Bài Tiểu Luận Kinh Tế Chính Trị.doc (Đồ án Tốt Nghiệp) | Tải Miễn Phí

Trang chủ Trang chủ Tìm kiếm Trang chủ Tìm kiếm Bài tiểu luận kinh tế chính trị doc Số trang Bài tiểu luận kinh tế chính trị 25 Cỡ tệp Bài tiểu luận kinh tế chính trị 325 KB Lượt tải Bài tiểu luận kinh tế chính trị 39 Lượt đọc Bài tiểu luận kinh tế chính trị 351 Đánh giá Bài tiểu luận kinh tế chính trị 4.3 ( 16 lượt) Xem tài liệu Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu Tải về Chuẩn bị Đang chuẩn bị: 60 Bắt đầu tải xuống Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên Chủ đề liên quan Đồ án tốt nghiệp nông thôn kinh tế xây dựng công nghiệp hoá cơ sở vật chất

Nội dung

Đề Tài: Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Sau khi hoàn thành Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên phạm vi cả nước, đất nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đảng ta kiên định giữ vững quan điểm cũng như con đường mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn là tiến lên chủ nghĩa xã hội, quyết tâm đưa đất nước trở thành một nước giàu mạnh về kinh tế, ổn định về kinh tế chính trị, xã hội công bằng văn minh. Cả nước bước vào thời kỳ cải tạo quan hệ sản xuất, xây dựng mô hình kinh tế tập trung, kế hoạch hóa theo mô hình của Liên Xô và các nước Đông Âu. Tuy nhiên sau một thời gian, mô hình kinh tế này tỏ ra lạc hậu không phù hợp với tình hình, hoàn cảnh trong và ngoài nước và tình hình thực tế, gây ra tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Trước thực trạng này, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện về kinh tế, chính trị, xã hội, trong đó trọng tâm là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội VI (12/1986) đánh dấu bước ngoặt quan trọng nhất về tư duy nhận thức là việc từ bỏ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong 25 năm qua, tư tưởng, quan điểm về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã không không ngừng được tổng kết, rút kinh nghiệm, bổ sung phát triển và ngày càng hoàn thiện qua các kỳ Đại hội của Đảng. Tuy nhiên, nhìn thẳng vào thực tiễn, thể chế KTTT định hướng XHCN cũng còn bộc lộ không ít vấn đề bất cập. Những hạn chế nảy sinh trong thực tế đời sống trở thành “rào cản” của sự phát triển và được Đại hội XI của Đảng nhìn nhận: “Kinh tế phát triển chưa bền vững. Chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sự cạnh tranh của nền kinh tế thấp; các cân đối kinh tế vĩ mô chưa vững chắc”. Do vậy, nghiên cứu tìm hiểu về nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có ý nghĩa lý luận và thực tiễn vô cùng sâu sắc. Trải qua một quá trình học tập, nghiên cứu em quyết định lựa chọn và giải quyết đề tài “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”. Do nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, nên trong khuôn khổ bài viết này tác giả không có điều kiện đi qua sâu nghiên cứu, mà chỉ dựa trên cơ sở kiến thức đã được trang bị và thực trạng nền kinh tế thông qua các số liệu thống kê để đánh giá nền kinh tế nước nhà. 2. Giới hạn nghiên cứu. Những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về định hướng xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt nam. Thời gian nghiên cứu của đề tài chủ yếu từ Đại hội VI (1986) của Đảng cho đến nay. 3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu. 1 Đề Tài: Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam - Cơ sở lý luận Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin (chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử) và tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa; những quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã họi chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới. - Phương pháp nghiên cứu Với nội dung và phạm vi nghiên cứu như trên, đề tài sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic là chính. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh số liệu để làm rõ nội dung nghiên cứu. 4. Kết cấu gồm 3 chương Ngoài phần mở đầu và kết luận, tiểu luận luận được kết cấu thành 3 chương: - Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. - Chương 2: Thực trạng của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. - Chương 3: Quan điểm, mục tiêu, bước đi và giải pháp phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. II. PHẦN NỘI DUNG Chương 1 Cơ sở lý luận và thực tiễn của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1. Khái niệm nền kinh tế hàng hoá. Ở Việt Nam hiện nay phổ biến quan điểm về nền kinh tế hàng hoá về nền kinh tế hàng hoá được đưa ra trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. Theo văn kiện này thì nền kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó hình thái phổ biến là sản xuất ra hàng hoá để bán, để trao đổi trên thị trường. Nền kinh tế hàng hoá rõ ràng đối lập với nền kinh tế tự nhiên ở mục đích sản xuất của nền kinh tế. Nếu trong nền kinh tế tự nhiên sản phẩm 2 Đề Tài: Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam được sản xuất để phục vụ cho nhu cầu của chính người sản xuất thì trong nền kinh tế hàng hoá người sản xuất sản xuất hàng hoá để đem trao đổi trên thị trường. Cũng từ đó mà phương thức trao đổi trong nền kinh tế tự nhiên là trao đổi hàng đổi hàng còn trong nền kinh tế hàng hoá là trao đổi T-H-T. Nền kinh tế hàng hoá cũng đối lập với nền kinh tế chỉ huy bởi nền kinh tế hàng hoá được điều tiết bởi cơ chế thị trường trong khi nền kinh tế chỉ huy được điều tiết bởi cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Thực tế nền kinh tế nước ta trong giai đoạn 1975-1986 và giai đoạn sau 1986 kể từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay đã cho thấy sự yếu kém của nền kinh tế kế hoạch hoá so với nền kinh tế hàng hoá. Do đó thật dễ hiểu khi Đảng và Nhà nước Việt Nam lại quyết tâm xây dựng nền kinh tế nước ta thành nền kinh tế hàng hoá. 1.1.2. Vấn đề thị trường theo quan điểm hiện đại. Trong nền kinh tế hàng hoá, mọi sản phẩm hàng hoá và dịch vụ đều được mua bán trên thị trường. Thị trường có vai trò quan trọng trong sự phát triển cuả nền kinh tế hàng hoá bởi một lý do quan trọng nhất là thị trường chính là là trung tâm của cả quá trình sản xuất hàng hoá. Nó đóng vai trò làm môi trường và điều kiện cho tất cả các hoạt động trao đổi hàng hoá và qua đó giải quyết vấn đề cơ bản nhất của nền kinh tế là sản xuất mặt hàng gì, số lượng bao nhiêu. Ban đầu người ta tin rằng thị trường là một phần tất yếu của nền kinh tế hàng hoá, ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Theo nghĩa đó thị trường gắn liền với địa điểm nhất định trên đó diễn ra những quá trình trao đổi, mua bán hàng hoá. Cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hoá, thị trường cũng được mở rộng và quan niệm thị trường cũng được hiểu đầy đủ hơn. Đó là lĩnh vực trao đổi hàng hoá thông qua tiền tệ làm môi giới. Trên thị trường người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá và số lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường. Ngày nay các nhà kinh tế học thống nhất với nhau về quan điểm thị trường như sau: Thị trường là một quá trình mà trong đó người bán và người mua tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và sản lượng. Cũng theo quan điểm kinh tế học hiện đại thị trường được chia thành thị trường hàng hoá tiêu dùng, dịch vụ và thị trường các yếu tố đầu vào, thị trường trong nước và thị trường quốc tế. 1.1.3. Cơ chế thị trường a. Định nghĩa cơ chế thị trường Chúng ta biết rằng hai vấn đề quan trọng nhất của nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá và cơ chế thị trường. Theo định nghĩa của Samuelson viết trong cuốn Kinh tế học thì cơ chế thị trường là một hình 3 Đề Tài: Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam thức tổ chức kinh tế trong đó cá nhân người tiêu dùng và các nhà kinh doanh tác động lẫn nhau qua thị trường để xác định ba vấn đề trung tâm của tổ chức kinh tế là sản xuất cái gì, như thế nào và cho ai? Theo Samuelson cơ chế thị trường “không phải là sự hỗn độn mà là trật tự kinh tế”, “là một bộ máy tinh vi phối hợp một cách không tự giác nhân dân và doanh nghiệp”. Do đó nói đến thị trường và cơ chế thị trường là phải nói tới người bán, người mua và giá cả, hàng hoá và giá cả hàng hoá. - Quy luật cung- cầu Cầu là khối lượng hàng hoá và dịch vụ mà người tiêu dùng mua trong một thời kỳ tương ứng với giá cả, thu nhập và các biến số về kinh tế xác định. Người tiêu dùng ở đây bao gồm dân cư, các doanh nghiệp nhà nước và cả nước ngoài. Tiêu dùng bao gồm cả tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân. Lượng cầu phụ thuộc vào các yếu tố chủ yếu như: thu nhập, sức mua của tiền tệ, giá cả hàng hoá, thị hiếu của người tiêu dùng…Trong đó giá cả hàng hoá là nhân tố tác động trực tiếp và tỷ lệ nghịch với lượng cầu. Cung là khối lượng hàng hoá và dịch vụ mà chủ thể kinh tế đem bán ra thị trường trong một thời kỳ nhất định, tương ứng với mức giá cả, khả năng sản xuất, chi phí sản xuất xác định. Lượng cung phụ thuộc vào khả năng sản xuất, vào số lượng và chất lượng các nguồn lực, các yếu tố sản xuất được sử dụng, năng suất lao động và chi phí sản xuất. Giá cả của hàng hoá và dịch vụ trên thị trường là yếu tố trực tiếp ảnh hưởng tới lượng cung về hàng hoá, dịch vụ đó. Cung tỷ lệ thuận với giá. Quan hệ cung cầu là quan hệ giữa những người bán và những người mua, giữa những người sản xuất và những người tiêu dùng; là những quan hệ có vai trò quan trọng trong nền kinh tế hàng hoá. Không phải chỉ có giá cả ảnh hưởng tới cung cầu mà quan hệ cung cầu ảnh hưởng tới việc xác định giá cả trên thị trường - Hàng hoá Hàng hoá là sản phẩm của lao động, một là nó có thể thoả mãn được nhu cầu nào đó của con người, hai là nó được sản xuất ra không phải để người sản xuất ra nó tiêu dùng mà là để đem ra trao đổi. Hàng hoá có hai thuộc tính là thuộc tính giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá. Sản phẩm nào mà không chứa đựng lao động của con người thì không có giá trị, khi giá trị thay đổi thì giá trị trao đổi cũng thay đổi. Giá trị trao đổi chính là hình thức biểu hiện của giá trị. Giá trị là một phạm trù lịch sử, nó gắn liền với nền sản xuất hàng hoá, khi nào còn sản xuất và trao đổi hàng hoá thì còn tồn tại phạm trù giá trị. Giá trị sử dụng là công dụng của sản phẩm có thể thoả mãn một nhu cầu nào đó của con người.Công dụng của sản phẩm do thuộc tính tự nhiên của sản phẩm đó qui định. Giá trị sử dụng thể hiện ở việc sử dụng hay tiêu 4 Đề Tài: Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam dùng nó là nội dung của của cải, không kể hình thức xã hội của cải đó như thế nào. Với ý nghĩa như vậy thì giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn. Một sản phẩm đã là hàng hoá thì nhất thiết phải có giá trị sử dụng nhưng không phải bất cứ sản phẩm gì có giá trị sử dụng cũng đều là hàng hoá. Trong kinh tế hàng hoá, giá trị sử dụng là cái mang giá trị trao đổi. - Tiền tệ Trong giai đoạn đầu của trao đổi hàng hoá, người ta đổi trực tiếp một vật này lấy một vật khác, với sự phát triển của phân công lao động xã hội và trao đổi hàng hoá trong thời kỳ suy tàn của chế độ công xã nguyên thuỷ, những nhược điểm của hình thái giá trị toàn bộ hay mở rộng ngày càng rõ rệt. Trong quá trình trao đổi hàng hoá xuất hiện một nhu cầu là những người chủ hàng hoá phải tìm được một loại hàng hoá nào mà được nhiều người ưa thích để đổi hàng hoá của mình để lấy hàng hoá đó. Sau đó dùng hàng hoá ấy đổi lấy thứ hàng hoá mà mình cần. Như vậy, việc trao đổi không còn là trực tiếp mà phải qua một bước trung gian. Lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển cuộc phân công lao động xã hội lớn lần thứ hai thúc đẩy mạnh sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá, điều đó đòi hỏi phải có vật ngang giá chung thống nhất giữa các vùng, như vậy tiền tệ đã xuất hiện. Tiền tệ xuất hiện là kết quả lâu dài và tất nhiên của trao đổi hàng hoá. Tiền tệ có khả năng trao đổi trực tiếp với mọi hàng hoá, nó trở thành phương tiện biểu hiện giá trị của hàng hoá. Tiền tệ là thứ hàng hoá đặc biệt được tạo ra là vật ngang giá chung cho các hàng hoá khác. Nó thể hiện giá trị lao động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá. Nhu cầu trao đổi đã phát triển đến mức cần có những loại tiền mới không chỉ là tiền giấy, sec mà còn là thẻ tín dụng, tiền điện tử….nó được chuyển nhượng thông qua các máy tính, đường điện thoại và thậm chí có thể tồn tại trên giấy tờ. Như vậy ngày nay tiền được coi là mọi thứ được xã hội chấp nhận làm phương tiện thanh toán và trao đổi. Bản thân chúng có thể có hoặc không có giá trị riêng. - Giá cả Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá. Giá cả phản ánh tình hình cung cầu, có thể nhận biết sự khan hiếm tương đối của hàng hoá qua sự biến đổi giá cả. Tin tức về giá cả có thể hướng dẫn đơn vị kinh tế có liên quan định ra những quyết sách đúng đăn. Trong lĩnh vực phân phối, lưu thông và tiêu dùng sự biến đổi giá cả cũng cung cấp những thông tin cần thiết để chính phủ, xí nghiệp và cá nhân định ra những quyết định. Giá cả lên xuống như một bàn tay vô hình điều tiết lợi ích của mọi người, chỉ huy hành động của người sản xuất, điều tiết hành vi của người tiêu dùng. Giá cả còn có chức năng thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, giảm lượng lao động xã hội trung bình cần thiết và chức năng phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân, thu nhập cá nhân. Giá cả chỉ có thể phát huy các chức năng trên dựa vào tiền tệ. Giá cả có đầy đủ tính đàn hồi, thị trường phải có tính 5 Đề Tài: Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam cạnh tranh đầy đủ nếu không sẽ làm thiệt hại chức năng của giá cả. Trong nền kinh tế thị trường, sự hình thành giá cả phải lấy giá trị làm cơ sở và dựa vào yêu cầu của qui luật giá trị. Qui luật giá trị thông qua cungcầu có ý nghĩa quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Cho nên vận dụng qui luật giá trị, tình hình cung cầu trên thị trường để hình thành giá cả là phương tiện và con đường quan trọng thúc đẩy tiến bộ xã hội. Mặc dù cơ chế thị trường ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là cơ chế có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, song có chế hình thành giá cả phải từ thị trường là chủ yếu, người sản xuất kinh doanh có quyền định giá. Cơ chế hình thành giá này đòi hỏi Nhà nước trong khi chỉ đạo và quản lý giá cả phải làm cho tuyệt đại đa số hàng hoá phù hợp với giá thị trường do các tổ chức kinh tế căn cứ vào quan hệ cung cầu của thị trường qui định, thông qua giá cả Nhà nước điều tiết, hướng dẫn việc đầu tư một cách hợp lý. - Cạnh tranh Cạnh tranh là một trong những qui luật của nền kinh tế thị trường. Khi thực hiện chuyển đổi nền kinh tế cũ sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải chấp nhận những qui luật của nền kinh tế thị trường trong đó có qui luật cạnh tranh. Cạnh trạnh xuất hiện cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa, cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa những người sản xuất kinh doanh với nhau để giành giật lấy những điều kiện có lợi về sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, nhằm tối đa hóa lợi nhuận của mình. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh vừa là môi trường, vừa là động lực cho sự phát triển kinh tế. Trong quá trình cạnh tranh các nguồn lực của xã hội sẽ được chuyển từ nơi sản xuất kém hiệu quả đến nơi có sản xuất có hiệu quả cao hơn. Tạo ra lợi ích xã hội cao hơn, mọi người sẽ sử dụng những sản phẩm tốt hơn, cạnh tranh đem lại sự đa dạng của sản phẩm dịch vụ. Do đó tạo ra nhiều lựa chọn hơn cho khách hàng, cho người tiêu dùng. Như vậy, cạnh tranh là một cơ chế vận hành chủ yếu và là đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường, nó là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển. Cạnh tranh có thể được xem như là quá trình tích lũy về lượng để từ đó thực hiện các bước nhảy thay đổi về chất. Mỗi bước nhảy thay đổi về chất là mỗi nấc thang của xã hội, nó làm cho xã hội phát triển đi lên tốt đẹp hơn. Vậy sự tồn tại của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan. b. Ưu điểm và khuyết điểm của cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường đảm bảo cho nền kinh tế vận động một cách bình thường, thúc đẩy sự phát triển và tăng trưởng kinh tế, tạo ra thành tựu kinh tế to lớn mà các nền kinh tế trước đây không thể nào đạt đến được. Đó chính là ưu điểm to lớn nhất của cơ chế thị trường mặc dù bản thân nó cũng 6 Đề Tài: Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam vẫn tồn tại những nhược điểm vốn là bản chất của nó. Theo quan điểm của Samuelson nền kinh tế thị trường chịu sự điều khiển của “hai ông vua”: người tiêu dùng và kỹ thuật. Người tiêu dùng thống trị thị trường vì họ chính là người bỏ tiền ra mua hàng hoá do các doanh nghiệp sản xuất ra. Hay nói một cách đơn giản hơn, họ chính là người quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp thông qua các quyết định mua và sử dụng hàng hoá dịch vụ của doanh nghiệp. Tuy nhiên ngoài người tiêu dùng ra thị trường còn tồn tại một ông vua nữa, đó là kỹ thuật. Bởi vì việc sản xuất không thể vượt quá khả năng kỹ thuật nên thực ra cầu hàng hoá phải chịu theo cung ứng của người sản xuất. Người sản xuất sẵn sàng chuyển sang lĩnh vực kinh doanh khác nếu như có lợi nhuận hơn. ỏ đây thị trường đóng vai trò trung gian giữa sở thích người tiêu dùng và hạn chế kỹ thuật. Qua phân tích trên ta có thể hình dung phần nào những ưu điểm của cơ chế thị trường. Trước hết cơ chế thị trường kích thích và tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể kinh tế hoạt động và phát triển. Do đó mà mọi tiềm năng của nền kinh tế được sử dụng tối đa tham gia vào hoạt động phát triển kinh tế. Đồng thời tính cạnh tranh quyết liệt luôn tồn tại trong nền kinh tế bắt buộc người sản xuất giảm chi phí lao động đến mức tối thiểu bằng cách tăng cường áp dụng khoa học kỹ thuật mới. Chính yếu tố này đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng vào số lượng hàng hoá, qua đó người tiêu dùng chính là những người được lợi nhiều nhất. Ưu điểm thứ hai là tính mềm dẻo dễ điều chỉnh của cơ chế kinh tế thị trường. Chính sự thay đổi về giá cả trên thị trường cho phép các doanh nghiệp nhanh chóng nhận biết yêu thay đổi cho phù hợp với tình hình mới. Trong thực tế các doanh nghiệp Nhà nước thường chậm chạp trong việc thay đổi này do việc ra quyết định không thể nhanh chóng như ở các doanh nghiệp không phải Nhà nước. Vấn đề cơ bản là ở chỗ sự chuyển đổi nhanh chóng này giúp cho nền kinh tế nhanh chóng đi vào ổn định hơn khi có sự thay đổi. Tuy nhiên đôi khi chính nền kinh tế cũng không thể nhanh chóng đi vào ổn định mà khi đó cần có sự can thiệp của Nhà nước thong qua các chính sách kinh tế vĩ mô hợp lý. Nói chung, mục đích của các doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường là lợi nhuận. Thế nhưng lợi nhuận lại chỉ có được thông qua sự tiêu dùng của cách hàng. Bởi vậy để có được lợi nhuận tối đa, các doanh nghiệp bắt buộc phải quan tâm đến nhu cầu của khách hàng, cụ thể là nhu cầu về chất lượng và giá cả. Khách hàng luôn đòi hỏi chất lượng hàng hoá phải được nâng cao trong khi giá bán hạ xuống. Để đáp ứng đòi hỏi của “ông vua” này doanh nghiệp phải lựa chọn phương thức sản xuất sao cho chi ohí sản xuất giảm xuống đến mức có thể trong khi vẫn đảm bảo chất lượng. Như vậy cơ chế thị trường đã giải quyết ba vấn đề cơ bản của nền kinh tế trong 7 Đề Tài: Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam khi với cơ chế kế hoach hoá việc Nhà nước tự ra quyết định sản xuất thường gây ra sự khác biệt giữa cầu và cung dẫn đến sự rối loạn của thị trường hàng hoá. Tuy nhiên lịch sử loài người cũng ghi nhận những khuyết điểm của cơ chế thị trường đặc biệt là trong các vấn đề xã hội. Trước hết do áp lực cạnh tranh mà trong quá trình sản xuất đã phát sinh vấn đề phân hoá giàu nghèo. Những người tồn tại và phát triển được cùng với cơ chế thị trường sẽ có được những nguồn thu nhập lớn trở nên giàu có trong khi một bộ phận không nhỏ khác phải chấp nhận phá sản, trở nên nghèo khó. Khi xã hội càng phát triển thì sự phân hoá giàu nghèo càng diễn ra mạnh mẽ giữa những cư dân cùng quốc gia, giữa mức sống dân chúng của các nước. Ngày nay, sự khác biệt đó đã lên đến hàng trăm lần. Tại những quốc gia có mức sống cao, GDP đầu người hàng năm vào khoảng trên 30000 USD trong khi quốc gia nghèo khó nhất như Mozambic thu nhập đầu người tính theo GDP chỉ đạt 80USD. Sự chênh lệch này sẽ càng thể hiện rõ hơn khi so sánh với tỷ lệ hồi đầu thế kỷ trước chỉ khoảng vài chục lần. Ngoài ra do mục tiêu lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường, người ta sẵn sàng lạm dụng tài nguyên xã hội, làm ô nhiễm môi trường nhằm mục tiêu giảm chi phí sản xuất qua đó nâng cao lợi nhuận. Hậu quả là môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng, tài nguyên cạn kiệt, hệ sinh thái mất cân bằng. Chỉ đến gần đây người ta mới nhận thức được vấn đề này. Nhưng khi mà các nước nỗ lực giảm lượng khí thải xuống thì việc Mỹ rút khỏi công ước Kyoto 8 Đề Tài: Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam thì người ta sẽ còn vô số việc phải làm để đảm bảo sự phát triển bền vững cho các thế hệ sau. Cũng do mục đích lợi nhuận mà các nhà kinh doanh sẽ không tham gia vào một số lĩnh vực kinh tế có tỷ suất lợi nhuận thấp hoặc các ngành kinh tế công cộng. Do đó nền kinh tế có thế phát triển mất cân đối và cần có sự tham gia vào của Nhà nước để khắc phục nhược điểm này. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là thời kỳ đỉnh cao của các công ty độc quyền với làn sóng sát nhập và thôn tính. Phải mất hàng chục năm sau người ta mới nhận ra tác hại của các công ty độc quyền này đối với nền kinh tế. Tại Mỹ Luật chống độc quyền chỉ ra đời vào năm 1960, các nước khác còn muộn hơn. Bởi vì cơ chế thị trường chỉ hoạt động có hiệu quả trong môi trường cạnh tranh hoàn hảo để có thể thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất nhờ đó mà sử dụng hiệu quả đến tối đa các nguồn lực của nền kinh tế. Khi có sự tồn tại của các công ty độc quyền cơ chế này không còn hiệu quả nữa. Nhưng sự xuất hiện của các công ty độc quyền gần như là hệ quả tất yếu của quá trình cạnh tranh. Bởi vậy sự can thiệp của Nhà nước là cần thiết để duy trì tính lành mạnh của thị trường. 1.2. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 1.2.1. Định nghĩa nền kinh tế thị trường. Theo quan điểm của Samuelson trích trong Kinh tế học thì “Một nền kinh tế thị trường là một cơ chế tinh vi để phối hợp một cách không tự giác nhân dân và doanh nghiệp thông qua hệ thông giá cả và thị trường. Nó là một phương tiện giao thông để tập hợp tri thức và hành động của hàng triệu cá nhân khác nhau, không có bộ não trung tâm nó vẫn giải được bài toán mà máy tính lớn nhất ngày nay cũng không thể giải nổi. Không ai thiết kế ra nó. Nó tự xuất hiện và nó đang thay đổi cũng như xã hội loài người.” Theo quan điểm của Đảng ta, một nền kinh tế mà trong đó những vấn đề cơ bản của nó do thị trường quyết định được xem là nền kinh tế thị trường. Nói cách khác nền kinh tế thị trường chính là nền kinh tế hàng hoá chịu sự điều khiển của cơ chế thị trường. Nền kinh tế này khác với nền kinh tế tập trung ở chủ thể xác định các vấn đề cơ bản của nền kinh tế. nền kinh tế tập trung chủ thể này là Nhà nước thông qua các mệnh lệnh hành chính. Chính sự khác biệt này tạo ra sức mạnh và động lực cho nền kinh tế phát triển. Tại Việt Nam kể từ Đại hội Đảng toàn quốc làn thứ VI, chúng ta đã xác định xây dựng nền kinh tế thành nền kinh tế thị trường nhưng theo định 9 Đề Tài: Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hướng xã hội chủ nghĩa. Tức là có sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế nhưng không phải can thiệp vào nền kinh tế theo kiểu mệnh lệnh hành 10 chính mà can thiệp thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm ổn định nền kinh tế và tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế tham gia vào sản xuất và kinh doanh. Sự can thiệp này được xem là cần thiết nhằm thiết lập khuôn khổ pháp luật phù hợp, sửa chữa những khuyết tật của thị trường, đảm bảo sự công bằng xã hội và ổn định kinh tế vĩ mô (Kinh tế họcSamuelson). Đây là lý thuyết nền kinh tế hỗn hợp đã được Samuelson đưa ra. Theo ông phát triển kinh tế phải dựa trên hai bàn tay là cơ chế thị trường và Nhà nước:” điều hành một nền kinh tế không có cả chính phủ lẫn thị trường thì cũng như định vỗ tay bằng một bàn tay”. Tuy nhiên trong hoàn cảnh nước ta thì sự can thiệp của Nhà nước còn đóng vai trò giữ cho nền kinh tế đi theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. 1.2.2. Bản chất kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có một số điểm như sau: Thứ nhất , quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường đồng thời cũng là quá trình thực hiện nền kinh tế mở, nhằm hoà nhập với thị trường thế giới. Thứ hai, bản chất của quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là quá trình chuyển nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự cung tự cấp sang nền kinh tế hàng hoá tiến tới nền kinh tế thị trường và qua trình chuyển cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã khẳng định nền kinh tế hàng hoá đã làm cho thị trường dân tộc gắn bó và hoà nhập với thị trường thế giới, Chính giao lưu hàng hoá đã làm cho quan hệ quốc tế được mở rộng khỏi phạm vi quốc gia, thúc đẩy nền kinh tế phát triển một cách nhanh chóng. Trong quan hệ quốc tế chúng ta có nhiều đổi mới quan trọng. Chúng ta đã chuyển quan hệ quốc tế từ đơn phương sang đa phương, quan hệ với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị, theo nguyên tắc đôi bên cùng có lợi và không can hệ vào chuyện nội bộ của nhau. 1.2.3. Đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta: Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân lao động và tất cả các thành viên trong xã hội. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối. Về sở hữu sẽ phát triển theo hướng còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau, nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân và thực hiện công bằng xã hội nên phải từng bước xác lập và phát triển chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất chủ yếu một cách vững chắc, tránh nóng vội xây dựng ồ ạt mà không tính đến hiệu quả như trước đây. Về quản lý trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải có sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, kế hoạch, chính sách đồng thời sử dụng cơ chế thị trường, các hình thức kinh tế và phương thức quản lý kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy tính tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực, khuyết tật của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích nhân dân lao động và toàn thể quần chúng nhân dân. Về phân phối kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. Cơ chế phân phối này vừa tạo động lực kích thích các chủ thể kinh tế nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, đông thời hạn chế những bất công trong xã hội.Thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn liền với công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường nước ta còn thể hiện ở chỗ tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hoá, giáo dục xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con nguời, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước. Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước thể hiện trình độ tư duy và vận dụng của Đảng ta về qui luật sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đây là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 1.2.4. Sự tồn tại nền kinh tế thị trường tại Việt Nam là một thực tế khách quan. Việt Nam đang tồn tại đủ các điều kiện cần thiết là cơ sở tồn tại của nền kinh tế hàng hoá. Phân công lao động đang phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Nhiều ngành nghề mới đã ra đời, đặc biệt là những ngành công nghiệp có hàm lượng kỹ thuật kết tinh trong sản phẩm cao như điện tử, tin học... Bên cạnh đó các ngành nghề cổ truyền cũng đang phát triển mạnh mẽ. Các sản phẩm của ngành đang từng bước khẳng định thương hiệu trên thị trường trong nước và quốc tế. Đây chính là những thế mạnh của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới. Sự phát triển này đã kéo theo sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất. Lao động Việt Nam đã được cải thiện đáng kể về chất cũng như về lượng. Đồng thời tình trạng lao động cũng được phân bố lại cho phù hợp hơn giữa các ngành, các vùng. Lao động Việt Nam cũng đã vươn ra thị trường thế giới và thực tế đã chứng minh được những ưu thế của mình. Thực sự phân công lao động Việt Nam đã trở thành một bộ phận của phân công lao động thế giới. Kể từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần VI, Việt Nam đã chính thức thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Nhờ đó các thành phần kinh tế này đã có những điều kiện cần thiết để phát triển. Từ đó xuất hiện sự khác biệt giữa các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động. Đây chính là điều kiện đủ để nền kinh tế hàng hoá có cơ sở ra đời. Khác biệt về sở hữu tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động đã tạo ra động lực to lớn để thúc đẩy kinh tế phát triển mặc dù mặt trái của nó chính là vấn đề phân hoá giàu nghèo. Sau một thời gian dài duy trì cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã đến lúc chúng ta cần một sự chuyển đổi để phát triển kinh tế. Cơ chế thị trường với những ưu thế không thể chối cãi là một sự lựa chọn hợp lý và tất yếu. Cơ chế quản lý cũ cồng kềnh, kém năng lực đã không còn phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế. Những căn bệnh đặc trưng của cơ chế cũ như bảo thủ, trì trệ, kém năng lực, hình thành nên một bộ máy quản lý thiếu chuyên môn nghiệp vụ nhưng lại có thái độ quan liêu cửa quyền cần phải được thay đổi. Thực tế cho thấy trải qua gần hai mươi năm đổi mới vậy nhưng chúng ta vẫn phải thực hiện các cuộc chỉnh đốn Đảng, cải cách bộ máy hành chính chứng tỏ những quan niệm cũ sai lầm đã ăn sâu bám rễ như thế nào. Việc xoá bỏ hoàn toàn không hề dễ ràng, không thể hoàn thành trong một sớm một chiều nhưng đó là việc cần thiết để thúc đẩy kinh tế phát triển. Cùng với cơ chế cũ là sự bất cập khi Nhà nước can thiệp quá sâu vào sản xuất kinh doanh, điều hành không tuân theo các quy luật kinh tế mà theo cảm tính dẫn đến sự thất bại trong thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội đã đặt ra. Chuyển sang cơ chế mới sẽ tạo điều kiện cho sự các thành phần kinh tế xã hội phát triển theo đúng những quy luật kinh tế khác quan. Chương 2 Thực trạng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay 1.Đánh giá chung về thực trạng KT thị trường ở Việt Nam: 1.1. Thành tựu: Sau khi Việt Nam kí kết hiệp định thương mại song phương Việt - Mĩ thì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu nước ta bắt đầu tăng lên nhưng chỉ ở mức khiêm tốn. Dưới đây là bảng số liệu: Duy trì được tính ổn định: viễn cảnh KT của Việt Nam đang có những cải thiện đáng kể. Sự cải thiện này nhờ một loạt chính sách và cơ chế đưa nền KT vào một quỹ đạo tăng trưởng trung hạn có tầm cao hơn, kể cả trong điều kiện môi trường bên ngoài còn chưa thuận lợi. Khu vực KT ngoài quốc doanh trong nước tiếp tục dẫn đầu về tăng trưởng. Điều này phản ánh sự chuyển dịch dần dần của Việt Nam sang KT thị trường. Trong những năm gần đây do các chính sách phát triển KT của nhà nước XHCN Việt Nam nên đã thu hút được rất nhiều các nhà đầu tư trong khu vực và thế giới. 1.2 Mặt tồn tại trong nền KT thị trường định hướng xhcn ở việt nam và những nguyên nhân của những mặt tồn tại đó: 1.2.1. KT thị trường còn sơ khai chưa đạt trình độ của nền KT thị trường hiện đại. Do những nguyên nhân sau: Cơ sở vật chất còn ở trình độ thấp, trình độ trang thiết bị kỹ thuật công nghệ ở trong các doanh nghiệp còn lạc hậu và cũ kĩ. Dẫn đến hiệu quả là năng suất thấp, chất lượng sản phẩm thấp, chi phí cao, giá cao. Kết quả là năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ta trên thị trường quốc gia và quốc tế rất kém. Theo UNDP, Việt Nam đang ở trình độ công nghệ lạc hậu của thế giới, lao động thủ công chiếm tỉ lệ lớn trong tổng số lao động xã hội. Kết cấu hạ tầng (hệ thống giao thông, bến cảng, hệ thống thông tin liên lạc...) còn lạc hậu, kém phát triển, làm hạn chế giao lưu KT giữa các vùng trong nước, giữa trong và ngoài nước. Do cơ sở vật chất kỹ thuật còn ở trình độ thấp làm cho phân công lao động kém phát triển, sự chuyển dịch cơ cấu KT chậm. Nền KT nước ta chưa thoát khỏi nền KT nông nghiệp sản xuất nhỏ. Nông nghiệp vẫn sử dụng khoảng 70% lực lượng lao động, nhưng chỉ sản xuất trên 20%GDP, các ngành KT công nghiệp cao chiếm tỉ trọng thấp. 1.2.2. Thị trường dân tộc thống nhất đang trong quá trình hình thành nhưng chưa đồng bộ: Thị trường hàng hoá tiêu dùng &dịch vụ: đã được hình thành nhưng còn hạn hẹp và còn nhiều hiện tượng tiêu cực (hàng giả,hàng nhập lậu, hàng nhái nhãn hiệu vẫn làm rối loạn thị trường ). thị trường hàng hoá sức lao động mới manh nha, nét nổi bật của thị trường này là sức cung về lao động lành nghề nhỏ hơn cầu rất nhiều, trong khi đó cung về sức lao động giản đơn lại vượt quá xa cầu, thị trường hoạt động chỉ mang tính tự phát, tỉ lệ người tham gia vào thi trường còn thấp, năng lực cạnh tranh còn thấp do tay nghề thấp. Thị trường tài chính &tiền tệ: đang trong quá trình hình thành, nên hoạt động mang tính quá độ từ KT kế hoạch hoá tập trung sang KT thị trường, giao dịch tiền mặt chiếm phần lớn. Các yếu tố được hình thành chưa đồng bộ, hệ thống pháp luật để hướng dẫn quản lí chưa hoàn thiện & đang thiếu đồng bộ. Thị trường bất động sản: mới được hình thành nên tính nhậy cảm còn rất cao, liên quan động chạm tới mọi dân cư, thành phần KT, 70% là giao dịch ngầm, giá cả đang biến động thất thường. Thị trường KHCN: xuất hiện một số hình thức và thương mại hoá, ở Việt Nam chưa được hình thành. Vì chưa thiết lập quan hệ cung-cầu đối với sản phẩm KHCN, vì vậy việt nam không gia nhập thị trường này vào thị trường khoa học thế giới. 1.2.3 Nhiều thành phần KT tham gia vào thị trường: trên thị trường tồn tại nhiều loại hình sản xuất hàng hoá giản đơn với quy mô lớn(doanh nghiệp,công ty) sản xuất XHCN( KT nhà nước, hợp tác xã ); sản xuất TBCN (doanh nghiệp tư nhân CTY tư nhân )., trong đó sản xuất hàng hoá nhỏ phân tán còn phổ biến. Vì vậy có nhiều loại hình quy luật chi phối: QLKT TBCN,QLKT XHCN, QL sản xuất hàng hoá nhỏ. Song vẫn tuân thủ những yêu cầu của các QLKT thị trường, tạo tính phức tạp trong quan hệ KT quản lí điều hành KT vĩ mô của nhà nước. 1.2.4. Khả năng mở cửa hội nhập gắn thị trường khu vực với thị trường thế giới còn hạn chế: Khả năng phát huy lợi thế so sánh cuả việt nam trong khu vực và thế giới còn hạn chế. Hiện tại Việt Nam có 3 lợi thế: tài nguyên, nhân công & vị trí điạ lí nhưng phát huy chưa có hiệu quả. Xuất nhập khẩu: nước ta đang trong tình trạnh nhập siêu vì xuất khẩu của ta chỉ là sản phẩm thô nên giá trị xuất khẩu thấp. ( nhập siêu: 12,3% năm 2010). Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam: 71,60 % năm 2010. 1.2.5.Quản lý nhà nước về KT-XH còn yếu kém: Chưa khắc phục tình trạng chồng chéo về chức năng nhiệm vụ giữa các bộ ngành, cơ quan chính quyền cửa các tỉnh, thành phố, địa phương. Quản lí nhà nước về KT nặng về kiểm tra, xử lý nhiều hơn là hỗ trợ và tạo điều kiện cho hoạt đông kinh doanh của các doanh nghiệp. Cải cách hành chính còn chậm, trong khi đó tình trạng tham nhũng lãng phí tài sản của nhà nước ở mức độ nghiêm trọng. Chương 3 Quan điểm, mục tiêu, bước đi và giải pháp phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 3. 1 Quan điểm: Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đánh dấu mốc quan trọng trong quá trình đổi mới của Đảng ta. Tại đại hội này, lần đầu tiên, Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra quan điểm “phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội”, coi đây là vấn đề "có ý nghĩa chiến lược và mang tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội". Đến Đại hội VII, Đảng đã khẳng định: "Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước". Tới Đại hội Đảng VIII, Đại hội IX và Đại Hội X, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được khẳng định một cách sâu sắc, đầy đủ hơn như là mô hình kinh tế tổng quát hay mô hình mới của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tại Đại hội XI, Đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết nhiệm kỳ 2006- 2010, đã khẳng định: “Thể chế kinh tế, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn là những điểm yếu cản trở sự phát triển”1. Để khắc phục, Đại hội XI chủ trương thực hiện 3 đột phá chiến lược: hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCN, phát triển nhanh nguồn nhân lực và xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện đại; trong đó, việc hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN được đặt lên hàng đầu, bởi đó là khâu đột phá mang lại hiệu quả cao nhất, có tác động thúc đẩy 2 đột phá còn lại. 3.2. Mục tiêu- bước đi Mục tiêu cơ bản của hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là làm cho các thể chế phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị trường, thúc đẩy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, hội nhập kinh tế quốc tế thành công, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu phát triển đề ra không chỉ cải thiện nền kinh tế nước ta mà còn đặt ra yêu cầu đảm bảo định hướng kinh tế xã hội chủ nghĩa. Theo định hướng kinh tế nước ta thì kinh tế Nhà nước là một trong những nhân tố bảo đảm tính hướng kinh tế thị trường. Thành phần kinh tế Nhà nước hoạt động sản xuất kinh doanh theo nguyên tắc tự hạch toán, phân phối theo lao động và hợp tác kinh doanh. Chủ trương của Nhà nước ta là kinh tế Nhà nước tập trung vào những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế như ngân hàng, tài chính, điện lực, an ninh quốc phòng và khu vực kinh tế công cộng và nắm giữ vai trò chủ đạo, định hướng cho nền kinh tế. Kinh tế Nhà nước cần đủ sức mạnh để có thể ổn định nền kinh tế nhất là trong những cuộc khủng hoảng, suy thoái kinh tế. Ngoài ra còn một nhân tố đóng vai trò quan trọng khác là sự tham gia của Nhà 1 Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam - Báo Nhân dân, ngày 21-1-2011 nước vào nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên Nhà nước chỉ can thiệp ở tầm vĩ mô, đảm bảo tính ổn định và trong sạch của thị trường. Đồng thời sự can thiệp của Nhà nước thông qua các chính sách kinh tế sẽ tạo điều kiện tốt hơn cho các thành phần kinh tế hoạt động. Nhà nước cũng đóng vai trò xác định hướng sản xuất trọng điểm, khu vực cần tập trung vào phát triển kinh tế giúp nền kinh tế phát triển đồng đều cân đối. Từ thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời gian qua và căn cứ vào yêu cầu phát triển trong thời gian tới, có thể xác định những phương hướng, nhiệm vụ cơ bản phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam như sau: 1 – Phải tiếp tục thực hiện một cách nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, coi các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Không nên có thái độ định kiến và kỳ thị đối với bất cứ thành phần kinh tế nào. Kinh tế nhà nước phải phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt; đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ; nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế – xã hội và chấp hành pháp luật. Đẩy mạnh việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu của các doanh nghiệp nhà nước; đồng thời tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để tạo động lực phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước theo hướng xóa bao cấp; doanh nghiệp thực sự cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm về sản xuất, kinh doanh; nộp đủ thuế và có lãi; thực hiện tốt quy chế dân chủ trong doanh nghiệp. Kinh tế tập thể gồm các hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Các hợp tác xã dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn; liên kết công nghiệp và nông nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hộ nông thôn. Nhà nước giúp hợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học và công nghệ, thông tin, mở rộng thị trường, xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã. Kinh tế cá thể, tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài. Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ phát triển, bao gồm cả các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn. Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động; liên doanh, liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. Xây dựng quan hệ tốt giữa chủ doanh nghiệp và người lao động. Tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng vào các sản phẩm xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Cải thiện môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài. Phát triển đa dạng kinh tế tư bản nhà nước dưới dạng các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh tế. Chú trọng các hình thức tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, giữa các thành phần kinh tế với nhau, giữa trong nước và ngoài nước. Phát triển mạnh hình thức tổ chức kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dụng rộng rãi vốn đầu tư xã hội. 2 – Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường; đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước. Nhìn chung, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mới được bắt đầu, trình độ còn thấp, chất lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh chưa cao. Nhiều thị trường còn sơ khai, chưa đồng bộ. Vì vậy, phải đổi mới mạnh mẽ tư duy hơn nữa, đẩy mạnh việc hình thành các loại thị trường. Đặc biệt quan tâm các thị trường quan trọng nhưng hiện chưa có hoặc còn sơ khai như: thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ, đáp ứng nhu cầu đa dạng và nâng cao sức mua của thị trường trong nước, cả ở thành thị và nông thôn, chú ý thị trường các vùng có nhiều khó khăn. Chủ động hội nhập thị trường quốc tế. Hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh. Mặt khác, phải đổi mới sâu rộng cơ chế quản lý kinh tế, phát huy những yếu tố tích cực của cơ chế thị trường, triệt để xóa bỏ bao cấp trong kinh doanh, tăng cường vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước, đấu tranh có hiệu quả chống các hành vi tham nhũng, lãng phí, gây phiền hà. Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển; bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách, kết hợp với sử dụng lực lượng vật chất của Nhà nước để định hướng phát triển kinh tế – xã hội, khai thác hợp lý các nguồn lực của đất nước, bảo đảm cân đối vĩ mô nền kinh tế, điều tiết thu nhập; kiểm tra, thanh tra mọi hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật, chống buôn lậu, làm hàng giả, gian lận thương mại. Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế, trong đó đặc biệt coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống các cơ chế chính sách, luật pháp, đổi mới công tác kế hoạch hóa, nâng cao chất lượng công tác xây dựng các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội; tăng cường công tác thông tin kinh tế – xã hội trong nước và quốc tế, công tác kế toán, thống kê; ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học và công nghệ trong công tác dự báo, kiểm tra tình hình thực hiện ở cả cấp vĩ mô và doanh nghiệp. 3 – Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, hướng vào phát triển và lành mạnh hóa xã hội, thực hiện công bằng xã hội, coi đây là một nội dung rất quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tính ưu việt của chế độ xã hội mới. Điều đó chẳng những tạo động lực mạnh mẽ nhằm phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động mà còn thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu chính đáng và hợp pháp, điều tiết các quan hệ xã hội. Trong tình hình cụ thể hiện nay ở Việt Nam, phải bằng nhiều giải pháp tạo ra nhiều việc làm mới. Chăm lo cải thiện điều kiện làm việc, bảo đảm an toàn vệ sinh lao động, phòng chống tai nạn và bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Từng bước mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội. Sớm xây dựng và thực hiện chính sách bảo hiểm cho người lao động thất nghiệp. Cải cách cơ bản chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, khuyến khích người có tài, người làm việc giỏi, khắc phục tình trạng lương và trợ cấp bất hợp lý; tôn trọng thu nhập hợp pháp của người kinh doanh. Tiếp tục thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc những người có công với nước, thương binh, bệnh binh, cha mẹ, vợ con liệt sĩ, gia đình chính sách – một yêu cầu rất lớn đối với một đất nước phải chịu nhiều hậu quả sau 30 năm chiến tranh. Đồng thời đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ gìn trật tự và kỷ cương xã hội, ngăn chặn và bài trừ các tệ nạn xã hội, nhất là tệ nạn ma tuý, mại dâm, lối sống không lành mạnh, những hành vi trái pháp luật và đạo lý. Kiên quyết đấu tranh với tệ tham nhũng, hối lộ, làm giàu bất chính, kinh doanh không hợp pháp, gian lận thương mại… cùng với những tiêu cực khác do mặt trái của cơ chế thị trường gây ra. Kết quả cụ thể của cuộc đấu tranh này là thước đo bản lĩnh, trình độ và năng lực quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. 4 – Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc và là nhân tố quyết định nhất bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế thị trường, cũng như toàn bộ sự nghiệp phát triển của đất nước. Đây cũng là một trong những bài học lớn nhất được rút ra trong những năm đổi mới. Càng đi vào kinh tế thị trường, thực hiện dân chủ hóa xã hội, mở rộng hợp tác quốc tế càng phải tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Thực tế ở một số nước cho thấy, chỉ cần một chút mơ hồ, buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng là lập tức tạo điều kiện cho các thế lực thù địch dấn tới phá rã sự lãnh đạo của Đảng, cướp chính quyền, đưa đất nước đi con đường khác. Những năm trước mắt cần đạt các mục tiêu: Một là, từng bước xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật, bảo đảm cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển thuận lợi. Phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước đi đôi với phát triển nhanh mạnh mẽ vác thành phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp. Hình thành một số tập đoàn kinh tế, các tổng công ty đa sở hữu, áp dụng mô hình quản trị hiện đại, có năng lực cạnh tranh quốc tế. Hai là, đổi mới cơ bản mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công. Ba là, phát triển đồng bộ, đa dạng các loại thị trường cơ bản thống nhất trong cả nước, từng bước liên thông với thị trường khu vực và thế giới. Bốn là, giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội đảm bảo tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường. Năm là, năng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước và phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân trong quản lý, phát triển kinh tế - xã hội. 3.3. Những giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. a. Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần. - Thừa nhận trên thực tế sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một trong những điều kiện cơ sở để thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển, nhờ đó mà sử dụng có hiệu quả sức mạnh tổng hợp của mọi thành phần kinh tế. - Cùng với việc đổi mới, củng cố kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác xã, việc khuyến khích thừa nhận các thành phần kinh tế cá thể, tư nhân phát triển là nhận thức quan trọng về xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ. Như vậy, tất cả các thành phần kinh tế trên đều bình đẳng trước pháp luật, tuy vị trí quy mô, tỷ trọng trình độ khác nhau nhưng tất cả đều là nội lực của nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. b. Mở rộng phân công lao động, phát triển kinh tế vùng, lãnh thổ tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường. - Phân công lao động là cơ sở của việc trao đổi sản phẩm. Để đẩy mạnh kinh tế hàng hoá cần: + Mở rộng phân công lao động, phân bố lại lao động và dân cư trong phạm vi cả nước nhằm: khai thác mọi nguồn lực, phát triển nhiều ngành nghề, sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện có, tạo việc làm cho người lao động. + Tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài nhằm : • Gắn phân công lao động trong nước với phân công lao động quốc tế. • Gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới. + Cần phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản: thị trường hàng hóa và dịch vụ, hình thành thị trường lao động có tổ chức, có quản lý chặt chẽ, về đất đai và thị trường nhà đất, thị trường vốn và từng bước hình thành thị trường chứng khoán. c. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ, đẩy mạnh CNH, HĐH. - Trong kinh tế thị trường, các doanh nghiệp chỉ có thể đứng vững trong cạnh tranh nếu thường xuyên đổi mới khoa học và công nghệ, để hạ chi phí nâng cao chất lượng sản phẩm. Muốn vậy: + Phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ vào quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa. Bởi vậy, để phát triển kinh tế hàng hóa chúng ta phải đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa. + Vì thế cần gấp rút xây dựng và củng cố các yếu tố của hệ thống kết cấu hạ tầng cơ sở và dịch vụ hiện đại. Trước mắt nhà nước cần tập trung ưu tiên xây dựng nâng cấp một số yếu tố thiất yếu như đường sá, cầu cống, bến cảng, điện nước, thông tin liên lạc, ngân hàng, dịch vụ quản lý... bảo hiểm d. Giữ vững ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới các chính sách tài chính, tiền tệ giá cả. - Sự ổn định chính trị bao giờ cũng là nhân tố quan trọng để phát triển. Nó là điều kiện quan trọng để các nhà sản xuất kinh doanh trong nước và nước ngoài yên tâm đầu tư. + Giữ vững ổn định chính trị ở nước ta hiện nay là giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, tăng cường hiệu lực và quản lý của nhà nước, phát huy đầy đủ vai trò làm chủ của nhân dân. - Hệ thống pháp luật đồng bộ là công cụ quan trọng để quản lý nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. - Đổi mới chính sách tài chính tiền tệ, giá cả nhằm mục tiêu thúc đẩy sản xuất phát triển. e. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống điều tiết kinh tế vĩ mô, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế và các nhà kinh doanh giỏi. - Hệ thống kinh tế vĩ mô phải được kiện toàn phù hợp với nhu cầu của kinh tế thị trường: • Điều tiết bằng chiến lược và kế hoạch kinh tế pháp luật. • Chính sách và các đòn bẩy kinh tế. • Điều tiết thông qua bộ máy Nhà nước - Có đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh tương ứng phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: • Đội ngũ đó phải có năng lực chuyên môn giỏi, thích ứng mau lẹ với cơ chế thị trường, dám chịu trách nhiệm, chịu rủi ro và trung thành với con đường XHCN mà nhân dân ta đã lựa chọn. • Bên cạnh đó chúng ta cần có phương hướng sử dụng, bồi dưỡng đãi ngộ đúng đắn đội ngũ đó, nhằm kích thích hơn nữa việc không ngừng nâng cao trình độ, bản lĩnh quản lý tài năng quản lý kinh doanh của họ. • Cơ cấu đội ngũ cán bộ phải được chú ý đảm bảo cả phạm vi vĩ mô và vi mô, cả cán bộ quản lý lẫn cán bộ kinh doanh. h. Thực hiện chính sách đối ngoại có lợi cho phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện có hiệu quả kinh tế đối ngoại phải: + Đa dạng hóa hình thức, đa phương hóa đối tác. + Quán triệt nguyên tắc đôi bên cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không phân biệt chế độ chính trị xã hội. + Cải cách cơ chế quản lý xuất nhập khẩu, thu hút rộng rãi vốn đầu tư nước ngoài, thu hút kỹ thuật, nhân tài và kinh nghiệm quản lý. KẾT LUẬN Tóm lại để đưa đất nước có thể đuổi kịp các nước phát triển trên thế giới trong một tương lai không xa đồng thời cũng không để chệch hướng theo con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã chọn thì nhất thiết chúng ta phải xây dựng được một nền kinh tế thị trường vững mạnh theo định hướng xã hội chủ nghĩa và mang bản sắc của người Việt Nam. Những vấn đề đựơc đề cập trên đây mới chỉ là một vài biện pháp mà chúng ta cần làm trong thời gian trước mắt để tiếp tục ổn định và khắc phục những hạn chế của nền kinh tế thị trường và sau này trong quá trình phát triển lâu dài của đất nước. Nhất là trong quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới theo xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới thì khi đó sẽ mở ra rất nhiều cơ hội cũng như những thách thức đòi hỏi chúng ta phải thật sáng suốt nếu không muốn bị lâm vào tình thế bị động trước những diễn biến của nền kinh tế thị trường. Nó có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng như: sự phân hoá giàu nghèo ngày càng lớn, tệ nạn xã hội ngày càng tăng và phức tạp, các truyền thống bị thương mại hoá, nạn lạm phát gia tăng… Chính vì vậy, chúng ta cần phải trau dồi kiến thức cho thật tốt, bên cạnh đó là nhân phẩm của một người sinh viên, là tầng lớp trí thức trong xã hội sẽ đi đầu trong mọi việc mà Đảng và nhà nước tiến hành để góp phần vào việc hoàn thiện nền kinh tế thị trường tiến tới việc xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.

Tìm kiếm

Tìm kiếm

Chủ đề

Đơn xin việc Trắc nghiệm Sinh 12 Đồ án tốt nghiệp Giải phẫu sinh lý Mẫu sơ yếu lý lịch Thực hành Excel Bài tiểu luận mẫu Đề thi mẫu TOEIC Atlat Địa lí Việt Nam Lý thuyết Dow Hóa học 11 Tài chính hành vi adblock Bạn đang sử dụng trình chặn quảng cáo?

Nếu không có thu nhập từ quảng cáo, chúng tôi không thể tiếp tục tài trợ cho việc tạo nội dung cho bạn.

Tôi hiểu và đã tắt chặn quảng cáo cho trang web này

Từ khóa » Tiểu Luận Kinh Tế Chính Trị Về Kinh Tế Thị Trường