Bài Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về đặc Sản Của Quê Hương Em

Sau đây chúng tôi xin giới thiệu bài văn mẫu lớp 8: Thuyết minh về đặc sản quê hương em, đây là tài liệu được chúng tôi chọn lọc từ những bài văn hay của các bạn học sinh giỏi văn trên toàn quốc và được đăng tải tại đây.

Trên mọi miền của tổ quốc, mỗi vùng đất lại có một món đặc sản riêng và đậm nét văn hóa của địa phương đấy. Dưới đây là một số bài văn mẫu thuyết minh về đặc sản quê hương em, mời các bạn cùng tham khảo.

Thuyết minh về đặc sản quê hương - Mẫu 1

Thuyết minh về đặc sản của quê hương em

Vốn là mãnh đất ngàn năm văn hiến, Hà Nội đã hình thành cho mình một nét văn hóa ẩm thực riêng. Sau những ngày tết bận rộn, vui chơi, ăn uống, với nhiều loại thức ăn đồ uống chứa nhiều dầu mỡ, như thịt heo, gà…nhiều loại bánh như bánh chưng, bánh tét và các loại bánh ngọt khác. Dễ khuyến còn người ta có cảm giác ăn uống không còn thấy ngọn nữa. Người Hà Nội lại làm những bữa bún thang thanh đạm mà không kém phần hấp dẫn.

Bún thang ra đời từ khi nào không ai rõ chỉ biết rằng hình ảnh bát bún thang từ lâu đã gắn bó với hình ảnh những cô gái của Hà Nội 36 phố phường duyên dáng, khéo léo và đảm đang.

Để làm được món bún thang phải chuẩn bị nguyên liệu khá cầu kỳ, để món ăn thêm phần hấp dẫn với các nguyên liệu như: bún, thịt gà, trứng gà, tôm nõn, nem chạo, xương lợn, rau thơm… việc lựa chọn và chế biến các nguyên liệu ấy cũng rất tinh tế. Bún phải là thứ bùn sợi nhỏ trắng trong không có mùi chua. Thịt gà luộc chín xé sợi nhỏ, trứng gà lựa lấy trồng đỏ tráng những lớp mỏng và khô rồi cuộn lại thái thành những sợi nhỏ. Với tôm nõn ta phải ngâm một lát để ráo nước rồi giả bông, rau thơm rửa sạch thái nhỏ, riêng với nem chạo thì ta để nguyên.

Xương lợn là nguyên liệu dùng để nấu nước dùng vì vậy ta nên chọn xương ống vừa rẻ vừa ngọt nước. Ta rửa sạch sương chặt đôi từng khúc cho vào luộc sơ qua rồi rửa sạch. Xương sau khi rửa mới có thể nấu làm nước dùng. Khi nấu ta cho đầy đủ gia vị, nêm vừa miệng là được. Ban đầu để lửa to sau khi sôi để lửa nhỏ cho xương mền.

Sau khi chế biến xong các nguyên liệu ta chuẩn bị cho bữa ăn. Lấy một bát to ta đặt vào đó lần lượt: bún, thịt gà xé sợi, trứng gà thái sợi, tôm bông nem chạo, rau thơm rồi cho nước dùng vào. Ta sẽ có bát bún thang với màu trắng của bún, màu trắng ngà của thịt gà, màu vàng của trứng, màu hồng của tôm bông, màu nâu của nem chạo, màu xanh của rau thơm. Đặc biệt sự trong veo của nước dùng sẽ làm nổi lên những màu sắc hấp dẫn của bác bún thang. Hương vị của bún thang rất thanh đạm khác hẵn cái béo ngây của thịt mỡ, đồ nếp. Bún thang thường được dùng sau những ngày tết ồn ào hay trong những ngày hè cần một món ăn nhẹ nhàng, mát dịu…

Bún thang cùng với Phở, bánh tôm… Đã trở thành đặc trưng của ẩm thực Hà Nội. Bún thang ẩn chứa trong đó sự khéo léo, tinh tế tỉ mỹ của những nghệ nhân ẩm thực đất Hà Thành. Vì thế bún thang đã để thương, để nhớ cho tâm hồn biết bao người con đất Kinh kì, cũng như những du khách may mắn trong đời có lần được đến Thủ đô.

Thuyết minh về đặc sản quê hương - Mẫu 2

Thuyết minh về đặc sản của quê hương em

Mỗi vùng miền đều có những nét đặc trưng rất riêng cho mùi đất quê hương. Nhắc đến Hải Phòng ta sẽ nghĩ ngay đến lễ hội trọi Châu tâm linh, nhắc đến Thái Bình ta sẽ nhớ về bánh cáy làng Nguyễn còn khi nhắc đến vùng đất học Thành Nam ta sẽ nghĩ ngay đến bánh xíu páo thơm ngây. Bánh xíu páo trở thành một nét đẹp văn hóa tự hào không thể thiếu của vùng đất Nam Định.

Xíu páo là tên một loại bánh dân dã, ra đời từ rất lâu. Theo lời cha ông tương truyền lại thì bánh xíu páo có nguồn gốc từ người hoa. Qua quá trình sinh sống và làm việc bánh xíu páo đã theo chân người Hoa du nhập vào Nam Định trở thành thức quà quê quen thuộc.

Bánh xíu páo có hình tròn nhỏ, là sự hòa quyện tuyệt vời giữa vỏ bánh và nhân bánh. Để làm được một chiếc bánh công đoạn đầu tiên là làm nhân bánh chứ không phải vỏ bánh. Nhân bánh của xíu páo có vẻ khá giống như nhân bánh bao nhưng có lẽ đặc biệt hơn chút chút. Nguyên liệu để làm nhân bánh gồm có: thịt, mộc nhĩ, miến, trứng cút, dầu hào, ngũ vị hương, gia vị (mắm, muối,…) và hành. Thịt để làm bánh gồm hai loại thịt: thịt nạc vai và thịt ba chỉ. Thịt nạc vai được dùng để làm xíu còn thịt ba chỉ được dùng để tô thêm sức ngậy cho phần nhân. Phần thịt chúng ta mua về rửa sạch, trần qua nước sôi , cắt hạt lựu đem ướp khoảng 30 phút với tỏi, dầu hào, ngũ vị hương, nêm nếm gia vị cho vừa đủ rồi đem xào lên. Phần thịt tuyệt đổi không được thêm chất tạo màu hay chất bảo quản. Vì như thế sẽ làm mất đi hương vị tự nhiên của thịt. Mộc nhĩ và miến sẽ làm được sạch sẽ rồi đem ngâm với nước cho mềm, say nhuyễn và ướp các hương vị vừa miệng. Đến từng củ hành cũng được lựa chọn kĩ lưỡng, mặt ngoài củ hành phải bóng, thơm, được bỏ vỏ đập nát, phi cho thơm nức. Cuối cùng của phần nhân đó là trứng, mỗi chiếc bánh thường sẽ có 2 quả trưng cút, trứng được luộc, bóc vỏ và ướp qua với chút muối. Vậy là công đoạn làm nhân đã được hoàn tất. Chúng ta sẽ cùng bắt tay làm phần vỏ bánh. Vỏ bánh của xíu páo khá cầu kì, đòi hỏi người thợ làm bánh phải cực kì khéo léo, và nhanh tay. Qua các khâu chuẩn bị: rây bột ta trộn bột, đường, trứng theo tỉ lệ thích hợp rồi cho bột vào máy đánh cho bông, và nhuyễn. Sau đó ta đem ủ bột với một chiếc khăn ẩm trong khoảng 30 phút để bột dẻo và dai, dễ cán hơn. Hết khoảng thời gian đó ta trải một lớp bột khô lên để chuẩn bị cán bánh. Khi cán bánh người thợ phải khéo léo cắt bột thành 8 lớp khác nhau, mỗi lớp vỏ dài chừng 3 đốt ngón tay rồi theo thứ tự cho nhân vào gói lại. Công đoạn gói bánh cũng cực kì công phu, ngón tay người thợ phải uyển chuyển nhịp nhàng để xoắn thành những nụ hoa nơi đầu bánh. Làm xong bánh người thợ xếp bánh vào khay và cho lên nướng. Nhiệt độ nướng bánh thường là 190 độ. Canh cho đến hết 15 phút khay bánh được lôi ra và quét một lớp trứng gà lên cho vàng ròn, đẹp mắt. Nướng bánh thêm khoảng 15 phút nữa là sản phẩm hoàn chỉnh.

Một chiếc bánh đạt tiêu chuẩn là chiếc bánh có vỏ ròn rụm, khi ăn cảm nhận được vị thơm của hành, vị ngậy của xíu, mộc nhĩ, trứng, miến đọng lại trong miệng. Khi ta bóp nhẹ lớp vỏ sẽ tách ra thành từng lớp mỏng khác nhau. Cắn miếng xíu páo trong miệng sẽ cho ta vị mặn, ngọt, ngậy hài hòa.

Bánh xíu páo được sử dụng trực tiếp ngay khi ra lò là tuyệt vời nhất. Tuy nhiên nếu ở xa bạn cũng có thể bảo quản bánh trong tủ lạnh từ 3-4 hôm, sau đó đem quay lại qua lò vi sóng, do không có chất bảo quản nên dù quay lại bánh vẫn rất đảm bảo chất lượng, rất ngon và ngậy

Bánh xíu páo là thức quà sáng quen thuộc của không biết bao nhiêu thế hệ học sinh Nam Định. Mỗi buổi sáng đầu đông được thưởng thức một chiếc bánh xíu páo nóng hổi là đã đủ năng lượng cho cả ngày dài. Mỗi du khách đến Nam Định hay người con xa quê đều có thể tìm mua bánh xíu páo Nam Định chính gốc trên các con phố Hàng Sắt, Hoàng Văn Thụ , Lê Hồng Phong,..để mang về làm quà. Giá mỗi chiếc bánh chỉ dao động từ 8- 10 ngàn đồng. Một món quà dân dã nhưng thấm đượm nghĩa tình vô cùng.

Một chiếc bánh nhỏ xinh nhưng lại chứa đựng những nét độc đáo khiến ai đã từng một lần thưởng thức cũng thật khó để mà quên được. Nhấm nháp một chiếc bánh ròn dụm trong miệng ta như thấm được cả hương vị đất trời bao la. Bánh xíu páo là nét đẹp văn hóa mang bản sắc riêng của mảnh đất Thành Nam yêu dấu.

Thuyết minh về đặc sản quê hương - Mẫu 3

Thuyết minh về đặc sản của quê hương em

Từ lâu bánh xèo đã được xem là loại bánh mang nhiều đặc trưng của vùng quê Việt Nam, đặc biệt là ở miền Nam và miền Trung. Loại bánh này rất nổi tiếng bởi hương vị thơm ngon và cách chế biến đặc biệt, chính vì vậy muốn thuyết minh món bánh xèo hay và ấn tượng bạn cần hiểu và nắm vững được những kiến thức dưới đây.

Bánh xèo là món ăn dân dã được ra đời từ rất lâu tại các vùng quê, không ai biết chính xác nơi ra đời của món bánh này bởi khắp nơi miền nào cũng thấy món bánh này xuất hiện. Cùng khám phá món bánh xèo và lập dàn ý cho bài thuyết minh hay và ấn tượng với gợi ý dưới đây nhé!

Cái tên “bánh xèo” cũng khiến người ta suy nghĩ liệu rằng tiếng xèo xèo khi đổ bánh có phải là nguồn gốc xuất phát ra tên gọi của món bánh này hay không? Tuy cùng một loại bánh, thế nhưng ở mỗi vùng lại có cách chế biến và kích cỡ khác nhau. Nếu như ở Huế, ở Phan Thiết bánh xèo thường được làm nhỏ, thì ở miền Tây Nam Bộ chiếc bánh này lại được làm to và có nhiều nhân hơn hẳn. Nhiều người cho rằng, ai đã từng thưởng thức món bánh xèo miền Tây Nam Bộ giòn được ăn kèm với các loại rau chắc chắn sẽ không thể nào quên được hương vị thơm ngon.

Bánh xèo thường được bán rất nhiều vào mùa mưa, bởi lẽ từng chiếc bánh giòn rụm, nóng hổi được chế biến ngay tại chỗ dễ khiến người ta thấy ấm bụng. Tùy theo đặc trưng vùng miền mà người ta sẽ làm nhân bánh bằng tôm, thịt bò, thịt heo…, có vùng thêm nấm và giá để tăng thêm hương vị thơm ngon.

Bánh xèo tuy được chế biến đơn giản, tuy nhiên không phải ai cũng có thể làm bánh thành công ngay từ lần đầu tiên vì đó là cả một nghệ thuật. Để có món bánh ngon, bạn cần biết cách gia, trộn bột rất quan trọng, đây là công đoạn ảnh hưởng rất nhiều đến hương vị món bánh. Món bánh thơm ngon với màu vàng tươi của bột nghệ, thêm vị béo béo của nước cốt dừa, bánh được đổ bột thật mỏng sao cho phần mép ngoài của bánh giòn tan, hấp dẫn.

Bánh xèo thường được ăn kèm với nhiều loại rau sống và chấm cùng nước chấm chua ngọt pha cùng nước dùng, chanh, đường, thêm chút cà rốt bào mỏng, ớt, tiêu…, các loại rau sống ăn kèm như: cải xanh, rau diếp, tía tô, húng quế, khế chua, chuối chát bào mỏng… Không chỉ hấp dẫn bởi hương vị, mà món bánh này còn hấp dẫn thực khách bởi cách thưởng thức chuẩn điều là phải là dùng tay cầm chiếc bánh lên rồi gói lại bằng rau sống chấm cùng nước mắm chua ngọt.

Từng miếng bánh được nhai trong miệng để cảm nhận hương vị hồn quê đang dần tan nhẹ nơi đầu lưỡi. Mùi vị the nhẩn của cải bẹ xanh, hương vị thơm nồng của rau thơm được hòa quyện cùng với vị béo, hương vị mằn mặn, ngọt ngọt của nước mắm chua cay sẽ đánh thức toàn bộ vị giác của người thưởng thức.

Bánh xèo không chỉ thơm ngon mà món ăn này còn chứa rất nhiều chất dinh dưỡng có lợi cho sức khỏe. Bánh xèo có thể được thưởng thức bất cứ khi nào bạn thích, tuy nhiên hương vị sẽ thơm ngon, hấp dẫn hơn vào những ngày mưa lạnh. Đây không chỉ là món ăn hấp dẫn đối với nhiều người Việt, mà còn là thức quà ẩm thực vô cùng ấn tượng được nhiều du khách quốc tế khen ngợi.

Thuyết minh về đặc sản quê hương - Mẫu 4

Thuyết minh về đặc sản của quê hương em

Nem chua Thanh Hóa là món ăn nổi tiếng, là niềm tự hào của người dân nơi đây. Món này được chế biến hết sức kỳ công, qua nhiều công đoạn kỹ lưỡng, từ khâu chọn nguyên liệu cho tới khi đóng gói sản phẩm...

Thịt để làm nem phải là loại thịt nóng, nghĩa là khi heo vừa mới xẻ thịt thì người thợ làm nem phải thái, xay, chế biến ngay, không để lâu. Bởi nếu thịt nguội, nem sẽ không có độ bóng cũng như sự kết dính trong quá trình lên men.Ngày trước khi chưa có máy xay thịt, người thợ phải giã thịt bằng tay trên những cối đá lớn. Theo kinh nghiệm của những gia đình làm nem truyền thống, thì thịt giã cối đá sẽ có độ giòn, quánh, dính hơn là thịt xay máy.

Bì lợn cũng phải chọn rất kỹ, heo lấy bì phải là heo cạo chín, nghĩa là làm bằng nước sôi. Có như thế lông mới sạch và khi chế biến sẽ đỡ tốn thời gian. Để có những sợi bì trong, ngon, người thợ phải cạo thật sạch tất cả những phần mỡ còn sót lại trên bì, cho tới khi lớp bì mỏng, trắng tinh, trong suốt thì được. Bì càng làm kỹ bao nhiêu thì khi thái chỉ, bì càng giòn và dai bấy nhiêu.

Khi nguyên liệu chính là thịt và bì đã xong, người thợ sẽ trộn hai hỗn hợp này lại với nhau cùng các loại gia vị muối, bột ngọt, đường, nêm thêm chút nước mắm cho thơm. Sau đó mang hỗn hợp thịt trên ra đóng gói. Mỗi một chiếc nem được người gói cho kèm thêm chút tỏi, lá đinh lăng, ớt, những phụ gia này có tác dụng làm cho hương vị nem trở nên ngon hơn, hấp dẫn hơn và cũng là để cân bằng giữa lạnh (nem chua) với nóng (lá đinh lăng, ớt). Lá chuối gói nem phải là lá chuối ngự vừa xanh vừa dày, bởi trong quá trình vận chuyển và lưu giữ nem vẫn tiếp tục lên men.

Để bảo quản được dài ngày, người thợ thường bọc giấy bóng thêm bên trong nem. Thông thường nem gói sau 3 ngày là chín, có thể dùng được. Bóc lớp lá chuối màu xanh ở ngoài, đã thấy lộ ra màu hồng của thịt, màu trắng của sợi bì, màu đỏ của ớt.

Khi thưởng thức sẽ gặp vị chua thanh của thịt, dai giòn của sợi bì, cay của ớt, thơm của tỏi, chát ngọt của đinh lăng ... một hương vị rất riêng mà không phải nem chua nơi nào cũng có như nem chua xứ Thanh. Nem Thanh có vị lạ rất khác với nem chua Hà Nội hay nem lụi ở Huế, lại càng khác xa với nem rán hay nem tai. Nó vừa chua, vừa cay lại có cả vị mặn mà của gia vị, có vị ngọt của thịt làm ta không thể không ăn tiếp vài cái nữa.

Nem chua Thanh Hoá vừa ngon, vừa rẻ nhưng có điều rất lạ và hay là có thể làm đồ nhắm, cũng có khi ăn với cơm. Tiện hơn cả là ở đâu ta cũng có thể nhấm nháp hương vị hấp dẫn của nó. Nghĩ đến nem chua quê mình đầu lưỡi tôi lại cay cay, ngọt ngọt. Khó mà tả được cảm giác sung sướng khi được ăn một vài miếng nem chua ở quê hương mình trong lúc đang ở nơi xa xôi.

Ai đi qua xứ Thanh cũng phải nếm thử hương vị lạ của những chiếc nem xinh xắn. Người dân xứ Thanh vào Nam ra Bắc, dù bận trăm công nghìn việc, dù mang vác nặng nề cũng cố đem vài chục chiếc để cho người nhà hoặc biếu người thân. Ngày lễ Tết hoặc cưới xin, nem chua trở thành món ngon không thể thiếu. Kèm với những cặp bánh chưng xanh, những chiếc giò ngày Tết là những xâu nem chua làm từ chất liệu quê hương mời khách đến chơi nhà.

Nếu có dịp dừng chân nơi miền đất này, mời bạn hãy thưởng thức nem chua xứ Thanh.Vị chua chua, ngọt ngọt đậm đà gia vị tạo nên hương thơm khó quên của món nem chua Thanh Hóa.Nem chua Thanh Hóa nổi tiếng xưa nay khắp một dải đất dài từ Nam ra Bắc. Người Thanh Hóa tự hào với bạn bè nơi nơi vì có một thứ quà không phải nơi nào cũng cứ học là làm được, mà nó được truyền kinh nghiệm từ đời này sang đời khác qua nhiều năm nay.

Từ khóa » đặc Sản Của Quê Hương Em