay bổng, vừa hùng tráng.Những câu thơ tái hiện khung cảnh “Trung ương Chính phủ luận bàn việc công” trong hang núi ở Việt Bắc cũng là những câu thơ đặc sắc. Dường như tác giả chỉ liệt kê công việc nhưng đã phản ánh chân thật không khí làm việc giản dị trang nghiêm mà khẩn trương của Bộ Tổng chi huy của cuộc kháng chiến; trong đó nổi bật lên hình ảnh lung linh rực rỡ ngời sáng của “Ngọn cờ đỏ thắm gió lộng cửa hang, Nắng trưa rực rỡ sao vàng”.Phần thứ nhất của bài thơ được khép lại bằng sáu câu thơ thâu tóm hình ảnh Việt Bắc: “Quê hương cách mạng dựng nên cộng hoà”, đầu nào của cuộc kháng chiến; Việt Bắc là niềm tin, hy vọng của nhân dân Việt Nam từ mọi miền đất nước, đặc biệt là đối với những nơi còn “u ám quân thù; đau đớn giống nòi”, thì Việt Bắc là điểm tựa tinh thần đà tiếp thêm sức mạnh cho đồng bào kháng chiến.Qua bài thơ Việt Bắc, Tố Hữu đà làm hiện lên hình ảnh Việt Bắc “quê hương cách mạng dựng nên cộng hoà” một thời gian khổ mà sâu nặng nghĩa tình. Bài thơ tô đậm thêm truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Đó là truyền thống thuỷ chung son sắt “uống nước nhớ nguồn”.(Nguyễn Thị Thanh Huyền, giáo viên dạy văn tại trường THPT chuyên Hùng Vương - Việt Trì - Phú Thọ)tửu tận tình do tại☆☆☆☆☆ 424.17Trả lời
Phân tích đoạn thơ “Những đường Việt Bắc của ta… Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 18/03/2015 11:10
Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Việt Bắc (10-1945) của Tố Hữu:
Những đường Việt Bắc của ta Đêm đêm rầm rập như là đất rung Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan Dân công đỏ đuốc từng đoàn Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay Nghìn đêm thăm thẳm sương dầy Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.Bài làmBài thơ Việt Bắc là một trong những đỉnh cao của thơ Tố Hữu và thơ ca kháng chiến chống Pháp, thông qua cuộc đối đáp có tính chất tưởng tượng của kẻ ở người đi đầy lưu luyến vấn vương thương nhớ. Bài thơ không chỉ ngợi ca những tình cảm điển hình của con người kháng chiến mà còn làm tái hiện lại một cách chân thực và sinh động bức tranh “Việt Bắc ra trận” rất hùng vĩ qua những vần thơ đầy hào hùng:
Những đường Việt Bắc của ta Đêm đêm rầm rập như là đất rung Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan Dân công đỏ đuốc từng đoàn Bước chăn nát đá, muôn tàn lửa bay Nghìn đèm thăm thẳm sương dầy Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.Ngay ở câu thơ đầu tiên mở đầu đoạn thơ tác giả đã nêu lên cái nhìn khái quát chung cuộc kháng chiến của ta là một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Đây là một cuộc chiến tranh sáng ngời chính nghĩa hợp với ý trời lòng dân. Cho nên lực lượng của ta ngày càng trưởng thành lớn mạnh không ngừng. Từ một đội quân trên dưới 30 người xuất phát từ cây đa Tân Trào hôm nào, dưới sự chi huy của đồng chí Võ Nguyên Giáp, hôm nay chúng ta đã có một đội quân hùng mạnh liên tiếp gặt hái được những chiến công chói lọi: Thu Đông, Sông Lô, Biên Giới… Giờ đây, chúng ta đang chuẩn bị tổng phản công bằng một chiến dịch lịch sử. Chúng ta hoàn toàn làm chủ chiến trường Việt Bắc cả về thế lẫn lực. Cho nên đoàn quân ra trận hôm nay xuất phát từ mọi ngả đường Việt Bắc như những gọng kìm nhằm bao vây quân giặc đang co cụm ở những cứ điểm cuối cùng:
Những đường Việt Bắc của ta Đêm đêm rầm rập như là đất rung“Những đường” chứ không phải “một đường” và Việt Bắc là “của ta". Câu thơ bình dị mà chất chứa biết bao niềm tự hào về quang cảnh ra trận và khí thế của ta trên chiến thắng.Câu thơ thứ hai mở ra một bối cảnh khác, đó là ngày kháng chiến chống Pháp, máy bay địch chủ yếu hoạt động ban ngày. Do đó ta phải hành quân đêm "xưa là rừng núi là đêm” (Tố Hữu). Trên các nẻo đường Việt Bắc đêm nối đêm cứ "rầm rập” tiến quân ra trận. Từ láy “rầm rập” là một từ tượng thanh rất gợi cảm. Nó diễn tả bước chân đi đầy khí thế hăng say và sức mạnh áp đảo của một tập thể người đông đúc có đội ngũ chỉnh tề. Với từ “rầm rập” đặc sắc ấy, cuộc ra trận của quân ta bỗng trở thành một cuộc duyệt binh, diễu binh hùng tráng:
Xuân hãy xem cuộc diễn binh hùng vĩ Ba mươi mốt triệu nhân dân Tất cả hành quân Tất cả thành chiến sĩ.Vì thế mà bước chân của đoàn quân ấy đêm đêm như làm rung chuyển cả mặt đất. Hình ảnh thơ mang đậm mầu sắc thần thoại.Từ cái nhìn chung ở câu một và hai đến đây, tác giả đi vào cái nhìn cụ thể. Nếu câu trên, tác giả tả khí thế ra trận của quân ta qua ấn tượng thính giác, thì các câu sau, tác giả tả bằng thị giác: “Quân đi điệp điệp trùng trùng”. Từ láy “điệp điệp trùng trùng” thật giàu ý nghĩa diễn tả. Nó gọi lên trong ta những đoàn quân ra trận nối dài vô tận và rất hùng vĩ như những dãy núi kế tiếp nhau vậy. Sau này nhà thơ Phạm Tiến Duật cũng đã viết:
Từ nơi em gửi tới nơi anhNhững đoàn quân trùng trùng ra trậnNhư tình yếu nối trời vô tậnỞ đây ta lại bắt gặp một hình ảnh thơ được viết với bút pháp cường điệu mang đậm màu sắc anh hùng ca. Vì vậy sức mạnh khí thế của đoàn quân ra trận đã được nâng ngang tầm với sức mạnh của thiên nhiên sông núi.“Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”. Câu thơ vừa có ý nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa khái quát tượng trưng sâu xa. Trước hết nó diễn tả đoàn quân đi trong đêm, đầu súng lấp lánh ánh sao trời. Nhưng đó cũng là lấp lánh ánh sao lý tưởng.
Anh đi bộ đội sao trên mũ Mãi mãi là sao sáng dẫn đường(Vũ Cao)Hình ảnh tươi sáng ấy kết hợp với hình ảnh chiếc mũ nan giản dị trang bị còn thiếu thốn của anh bộ đội, tạo cho anh một vẻ đẹp bình dị mà cao cả, bình thường mà vĩ đại. Nhà thơ Chính Hữu cùng đã có câu thơ rất hay “Đầu súng trăng treo”.Cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến toàn dân toàn diện. Cho nên trong cuộc tổng phản công hôm nay có đủ mọi binh chủng, tầng lớp ra trận. Tiếp theo những binh đoàn bộ đội, là dân công tiếp tế lương thực, đạn dược. Cùng như những người chiến sĩ rầm rập lên đường, những nam nữ dân công cũng vào trận đầy khí thế và sức mạnh. “Nát đá” được viết theo phép đảo ngữ, từ dùng rất bạo khoẻ vừa gợi lên được những gánh hàng rất nặng vừa nói lên bước chân đầy sức mạnh tiến công của họ. Ngày nào dân ta mơ ước “Trông trời, trông đất, trông mây… trông cho chân cứng đá niềm” thì giờ đây niềm mơ ước ấy đã trở thành hiện thực kì diệu ở chiến trường Điện Biên. "Muôn tàn lửa bay” – một hình ảnh rất đẹp. Đoàn dân công đi dưới ánh đuốc, có “muôn tàn lửa bay”. Đó là lửa của đuốc đang bay, hay có cả ánh từ trái tim của người anh, chị dân công hoả tuyến? Ở hai câu thơ này, tác giả sử dụng dược nhiều hình ảnh giàu màu sắc tạo hình vừa chân thực, vừa bay bổng. Đoàn dân công đi vào chiến dịch mà như thể đi trong đêm hội hoa đăng. Thật đẹp đẽ biết bao mà cũng tự hào biết bao về khí thế và niềm vui ra trận của quân ta. Đúng “cách mạng là ngày hội của quần chúng” (Mác).Hai câu thơ cuối cùng của đoạn thơ cho ta thấy khí thế khẩn trương của cuộc kháng chiến:
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày Đèn pha bật sáng như ngày mai lênTiếp theo đoàn dân công là những đoàn xe chở vũ khí đạn dược ra chiến trường. Xe nối đuôi nhau, đèn pha bật sáng trưng như ánh sáng ban ngày. Chi bằng một hình ảnh ấy, Tố Hữu đã diễn tả được cái đông đảo hùng mạnh của lực lượng cơ giới quân ta. Hai câu thơ có hai hình ảnh đối lập: “Nghìn đêm thăm thẳm sương dày” với “Đèn pha bật sáng như ngày mai lên” đã làm nổi rõ được sự trưởng thành vượt bậc của quân ta và niềm tin tất thắng của những người ra trận. Mới hôm nào, chúng ta phải mai phục, nương náu nơi rừng sâu, núi thẳm hàng ngàn đêm tăm tối gian khổ “thăm thẳm sương dày” để có giờ phút bừng sáng quật khởi đầy niềm tin chói lọi này.Chi bằng tám câu thơ, Tố Hữu đã khắc hoạ được một bức tranh cả dân tộc ra trận bằng cuộc chiến tranh nhân dân thật hùng tráng. Bức tranh không chỉ làm sống dậy một thời kỳ hào hùng của dân tộc ở căn cứ địa Việt Bắc đang chuẩn bị cho một chiến công “lừng lẫy Điện Biên chấn động địa cầu” mà còn đem lại cho ta niềm tin yêu quê hương cách mạng anh hùng. Nó xứng đáng là một trong những đoạn thơ hay nhất của Việt Bắc.(Nguyễn Thị Thanh Huyền, giáo viên dạy văn tại trường THPT chuyên Hùng Vương - Việt Trì - Phú Thọ)tửu tận tình do tại☆☆☆☆☆ 494.20Trả lời
Bình giảng khổ thơ thứ 6 trong bài Việt Bắc
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 18/03/2015 11:10
Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Việt Bắc của Tố Hữu:
Ta về mình có nhớ ta..........................Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.Bài làmViệt Bắc là một trong những đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng, của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung. Bài thơ được viết vào tháng 10/1954, khi Trung ương Đảng và Chính phủ, Bác Hồ và cán bộ kháng chiến từ giã “Thủ đô gió ngàn” về với “Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình”. Cả bài thơ là một niềm hoài niệm nhớ thương tuôn chảy về những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc rất gian khổ nhưng vui tươi hào hùng. Giữa trăm nghìn tình cảm nhớ thương tha thiết ấy, tác giả đặc biệt dành những cảm xúc đẹp nhất cho cảnh và người Việt Bắc:
Ta về, mình có nhớ ta Ta về ta nhớ những hoa cùng người Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng. Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình Rừng thu trăng rọi hoà bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.Mở đầu đoạn thơ là hai câu thơ giới thiệu nội dung bao quát cảm xúc chung của đoạn thơ:
Ta về mình cố nhớ ta Ta về ta nhớ những hoa cùng ngườiCâu hỏi tu từ mình có nhớ ta vừa là lời đối thoại vừa là cái câu nối xuống câu dưới và đấy cũng là cái cớ để bày tỏ tấm lòng, nỗi niềm của mình. Với Tố Hữu người cán bộ ra đi không chỉ nhớ đến những ngày tháng gian khổ “bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng” mà còn nhớ đến vẻ đẹp đáng yêu của “hoa cùng Người”. Từ xưa đến nay, trong văn chương nghê thuật, hoa và trăng là biểu tượng cho cái đẹp cua thiên nhiên tạo vật. Ở đây hoa tượng trưng cho vẻ đẹp thiên nhiên Việt Bắc. Hoa ở bên người để người mang gương mặt sắc màu của hoa. Người bên hoa để cho hoa mang hồn người. Hoa và người quấn quýt với nhau trong vẻ đẹp hài hoà đằm thắm để tạo nên cái nét riêng biệt, độc đáo của vùng đất này. Chính điều ấy đã tạo nên cái cấu trúc đặc sắc cho đoạn thơ. Trong bốn cặp lục bát còn lại, câu sáu dành cho nhớ hoa, câu tám dành cho nhớ người. Cảnh và người trong mỗi câu lại có những sắc thái đặc điểm riêng thật hấp dẫn.Đọc đoạn thơ trên, chúng ta có cảm giác đoạn thơ được tác giả viết không hề trau chuốt mà như cứ tuôn chảy từ một tấm lòng nhớ thương da diết của người cán bộ về xuôi. Qua đây mà cảnh và người cùng những hoạt động của nó ở núi rừng chiến khu Việt Bắc cứ lần lượt hiện lên có đủ bốn mùa trong năm, mỗi mùa có một màu sắc, âm thanh chủ đạo tạo thành một bộ tứ bình đặc sắc: khi lắng dịu, khi rực rỡ chói chang, khi rộn ràng náo nức.Ở đây ta thấy bức tranh mùa đông hiện về với màu xanh bát ngát bao la của cánh rừng, có điểm những bông chuối đỏ tươi như những bó đuốc thắp sáng rực tạo nên một bức.tranh với đường nét, màu sắc vừa đối lập, vừa hài hoà, vừa cổ điển vừa hiện đại. Cái màu “đỏ tươi” của bông chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của rừng, làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống, xua đi cái hoang sơ lạnh giá hiu hắt vốn có của núi rừng.Cùng hiện lên với cái lung linh của hoa chuối ấy là con người của vùng chiến khu lên núi làm nương, phát rẫy sản xuất ra nhiều lúa khoai cung cấp cho kháng chiến. “Đèo cao nắng ánh dao cài thắt lưng”. Trước thiên nhiên bao la, con người dường như càng trở nên kỳ vĩ, hùng tráng hơn. Ở đây nhà thơ không khắc hoạ gương mặt mà chớp lấy một nét thần tình rực sáng nhất. Đó là ánh mặt trời chớp loé trên lưỡi dao rừng ở ngang lưng. Con người như một tụ điểm của ánh sáng. Con người ấy cũng đã xuất hiện ở một vị trí, một tư thế đẹp nhất. Đấy là cái tư thế làm chủ đầy kiêu hành và vững chãi: Giữa núi và nắng, giữa trời cao bao la và rừng xanh mênh mang. Con người ấy đã trò thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.Mùa đông qua đi thì mùa xuân lại về mang bao nhiêu điều tốt lành đến cho con người, báo hiệu những niềm vui, sức sống âm thầm đang trỗi dậy.Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết cua hoa mơ nơ khắp rừng. Ngày xuân mơ nở trắng rừng", “trắng rừng” được viết theo phép đổi trật tự cú pháp và từ trắng được dùng như động từ có tác dụng nhấn mạnh vào màu sắc, màu trắng dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá, và làm bừng sáng cả khu rừng bởi sắc trắng mơ màng, bâng khuâng, dịu mát của hoa mơ. Điều đó chứng tỏ đây là những giờ phút hoa mơ nở rộ nhất:
Ôi sáng xuân nay, xuân bốn mốt (41)Tráng rừng biên giới nở hoa mơ Bác về im lặng, con chim hót Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ(Tố Hữu)Nổi bật trên cái nền của hoa mơ nở trắng ấy, là hình ảnh con người với công việc của mùa xuân: đan nên những chiếc nón tình nghĩa gửi tặng bộ đội, dân công “nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”. Hình ảnh thơ đã nói lên được bàn tay khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút và phẩm chất tần tảo của con người Việt Bắc.Bức tranh trong nỗi nhớ của Tố Hữu không chỉ có màu đỏ tươi của hoa chuối, màu xanh ngắt của rừng, màu trắng muốt của hoa mơ, mà còn có cả màu vàng rực của rừng phách đang đổ “ve kêu rừng phách đổ vàng”. “Đổ vàng” có nghĩa là chuyển sang màu vàng nhưng nhiều và đậm hơn gợi cảm giác đột ngột. Màu của cây phách đổ vàng cả suối ngàn dường như làm cho ánh nắng của mùa hè và cả tiếng ve kêu râm ran kia nữa cũng trở nên óng vàng ra. Đây là một bức tranh sơn mài được vẽ lên bằng hoài niệm, nên lung linh ánh sáng, màu sắc và rộn rã âm thanh. Tố Hữu không chỉ có biệt tài trong việc miêu tả vẻ đẹp riêng của từng mùa, mà còn có tài trong việc miêu tả sự vận động đổi thay của thời gian và cảnh vật. Chỉ trong một câu thơ trên mà ta thấy được cả thời gian luân chuyển sống động: tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến và cây phách ngả sang màu vàng rực rỡ. Đây chính là một biểu hiện đặc sắc của tính dân tộc.Hiện lên trong cái thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy là hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn đi hái búp măng rừng cung cấp cho bộ đội kháng chiến: “Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Hái măng một mình mà không gợi lên ấn tượng về sự cô đơn, hiu hắt như bóng dáng của người sơn nữ trong thơ xưa; mà trái lại rất trữ tình, thơ mộng, gần gũi thân thương tha thiết. Hình ảnh thơ cùng gợi lên được vẻ đẹp chịu khó chịu thương của cô gái. Đằng sau đó, ẩn chứa biết bao niềm cảm thông, trân trọng của tác giả.Thu sang, khung cảnh núi rừng chiến khu như được tắm trong ánh trăng xanh huyền ảo lung linh dịu mát.
Rừng thu trăng rọi hoà bình Nhớ ai tiếng hát an tình thuỷ chung“Trăng rọi hoà bình” là ánh tráng chiếu sáng không khí thanh bình nơi chiến khu kháng chiến. Những ai đã từng đi qua những tháng ngày “mưa bom bão đạn”, đi qua bao đêm “vầng trăng” cũng “quầng lên một vầng lửa máu”, thì mới thấy hết sự xúc động của lòng người trong những đêm trăng hoà bình đó. Vì vậy tả cảnh trăng rừng mà không thấy vắng lặng, lanh lẽo; mà trái lại đã gợi lên không khí rạo rực đắm say. Bởi giữa ánh trăng rừng ấy, đã vang lên tiếng hát mang đậm ân tình thuỷ chung của ai đó càng làm cho ánh trăng như sáng hơn và cùng lung linh, thắm đượm tình người Việt Bắc hơn.Đây là đoạn thơ vừa sâu sắc về nội dung, vừa độc đáo về nghệ thuật. Nó xứng đáng là đoạn thơ hay nhất trong bài Việt Bắc. Đoạn thơ cũng thể hiện rõ phong cách thơ Tố Hữu: trữ tình sâu lắng, tha thiết ân tình và mang đậm tính dân tộc. Những câu thơ lục bát đậm đà âm hưởng ca dao, nhịp nhàng, uyển chuyển; câu nọ gọi câu kia, ý nọ gọi ý kia cứ tuôn trào lên dào dạt cảm xúc qua cách xưng hô Mình – Ta, một cách xưng hô truyền thống thắm thiết tình nghĩa. Nhạc điệu dịu dàng trầm bổng khiến cho cả đoạn thơ mang to hưởng bâng khuâng êm ái như một khúc hát ru kỷ niệm. Đặc biệt từ “nhớ” được lặp lại nhiều lần, mỗi lần một khác và sắc độ cứ tâng dần làm cụ thể hơn tấm lòng của người ra đi đôi với cảnh và người Việt Bắc.Với những nét chấm phá đơn sơ giản dị, vừa cổ điển vừa hiện đại, đoạn thơ trên của Tố Hữu đã làm nổi bật được bức tranh cảnh và người qua bốn mùa của chiến khu Việt Bắc. Cảnh và người hoà hợp vói nhau tô điểm cho nhau, làm cho bức tranh trở nên gần gùi, thân quen, sống động và có hồn hơn. Tất cả đã tan chảy thành nỗi nhớ nhung quyến luyến thiết tha trong tâm hồn người cán bộ về xuôi.(Nguyễn Thị Thanh Huyền, giáo viên dạy văn tại trường THPT chuyên Hùng Vương - Việt Trì - Phú Thọ)tửu tận tình do tại☆☆☆☆☆ 373.78Trả lời
Trang 12 trong tổng số 2 trang (11 bài trả lời)[1] [2] ›Trang sau »Trang cuối
© 2004-2025 VanachiRSS
Một phụ lưu của sông Hồng, chảy ở các huyện phía tây tỉnh Yên Bái, bắt nguồn từ hợp lưu nhiều suối ở vùng núi huyện Trạm Tấu. Tức sông Phó Đáy, bắt nguồn từ vùng núi Tam Tạo thuộc huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc Kạn, là phụ lưu lớn thứ hai của sông Lô sau sông Gâm. Chiều dài sông khoảng 170km, chảy qua địa phận các tỉnh Bắc Kạn, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc rồi đổ vào sông Lô ở TP Việt Trì (Phú Thọ), vào Tuyên Quang ở xã Trung Minh, sang Hùng Lợi rồi chảy qua nhiều xã thuộc Yên Sơn và Sơn Dương tổng cộng dài hơn 84km. Nhiều tên đất, tên làng dọc bên sông này còn lưu giữ nhiều dấu tích của Thủ đô Cách mạng và kháng chiến: Trung Minh, Hùng Lợi, Trung Sơn, Kim Quan, Trung Yên, Minh Thanh, Tân Trào, Bình Yên... Địa danh nay ở giáp ranh giữa hai xã Phú Đình, huyện Định Hoá, và Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Đây là nơi “Chùa rách bụt vàng” như lời của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, bởi dưới chân đèo De là Tỉn Keo, nơi đặt trụ sở Phủ Chủ tịch trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Lễ hội xuống đồng của dân tộc Thái, với nghi thức cày bừa, gieo hạt và các trò chơi tung còn, múa xoè, nhảy sạp,...Từ khóa » Bài Thơ Việt Bắc Trong Sgk 12
-
SGK Ngữ Văn 12 - Việt Bắc (trích - Tiếp Theo) - Giải Bài Tập
-
Việt Bắc Của Tố Hữu - Bài Thơ Việt Bắc SGK Lớp 12
-
Bài Thơ Việt Bắc - Tác Giả Tác Phẩm (mới 2022) | Ngữ Văn Lớp 12
-
Bài Thơ Việt Bắc In Trong Tập Việt Bắc, Tố Hữu
-
[SGK Scan] Việt Bắc (Trích – Tố Hữu) - Sách Giáo Khoa
-
Việt Bắc Của Tố Hữu – Ngữ Văn 12 - HOC247
-
Bài Viết Số 3 Lớp 12 đề 1: Tính Dân Tộc Trong Bài Thơ Việt Bắc – Tố Hữu
-
Bài Thơ: Việt Bắc (Tố Hữu) - SGK Ngữ Văn 12, Tập 1
-
Bài Thơ Việt Bắc Sgk Lớp 12
-
Việt Bắc - Tố Hữu | Tác Giả - Tác Phẩm Lớp 12
-
Soạn Bài: Việt Bắc (Tố Hữu) – Phần Hai: Tác Phẩm – Ngữ Văn 12
-
Việt Bắc - Bài Thơ Việt Bắc, Tác Giả, Tác Phẩm Và Dàn ý Phân Tích Việt ...
-
Soạn Bài Việt Bắc Trang 94 SGK Văn 12 – Văn Lớp 12
-
Soạn Bài Việt Bắc Sgk Ngữ Văn 12 Tập 1