Bàn Về Lý Thuyết địa Chính Trị “không Gian Sinh Tồn” Của Trung Quốc

Trương Nhân Tuấn

Có ý kiến nói rằng năm 2012 là năm « ý thức về địa chính trị trở thành ý thức chủ đạo trong các suy nghĩ về chính trị của người Việt. » Nếu ý kiến này đúng như vậy, thì đã có điều gì dường như quá trễ để mà bàn luận nữa.

Từ tháng 8 năm 1992 nội bộ trong giới lãnh đạo Trung Quốc đã luân chuyển tài liệu nội dung “sinh tồn không gian – shengcun kongjian” đề cập đến chủ quyền của TQ tại vùng Trường Sa. Tập tài liệu xuất bản năm 1995 mang tựa đề dịch ra tiếng Pháp “La lutte pour des frontières souples” (Tranh đấu cho đường biên giới mềm) lấy lại nội dung của tài liệu trên, trình bày việc TQ phải chiếm hữu những nguồn nhiên liệu dầu khí cần thiết trong vùng Trường Sa cho việc hiện đại hóa đất nước. Nhưng không phải chỉ từ năm 1992 TQ mới lập chiến lược về một “không gian sinh tồn”, mà việc này đã đề cập từ rất sớm, do Tưởng Giới Thạch khởi xướng. Nếu chỉ tính từ năm 1992 thì TQ cũng đã đi trước VN đến 20 năm. Nói “quá trễ để mà bàn luận nữa” cũng còn nhẹ nhàng lắm.

Từ cuối thập niên 1990 người viết bài này đã viết nhiều bài viết cảnh báo về việc hiện đại hóa hải quân của TQ cũng như về chiến lược gậm nhắm lần hồi toàn bộ biển Đông. Bài gần đây nhứt, tháng 8-2007, bài “Tranh chấp Trường Sa – Hậu quả những sai lầm chiến lược” nói về “không gian sinh tồn” của Trung Quốc cũng như những sai lầm của lãnh đạo VN khi đối đầu với các biến cố xâm lấn của TQ tại vùng biển này.

Nếu bây giờ VN mới chuẩn bị, sẽ không thể cứu vãn bất kỳ chuyện gì. Nhất là năm 2013 sắp tới sẽ là một năm khó khăn cho VN.

Tháng 6 năm 2012, Luật Biển của VN được QH thông qua, sẽ có hiệu lực từ ngày 1-1-2013. Vừa khi công bố, phía TQ đã có những phản ứng mạnh, về ngoại giao cũng như về biểu dương lực lượng quân sự. Các học giả TQ lên tiếng cảnh cáo : « Trung Quốc nên làm cho các quốc gia hiểu rõ rằng một khi đụng chạm tới chủ quyền của Trung Quốc thì Trung Quốc sẽ bóp nghẹt không gian và thời gian xâm phạm của họ cho đến khi nào họ rút lui thì thôi ».

Một bài báo khác thì hối thúc : « Trung Quốc nên có những ý tưởng cứng rắn hơn, bao gồm cả việc sử dụng vũ lực để bảo vệ quyền lợi của mình khi cần thiết để cho thấy sự quyết tâm và khả năng bảo vệ chủ quyền ». Một số học giả thuộc các nước ASEAN đã cảnh báo rằng VN đã làm khu vực trở nên căng thẳng sau khi cho ra đời bộ Luật Biển 2012. Các động thái của phía TQ, từ tháng 6 năm 2012, liên tục đã có những hành động rất cương quyết bày tỏ quyền « tài phán » của họ tại các đảo HS và trên một số khu vực thuộc TS. TQ cũng tỏ thái độ rất cương quyết đối với Nhật trong tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư. Điều nên nhớ lại là các vụ đánh HS, đánh TS đều xảy ra trong các tháng giêng, tháng 3… là những tháng nằm trong chu kỳ biển êm (không bão) trong khu vực (tháng 12 đến tháng 5). Lý do mà TQ nại ra khi đánh chiếm các đảo là « giải phóng, đưa về đất mẹ các vùng lãnh thổ nằm trong tay của địch ». Do đó những tháng đầu của năm 2013 sẽ là thời gian quyết định.

Vì vậy, nếu nhận định đã ghi trên : « ý thức về địa chính trị trở thành ý thức chủ đạo trong các suy nghĩ về chính trị của người Việt » là đúng, kể cả trong giới lãnh đạo của VN, có lẽ sẽ không còn gì để nói. Nhưng người viết không tin vậy. Chắc chắn phía lãnh đạo VN đã có những chuẩn bị, nếu không sẽ không bao giờ cho ra đời bộ Luật Biển 2012, trong đó khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi của VN tại HS và TS. Dầu vậy, người viết rất hoài nghi về các biện pháp đối phó của VN. Có thể việc cho ra đời bộ Luật chỉ nhằm xoa dịu dư luận trong nước, như trường hợp tranh chấp giữaVénézuela và Colombie về quần đảo Los Monjos. Nhưng còn quá sớm để khẳng định.

Bài viết này nhắc lại ý nghĩa của lý thuyết « không gian sinh tồn » đồng thời so sánh các chi tiết của lý thuyết này so với những gì mà TQ đã hay đang thực hiện. Cuối cùng thử tiên đoán TQ có thể nuốt trọn biển Đông hay không ? Các giải pháp nào có thể giải quyết ?.

Không gian sinh tồn, tạm dịch từ “L’Espace Vital – Lebensraum ”, tác phẩm nghiên cứu về “địa lý chính trị” – Géopolitique – nổi tiếng của Friedrich Ratzel xuất bản năm 1902, đề cập 7 định luật liên quan đến sự thành hình của một đại cường quốc :

1. Không gian (sinh tồn) của một dân tộc được mở rộng đồng thời với văn minh của dân tộc đó. Một dân tộc có nền văn minh tiến bộ sẽ đồng hóa các dân tộc kém văn minh hơn.

2. Lãnh thổ quốc gia sẽ phát triển theo tỉ lệ thuận với sức mạnh kinh tế và đội ngũ thương buôn của quốc gia cũng như chủ thuyết phát triển quốc gia. Việc bành trướng vì thế chỉ tùy thuộc vào ý chí và phương tiện.

3. Việc bành trướng của cường quốc được thực hiện qua phương cách « hấp thụ và tiêu hóa » các nước nhỏ.

4. Đường biên giới quốc gia không xác định (frontière vivante). Biên giới xác định chỉ có giá trị tạm thời, chỉ để đánh dấu giữa hai giai đoạn bành trướng.

5. Trong quá trình bành trướng, đất (bây giờ là biển) là mục tiêu chính.

6. Mục tiêu bành trướng là các quốc gia yếu kém ở kế cận. Sự bành trướng của cường quốc không thể tiến triển nếu quốc gia lân bang cũng là cường quốc.

7. Hiện tượng bành trướng có khuynh hướng lan rộng do việc tranh dành lãnh thổ của các quốc gia.

Hitler lấy hứng từ lý thuyết này, cũng như từ Karl Haushofer trong cuốn « Dai Nihon » 1912, để viết cuốn « Mein kampf » chủ trương về một « chủng tộc siêu việt », thành lập IIIe Reich (Đức Quốc Xã), mở ra Thế chiến II. Những nhà chiến lược hiện đại cho rằng lý thuyết « địa lý chiến lược » của Ratzel là sơ khai, lỗi thời. Tuy nhiên, hơn bao giờ hết, lý thuyết này là một vấn đề thời sự cho trường hợp Trung Quốc, một cường quốc đang khẳng định tư thế của mình trong khu vực.

Có thể nói Tưởng Giới Thạch là cha đẻ của chủ thuyết « không gian sinh tồn » của TQ qua nội dung câu tuyên bố : « le territoire de l’Etat chinois est délimité par les besoins de son existence et par les bornes de sa culture », « lãnh thổ của Trung Quốc được xác định do những nhu cầu cho sự hiện hữu của dân tộc này và bằng các cột mốc của nền văn minh Trung Hoa ».

Tư tưởng này đã được Đặng Tiểu Bình thừa kế, chuyển giao cho các thế hệ lãnh đạo sau này là Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào và hiện nay Tập Cận Bình. Tuyên bố của tưởng Giới Thạch được giản lược như sau : TQ phải chiếm tất cả các nguồn năng lượng ở biển Đông vì đó là không gian sinh tồn của dân tộc Hoa. Từ đầu năm 2010 ta nghe loáng thoáng từ viên chức ngoại giao TQ : Biển Đông là lợi ích cốt lõi của TQ. Ý kiến này bị HK bác bỏ. Nước này cho rằng HK cũng có lợi ích ở biển Đông. Nhưng ta thấy tư tưởng của TQ về một « không gian sinh tồn » là có thật.

Bảy định luật của Ratzel đã hoàn toàn chứng nghiệm cho dân tộc Hán từ lập quốc đến ngày hôm nay.

Định luật 1 : Nền văn minh Hán Tộc đã đồng hóa tất cả các dân tộc khác, kể các các dân tộc dũng mãnh đã chiếm hữu và trị vì Trung Quốc. Lúc đầu lập quốc, dân tộc Hán chỉ có một vùng đất nhỏ, nhưng sau đó bành trướng ra, đồng hóa các dân tộc chung quanh. Văn hóa các dân tộc Mãn Châu, Mông Cổ, Liêu, Kim… đã không còn dấu vết ở Trung Quốc.

Định luật 2 : Hiện đang thích ứng cho tình trạng TQ hiện nay. Sự vượt trội về kinh tế, cho phép nước này hiện đại hóa quân đội. Những đòi hỏi của TQ ở biển Đông hay với Nhật qua tranh chấp Senkaku, cho thấy ý chí muốn chinh phục của nước này.

Định luật 3 : Định luật này cùng với định luật 1 đã được dân tộc Hán áp dụng từ thời mới lập quốc và còn đang tiếp tục cho đến hôm nay. Dân tộc Hán luôn bành trướng và tiêu diệt (hay Hán hóa) tất cả các dân tộc khác. Hiện nay việc đồng hóa đang được thực hiện ráo riết tại Tây Tạng.

Định luật 5 cho thấy vẫn chưa lỗi thời, TQ đặt ra mục tiêu phải chinh phục TS và Senkaku. Nhưng định luật này cần cập nhật thêm vì chủ đích của việc chinh phục sẽ là vùng biển, là tài nguyên chứa đựng trong đó.

Định luật 6 phản ảnh rõ rệt thái độ bành trướng của Trung Quốc ngày hôm nay : VN và Phi, hai nước yếu, nằm trong tầm nhắm của TQ. Trung Quốc không bao giờ muốn thấy một Việt Nam giàu mạnh. Một nước Việt Nam giàu, mạnh sẽ ngăn cản sức bành trướng của Trung Quốc. Về kinh tế, ta thấy kinh tế VN trên đà sụp đổ, do đó hiện nay rất phụ thuộc vào TQ. Đó cũng là một biến dạng của lý thuyết « không gian sinh tồn », biến VN thành một chư hầu kinh tế.

Từ định luật 6, ta thấy cuộc chiến giữa TQ và Nhật chắn chắn sẽ xảy ra. TQ không thể trở thành đại cường nếu có nước Nhật mạnh ở kế bên (và ngược lại).

Định luật 7 cho thấy có nhiều điều cần điều chỉnh lại. Đất đai không còn là mục tiêu tranh chấp mà là việc tranh giành thị trường, giành vùng ảnh hưởng, hay việc xung đột giữa các nền văn minh (Thiên chúa – Hồi giáo) như hiện nay, theo thuyết của Samuel P. Huntington.

Nói chung, cho dầu đã thành hình từ hơn một thế kỷ, lý thuyết này vẫn còn thực dụng.

Về định luật 6, có nhiều điểm cần bàn luận sâu rộng hơn vì lý do chiều dài lịch sử quan hệ giữa VN và TQ. Nhưng điểm chủ yếu là, các thế hệ lãnh đạo Trung Quốc từ bao đời nay đều có chung quan điểm : Trung Quốc không muốn một Việt Nam thống nhất và mạnh. Họ tìm mọi cách làm cho Việt Nam suy yếu để bảo đảm an ninh và thực hiện nhu cầu bành trướng.

Trong thời chiến tranh 1954-1975 mọi người đều biết Trung Quốc sẵn sàng giúp súng đạn cho CSVN đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng.

Ngay sau khi thống nhất 1949, Trung Quốc có cả một sách lược đào tạo các cán bộ tương lai lãnh đạo Việt Nam. Đỗ Mười và Lê Đức Anh cũng thuộc đội ngũ cán bộ này. Vì thế chính trị đối ngoại của Việt Nam trong một thời gian rất dài luôn phù hợp với quan niệm địa lý chiến lược của Trung Quốc.

Người ta ca ngợi nhiều về tư tưởng của ông Hồ Chí Minh (vận dụng từ tư tưởng quốc tế Marx-Lenin), cho nó có một giá trị thực dụng dựng nước bất khả tranh nghị và đưa nó lên hàng tư tưởng chiến lược phát triển quốc gia. Nhưng đây là một sai lầm lớn, vì nếu xét tỉ mỉ, tư tưởng của ông Hồ luôn phù hợp với chính sách bành trướng của Trung Quốc. Người ta cho rằng ông Hồ là người « yêu nước », nhưng quan niệm về quốc gia của ông Hồ là một cái gì rất không rõ rệt : « Yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa ». Nhiều học giả nước ngoài phê bình Việt Nam lấy đất nước để xây dựng XHCN trong khi Trung Quốc lấy XHCN xây dựng đất nước. Trong tư tưởng của ông Hồ người ta thấy thấp thoáng một « chủ nghĩa nước nhỏ », đu giây giữa hai thế lực áp đảo là Liên Xô và Trung Quốc, khai thác những mâu thuẩn của hai thế lực này để thực hiện mưu đồ cá nhân và làm tròn bổn phận của một thành viên quốc tế vô sản gương mẫu.

(còn tiếp)

Nguồn: http://nhantuantruong.blogspot.com/2012/12/ban-ve-ly-thuyet-ia-chinh-tri-khong.html

Chia sẻ:

  • Twitter
  • Facebook
Thích Đang tải...

Có liên quan

Từ khóa » Thuyết Không Gian Sinh Tồn