Bàn Về Thân Thế Của Lý Công Uẩn

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0016

Bản đồ Đại Việt thời nhà Lý

Đặng Thanh Bình

Nguyên quán của Lý Công Uẩn là cuộc tranh luận mà vẫn chưa có hồi kết. Trong bài này chúng ta sẽ cũng tìm hiểu về những tài liệu chép về Công Uẩn. Về nguyễn hiện có 2 luồng tiếp cận: Thứ nhất là Công Uẩn người Mân (Chiết Giang) và thứ hai là nguyên quán người Cổ Pháp (Giao Chỉ). Về luồng thông tin Uẩn là người Mân, chúng ta tập trung vào bài khảo luận rất hay của Nguyễn Phúc Anh với tên Về vấn đề nguyên quán của Lí Công Uẩn: Từ góc nhìn sử liệu. Về luồng thông tin Uẩn người Cổ Pháp chúng ta tập trung vào những bài viết của tác giả Trần Viết Điền.

  1. Tiếp cận văn bản Về vấn đề nguyên quán của Lí Công Uẩn: Từ góc nhìn sử liệu của Nguyễn Phúc Anh.

Về vấn đề nguyên quán của Lí Công Uẩn: Từ góc nhìn sử liệu chép: “nguồn sử liệu nghiên cứu vấn đề quê hương nhà Lí có thể chia làm hai nhóm chính bao gồm: hệ thống sử liệu về nguồn gốc Mân của Lí Công Uẩn (…) và hệ thống sử liệu về nguồn gốc Giao Chỉ của Lí Công Uẩn (…) Xung quanh quan điểm của những học giả hiện đại về vấn đề nguồn gốc của nhà Lí: Giới sử học Trung Quốc hiện đại (đặc biệt là Hàn Chấn Hoa và Lí Thiên Tích) đều đồng thuận rằng Lí Công Uẩn là người gốc Mân (Phúc Kiến). Căn cứ cho những lập luận của họ thường là những tư liệu lịch sử xuất hiện sớm (…) có niên đại, tác giả và tình hình văn bản tương đối rõ ràng.

Trong khi đó giới nghiên cứu sử học Việt Nam từ xưa đến nay lại có một sự đồng thuận cao về nguồn gốc Giao Chỉ của Lí Công Uẩn (Trần Quốc Vượng; Nguyễn Quang Ngọc; Nguyễn Ngọc Phúc) (…) [Một số điểm tế nhị trong cách phê phán sử liệu của một số nhà nghiên cứu Việt Nam, đó là tìm kiếm những thông tin có vẻ không chính xác trong một sử liệu nào đó để rồi đặt vấn đề nghi ngờ với toàn bộ sử liệu, đấy là một giải pháp khá dễ dãi, song là cách nhanh nhất để gạt bỏ một sử liệu không phù hợp với tín điều].

Nghiên cứu của chúng tôi, đặc biệt, dựa trên những thành quả nghiên cứu của Hoàng Xuân Hãn. Ông viết: “Theo sử ta, Lý Công- Uẩn là con vô-thừa-nhận. Bố nuôi là Lý Tự-Khanh, cho nên lấy họ là Lý. TT [Toàn Thư] còn chép chuyện hoang-đường mẹ có mang với thần-nhân. Sự thật, chắc rằng thuyết ấy là bịa đặt ra, hoặc để che đậy một gốc-tích không được đẹp-đẽ, hoặc để cho dân-sự đương thời theo về. Sách VSL chép: khi lên ngôi, Lý Công-Uẩn phong bố làm Hiển-khánh-vương, anh làm Vũ-uy-vương.

Xem vậy, Công-Uẩn biết cha là ai và có đủ họ hàng, chứ không phải là một đứa con vô thừa-nhận. Tuy ta có thể nghĩ rằng bố đây là bố nuôi, nhưng VSL chép rõ những chữ: phụ, huynh, đệ. Vì thế, thuyết nói Công-Uẩn gốc người Mân có thể là thật. Và chăng nước ta bắc-thuộc trong nghìn năm, người Trung-quốc hoặc sang buôn-bán, hoặc sang làm việc quan, rồi sinh con-cái ở đất ta rất nhiều.

Cho nên Lý Công-Uẩn rất có thể là con cháu một người Mân. Tổ-tiên sang nước ta lúc nào? Dựa vào sự họ Lý dấu gốc- tích, tôi nghĩ rằng gốc tích ấy mới. Có lẽ bố Lý Công-Uẩn người Mân, có chức-vị quan-trọng ở đó. Khi Tống lấy nước Mân (971), họ Lý chạy sang ta ẩn-tích. Sau Công-Uẩn làm vua nước ta, không muốn nói mình là người Bắc; lại nhân muốn tăng lòng dân tin cậy, nên mới bịa ra thuyết con thần. Không biết giả-thuyết này có đúng hay không.

Một điều chắc-chắn là đời Tống, người Tống đều nhận họ Lý gốc ở Mân; không những Từ Bá-Tường nói mà thôi, mà sách Mộng-khê bút đàm cũng nói thế”. Những giả thuyết của Hoàng Xuân Hãn mãi chỉ là giả thuyết. Song những nghi ngờ của ông đã chỉ dẫn cho chúng tôi rất nhiều khi tìm kiếm tư liệu phục vụ cho bài viết này (…)

Tốc thủy kí văn của Tư Mã Quang (1019 – 1086) (…) chủ yếu viết về giai đoạn sáu đời vua Bắc Tống từ năm 906 đến năm 1070. Như vậy, quyển sách Tốc thủy kí văn được biên soạn vào quãng khoảng 1070 đến 1086, tức là ngay trong hoặc gần sát giai đoạn cuộc chiến tranh Tống Lí năm 1075. Sách có đoạn viết: “Trong năm Hi Ninh … Tiến sĩ Lĩnh Nam là Từ Bách Tường nhiều lần thi mà không đỗ đại khoa, ngầm viết thư cho Giao Chỉ rằng: “Đại vương tổ tiên vốn là người Mân. Nghe nói bây giờ công khanh quý nhân ở Giao Chỉ đa phần là người Mân vậy. Bách Tường này tài lược không kém cạnh ai, nhưng không muốn phụng sự cho Trung Quốc nữa, xin được phụ tá dưới trướng đại vương. Nay Trung Quốc muốn cử binh diệt Giao Chỉ. Binh pháp có câu: “kẻ vào trước có thể đoạt được lòng người” chẳng bằng cử binh trước vào cướp đánh, Bách Tường xin làm nội ứng. Vì thế mà Giao Châu nổi đại binh vào đánh cướp, vây hãm ba châu Khâm, Liêm, Ung. Bách Tường không có cơ hội để mà đến quy hàng chúng. Khi ấy Thạch Giám thân với Bách Tường, dâng tấu khen Bách Tường có chiến công, ngoài chức Thị cấm còn sung làm Tuần kiểm ba châu Khâm, Liêm, Bạch. Triều đình lệnh Tuyên Huy sứ Quách Quỳ thảo phạt Giao Chỉ. Giao Chỉ xin hàng và nói rằng: “Chúng tôi vốn không vào cướp, người Trung Quốc gọi chúng tôi vào thôi”. Rồi đưa thư của Bách Tường cho Quỳ. Quỳ lệnh Quảng Tây chuyển vận ti theo đó mà tra hỏi. Bách Tường chạy trốn, treo cổ tự sát. Ghi chép theo lời của Quách soái (Quách Quỳ)”. Đây là lời của Quách soái (tức Quách Quỳ) nói cho Tư Mã Quang nghe. Vậy nên những lời này là lời của những người trong cuộc, xuất hiện sau khi cuộc chiến kết thúc có lẽ không lâu. {Tiếp cận 1: Theo như ghi chép của Tư Mã Quang thì những thông tin về Từ Bá Tường; bức thư của Tường và nội dung trong bức thư ấy là do người trong cuộc Quách Quỳ kể lại, chưa chắc Mã Quang có tham khảo thông tin nào khác để ghi chép về sự kiện này – tôi gọi đây là cấp thông tin thứ 3}

Mộng Khê bút đàm của Thẩm Quát (1031 – 1095) (…) được viết trong khoảng 1086 – 1093[chép]: “Giao Chỉ là đất cũ Giao Châu của đời Hán đời Đường. Ngũ Đại loạn lạc, Ngô Văn Xương mới chiếm An Nam rồi dần chiếm đất của Giao, Quảng. Sau này Văn Xương bị Đinh Liễn giết, Liễn có đất của Văn Xương. Năm thứ sáu niên hiệu Khai Bảo triều ta, Liễn mới quy phục, ban cho chức Tĩnh Hải quân tiết độ sứ; năm thứ tám phong là Giao Chỉ quận vương. Cảnh Đức nguyên niên, thổ nhân là Lê Uy giết Liễn tự lập; năm thứ ba Uy chết, An Nam đại loạn, lâu không có ai là tù trưởng. Quốc nhân sau đó cùng lập người đất Mân là Lí Công Uẩn làm chúa. Năm thứ bảy niên hiệu Thiên Thánh, Công Uẩn chết, con là Đức Chính lên thay. Năm thứ 6 niên hiệu Gia Hựu, Đức Chính chết, con là Nhật Tôn lên thay. Từ khi Công Uẩn chiếm An Nam, mới có lo lắng về chốn biên cương, hắn nhiều lần đưa quân vào cướp. Đến đời Nhật Tôn, còn tiếm xưng là “Pháp Thiên Thuận Ứng Sùng Nhân Chí Đạo Khánh Thành Long Tường Anh Vũ Duệ Văn Tôn Đức Thánh Thần Hoàng Đế”, tôn Công Uẩn làm Thái Tổ Thánh Vũ Hoàng Đế, quốc hiệu Đại Việt. Hi Ninh nguyên niên, cải nguyên bậy thành Bảo Tượng; năm sau lại cải thành Thần Vũ. Nhật Tôn chết, con là Càn Đức lên thay, để hoạn quan Lí Thượng Cát và mẹ Lê thị, hiệu là: Yến Loan thái phi cùng coi việc nước”.

Sử liệu này có nhiều điểm còn chưa được bàn bạc một cách rõ ràng. Nguyễn Ngọc Phúc trong bài viết “Thư tịch, truyền thuyết, di tích về quê hương, gia đình, và tuổi thơ Lí Công Uẩn” có đặt vấn đề nghi ngờ sự chân xác của Mộng Khê bút đàm bởi theo tác giả, Mộng Khê bút đàm có nhiều đoạn viết về tình hình Giao Chỉ chưa thực sự đúng. Tác giả viết: “Không khó để nhận ra những thông tin thiếu chính xác ở trong đoạn trích dẫn trên. Các nhân vật Thẩm Quát nhắc đến có tới 3 người sai tên họ. Về Lê Hoàn, chữ “Uy” phải là chữ “Hoàn” (tức vua Lê Hoàn) mới chính xác; tên của Lý Thường Kiệt ghi thành Lý Thượng Cát và danh hiệu Ỷ Lan thành Yến Loan (…) Giải pháp bác bỏ sử liệu thông qua việc tìm kiếm những điểm không chính xác của sử liệu rồi khẳng định vì có những điểm không chính xác ấy nên sử liệu đó không đáng tin cũng không phải là giải pháp có tính khoa học trong việc phê phán sử liệu (…)

Những cái sai tên người Lê Uy thành Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt thành Lý Thượng Cát, Ỷ Lan thành Yến Loan là những nhầm lẫn có thể bị gây ra do sự khác biệt trong quá trình ghi âm đọc tên người của các vị ấy (…) hiện tượng sử dụng những chữ Hán ghi âm không giống nhau cho cùng một âm đọc là điều xảy ra rất phổ biến, đặc biệt khi sử gia muốn phiên chuyển danh từ riêng của một dân tộc khác, ngôn ngữ khác. Hà Văn Tấn có nói đến những rắc rối trong việc phiên âm tên của những nhân vật lịch sử triều Nguyên.

Đa phần những văn bản sử liệu sớm sẽ rơi vào tình trạng như vậy, khi nguồn tư liệu cho những ghi chép của sử gia chủ yếu đến từ những chuyện người ta mắt thấy tai nghe chứ không phải từ những thư tịch thành văn. Chừng nào chưa chứng minh được khả năng này là không thể xảy ra thì việc khẳng định Mộng Khê bút đàm đã nhầm lẫn vẫn còn là một khẳng định vội vàng. Ngoài ra, những sai lầm của Mộng Khê bút đàm về niên đại và sự kiện liên quan đến Giao Chỉ: “Đinh Liễn và Đinh Tiên Hoàng bị giết năm 979 chứ không phải bị Lê Uy (Hoàn) hạ sát năm 1004 như Mộng Khê bút đàm chép. Lê Hoàn mất năm Thuận Thiên 19 (1005) chứ không phải mất năm Cảnh Đức 3 (1006) như Mộng Khê bút đàm chép. Lí Công Uẩn mất ngày Mậu Tuất, tháng 3 năm 1028 chứ không phải mất năm Thiên Thánh 7 (1029) như Mộng Khê bút đàm chép” (…)

Những nhầm lẫn trên không làm giảm đi giá trị sử liệu và độ đáng tin của sử liệu Mộng Khê bút đàm, khi chủ yếu nhầm lẫn về năm tháng (…) Nguyên nhân chính (…) là do chế độ lịch pháp quá rắc rối thời cổ đại do các vương triều Trung Quốc và Việt Nam quy định. Chúng ta có thể thấy hai sự kiện trên đều bị ghi lệch một năm. Đây phải chăng là một nhầm lẫn có lí do ? (…)

Vì thế mỗi vị hoàng đế đời Tống cứ lên ngôi là đổi lịch, không cần quan tâm đến sự chính xác của lịch pháp. Lưu Hồng Đào cho biết, đời Tống, Lưu Hiếu Vinh liên tiếp chế ba loại lịch: Càn Đạo, Thuần Hi, Hội Nguyên đều không dựa vào quan trắc thiên văn. Khi có người kiến nghị cần phải quan trắc trước khi chế lịch thì quan đề lĩnh và quan chủ quản cục Thái sử đều từ chối vì cho rằng cần phải mất quá nhiều thời gian. Lịch pháp nhà Tống phức tạp như vậy. Riêng Thẩm Quát cũng đề xuất ra một bộ lịch pháp của ông được dựa trên các tiết khí (…) Chúng ta hiện không có thông tin về bộ lịch được Thẩm Quát sử dụng khi viết Mộng Khê bút đàm là bộ lịch nào trong số hơn chục bộ lịch được lưu hành vào thời gian đó (…)

Chừng nào chưa làm rõ những vấn đề của lịch pháp thời cổ của Việt Nam thì nhiều mốc sự kiện lịch sử, ngày tháng năm hiện nay vẫn chỉ là những con số có tính giả thiết (…) khả năng sai về niên đại của Thẩm Quát hoặc của sách sử Việt Nam là điều tất yếu sẽ xảy ra, không tránh được. Bởi vậy, trước khi xem xét hết khả năng có thể xảy ra thì không nên kết luận vội vã rằng những chênh lệch nhỏ về niên đại là do nhầm lẫn của người chép sử.

(…) Lí Công Uẩn mất năm 1028 còn Thẩm Quát ra đời năm 1031 trong một gia đình quan lại (…) Năm 1066, ông làm nhiệm vụ biên hiệu thư tịch của Chiêu Văn Quán, sau đó tham gia vào biến pháp của Vương An Thạch. Năm 1072 bắt đầu nắm chức quan sát thiên văn và biên soạn sách lịch (…) năm 1073, ông trở thành Hiệu lí của Tập Hiền viện, nơi lưu giữ rất nhiều sách vở quý giá và tư liệu của hoàng gia. Chính sự phong phú về tư liệu và những điều kiến văn mà Thẩm Quát nổi danh như một nhà bác học. Năm 1075, ông khi ấy là Hàn lâm thị độc học sĩ, vâng lệnh vua Tống đi sứ Khiết Đan nhằm mục đích giải quyết (…) tình hình biên giới phía Bắc (…) năm 1075, cuộc chiến tranh Tống – Lí cũng bắt đầu bùng nổ (…) Thẩm Quát bằng vị trí của ông, có thể tiếp cận được những nguồn thông tin và tư liệu của triều đình. Bản thân ông cũng là người nhiệt tình trong việc thu thập những tin tức thông tin thuộc về chức phận của ông. Chúng ta có thể tin tưởng vào những nguồn tin về nhà Lí mà ông cung cấp (…) Thẩm Quát thể hiện mình là một học giả sòng phẳng và nghiêm túc. Điều gì không rõ ràng, ông nghe được từ dân gian, ông đều viết rõ đó là những điều “thế truyền” ông luôn nêu tinh thần cảnh giác với những thông tin “truyền văn” tức những điều mà ông được nghe kể. Còn những điều ông đoan chắc, ông không ngại khẳng định luôn. Và điều ông không ngại khẳng định luôn, đó là: Lí Công Uẩn là người Mân. Sau khi biến pháp của Vương An Thạch thất bại, Thẩm Quát lui về ở ẩn và viết sách Mộng Khê bút đàm, ở bài tựa của quyển sách đó, Thẩm Quát khẳng định mong muốn thoát li những vấn đề chính trị của mình: “Những điều mưu lược của nhà vua, chính trị quốc gia cùng những việc liên quan đến triều đình thì đều không dám riêng ghi chép lại trong sách này. Đến như những lời khen chê liên quan đến các sĩ đại phu bây giờ thì dù có là điều tốt cũng không muốn viết, không phải chỉ không nói về những điều xấu của người khác mà thôi đâu. Sách này chỉ ghi chép về những chuyện nhàn tản dưới bóng cây ở chốn núi rừng, tùy ý mà nói cười, không can hệ đến những điều lợi, điều hại của cõi người”. Tình thế và tinh thần của Thẩm Quát khi viết Mộng Khê bút đàm khiến chúng ta tin những gì ông viết không nhằm hướng đến những mục đích chính trị mà chỉ nhằm mục đích kiến thức thuần túy vào những lúc cuối đời. Thực tế, quyển sách Mộng Khê bút đàm cho mãi đến khi Thẩm Quát qua đời mới được khắc in và lưu hành trong dân gian.

Tục Tư trị thông giám trường biên của Lí Đảo (1115 – 1184) (…) được hoàn thành vào năm 1182. Đây là bộ sách đánh dấu công sức và tâm huyết cả đời của Lí Đảo. Có rất nhiều thông tin liên quan đến Từ Bá Tường và gốc gác của Lí Công Uẩn. Đây là một trong những tư liệu quan trọng song hầu hết những nhà nghiên cứu đều khai thác nó một cách chưa đúng độ: “Chiếu lấy tiến sĩ Quảng Tây Từ Bá Tường làm Hữu thị cấm. Trước đó, giặc Giao Chỉ dồn bắt từ Ung Châu già trẻ mấy ngàn người, định sẽ theo đường Quảng Châu mà về. Bá Tường mộ được mấy chục người, liền truy sát theo sau chúng, chém được mấy chục thủ cấp, vì thế mà những người già trẻ bị bắt đi thừa cơ mà trốn thoát đến hơn bảy trăm người. Kinh lược ti biết được chuyện này, nên mới có lệnh đó. Niên hiệu Hi Ninh, triều đình sai Thẩm Khởi, Lưu Di nối nhau quản lí Quế Châu nhằm mưu đồ đánh Giao Chỉ. Khởi, Di đóng chiến thuyền, đoàn kết trai tráng các động thành các bảo giáp, cấp cho bản đồ chiến trận để dựa theo đó mà dạy về chiến trận, các động náo động. Những người bản địa cầm bản đồ Giao Chỉ mà bàn về kế sách công thủ nhiều không đếm hết. Tiến sĩ Lĩnh Nam là Từ Bá Tường nhiều lần thi mà không đỗ đại khoa, ngầm viết thư cho Giao Chỉ rằng: “Đại vương tổ tiên vốn là người Mân. Nghe nói bây giờ công khanh quý nhân ở Giao Chỉ đa phần là người Mân vậy. Bá Tường này tài lược không kém cạnh ai, nhưng không muốn phụng sự cho Trung Quốc nữa, xin được phụ tá dưới trướng đại vương. Nay Trung Quốc muốn cử binh diệt Giao Chỉ. Binh pháp có câu: “kẻ vào trước có thể đoạt được lòng người”, chẳng bằng cử binh trước vào cướp đánh, Bá Tường xin làm nội ứng. Vì thế mà Giao Châu nổi đại binh vào đánh cướp, vây hãm ba châu Khâm, Liêm, Ung. Bá Tường không có cơ hội để mà đến quy hàng chúng. Khi ấy Thạch Giám thân với Bá Tường, dâng tấu khen Bá Tường có chiến công, ngoài chức Thị cấm còn sung làm Tuần kiểm ba châu Khâm, Liêm, Bạch. Triều đình lệnh Tuyên Huy sứ Quách Quỳ thảo phạt Giao Chỉ. Giao Chỉ xin hàng và nói rằng: Chúng tôi nay không vào cướp, người Trung Quốc gọi chúng tôi vào thôi”. Rồi đưa thư của Bách Tường cho Quỳ. Quỳ lệnh Quảng Tây chuyển vận ti theo đó mà tra hỏi. Bách Tường chạy trốn, treo cổ tự sát. Thông tin này lấy từ sách Tốc thủy kí văn của Tư Mã Quang. Ngày Tân Mùi, tháng 2 năm Nguyên Phong nguyên niên, việc của Bá Tường bại lộ”. {Tiếp cận 2: Những ghi chép của Lí Đảo rõ ràng là tham khảo thông tin từ Tốc thuỷ kí, do vậy ghi chép về nhân vật Từ Bá Tường, bức thư của Tường và nội dung của bức thư ấy cũng chỉ nằm trong khuân khổ của Tốc thuỷ kí – tôi gọi thông tin này là cấp thứ 4, nghĩa là Lí Đảo cũng giống chúng ta, tiếp cận thông tin thông qua Tốc thuỷ kí của Tư Mã Quang}

Nhóm văn bản gồm: Trịnh Thiều Châu kỉ lược phụ lục của Trịnh Tủng (? – ?) đời Tống, Trịnh Khai Dương tạp trứ của Trịnh Nhược Tăng (1503-1570) đời Minh và Văn hiến thông khảo của Mã Đoan Lâm (1254 — 1323) đời Nguyên. Tác phẩm trung tâm của nhóm này là Trịnh Thiều Châu kỉ lược phụ lục của Trịnh Tủng được Trương Tú Dân gọi với cái tên là An Nam kỉ lược. Văn bản đầy đủ của tác phẩm này hiện đã thất lạc, chúng ta chỉ có thể biết đến tác phẩm này thông qua bộ sách Trịnh Khai Dương tạp trứ của Trịnh Nhược Tăng đời Minh. Chúng tôi phỏng đoán rằng Trịnh Tủng là người sống khoảng thế kỉ XIII và ông viết Kỉ lược vào khoảng giữa thế kỉ XIII (chúng tôi ước lượng thời gian viết vào khoảng từ 1240 đến 1280).

Sách Kỉ lược của Trịnh Tủng viết: “An Nam vốn là đất Giao Châu thời cổ. Lịch đại là quận huyện của nước ta. Đến triều ta (triều Tống) mới không đưa vào bản đồ. Họ Đinh, họ Lê, họ Lí thay nhau cát cứ đất ấy. Phía Đông Nam đất ấy sát biển, tiếp cận với Đông Hải của Chiêm Thành, đường thông các tộc man của hai xứ Khâm, Liêm; phía Tây Bắc thì thông đến Ung Châu […] Những người Giao Chỉ ít thông chuyện sách vở chữ nghĩa. Người Mân men theo biển mà đi thuyền tới đó thường được hậu đãi. Nhân đó được họ cho làm quan, hỏi han bàn bạc mà quyết mọi việc. Phàm những điều đổi thay, xảo trá, lộn xộn của họ, đa phần là từ những người du khách mà ra. Tương truyền, tổ của dòng họ Lí là Công Uẩn cũng là người Mân. Nước đó, người bản địa cực ít, phân nửa là dân các tỉnh của Trung Quốc. Các quán khách ở phương Nam, dụ người làm nô bộc, khuân vác, khi đến các châu động thì bắt trói lại đem bán, các châu động lại chuyển bán vào Giao, một người được ba lạng vàng. Những người có nghề thì giá gấp đôi. Người nào biết đọc biết viết thì giá lại gấp đôi nữa. Họ bị trói giật cánh khuỷu mà lùa đi, trên vòng dây lên buộc vào cổ, phải cúi thấp đến mức không biết đường trước mặt. Khi đến đất Giao Chỉ, thì mới biết người mua mình là ai. Những người đó phải làm nô lệ chung thân, thích chữ lên trán, phụ nữ thì thích chữ vào ngực vú, bị giam giữ rất tàn khốc, chỉ sợ chạy trốn. Ở nước đó có rất nhiều tú tài, tăng nhân đạo sĩ, bọn phương sĩ cùng lũ đầy tớ thay họ đổi tên chạy trốn”.

Chúng ta có thể tìm thấy một đoạn văn gần như tương đồng với đoạn văn trên trong Văn hiến thông khảo của Mã Đoan Lâm đời Nguyên song Mã Đoan Lâm không ghi chú gì về tác giả của đoạn văn này nên người ta vẫn nghĩ đó là do ông viết. Sách của Mã Đoan Lâm soạn thành vào khoảng năm thứ 11 niên hiệu Đại Đức triều Nguyên (1307) nên có thể Mã Đoan Lâm đã tham khảo sách của Trịnh Tủng. Văn hiến thông khảo có viết: “Những người Giao Chỉ ít thông chuyện sách vở chữ nghĩa. Người Mân men theo biển mà đi thuyền tới đó thường được hậu đãi, nhân đó mà cho người đó làm quan, hỏi han bàn bạc mà quyết mọi việc. Phàm những điều đổi thay, xảo trá, lộn xộn của họ, đa phần là từ những người du khách mà ra. Tương truyền, tổ của họ là Công Uẩn cũng là người Mân. Nước đó, người bản địa cực ít, nửa là dân các tỉnh của Trung Quốc. Các quán khách ở phương Nam, dụ người làm nô bộc, khuân vác, khi đến các châu động thì bắt trói lại đem bán. Một người giá hai lạng vàng, các châu động chuyển bán vào Giao Chỉ, một người ba lạng. Một năm không dưới mấy trăm mấy ngàn người bị bán. Những người có nghề thì giá gấp đôi, người nào biết đọc biết viết thì giá lại gấp đôi nữa. Họ bị trói giật cánh khuỷu mà lùa đi, trên vòng dây lên buộc vào cổ, phải cúi thấp đến mức không biết đường trước mặt. Khi đã ra khỏi nước, thì mới biết người mua mình là ai. Họ phải làm nô lệ chung thân, đều thích lên trán bốn đến năm chữ, phụ nữ thì thích chữ từ ngực vú đến xương sườn, họ bị giam giữ rất tàn khốc, người bỏ trốn sẽ bị giết. Ở nước đó có rất nhiều tú tài, tăng nhân đạo sĩ, bọn phương sĩ cùng lũ đầy tớ thay họ đổi tên chạy trốn. Người ở đó không biết đúc tiền riêng, đều dùng tiền nhỏ bằng đồng của Trung Quốc, tiền đều do những thương nhân và lữ khách đem đến nơi đó mà có”.

 {Tiếp cận 3: Như vậy là đến Trịnh Tủng đời Tống thì nguồn gốc Mân của Lí Công Uẩn cũng chỉ là tương truyền, nghĩa là Tủng cũng chỉ nghe nói vậy thôi chứ không thể xác định được đúng hay sai. Trong trường hợp Tủng có đọc Tốc thuỷ kí, Mộng kê bút đàm, Tục tư trị thông giám thì hẳn là Tủng phải quả quyết ngay chứ sao còn phải lăn tăn. Hay là Tủng cũng nghi ngờ những do Tư Mã Quang, Thẩm Quát, Lí Đảo chép ? Trong trường hợp Tủng không đọc Tốc thuỷ kí thì rõ ràng đây cũng là một nguồn thông tin độc lập có giá trị. Có lẽ Lê Tắc đã tiếp nhận những thông tin của nhóm này và nhận thấy yếu tố tương truyền (không chắc chắn) nên Tắc khẳng định ngay trong An Nam chí lược: “có người nói là người Mân, không phải”}

(…) xoay xung quanh thông tin mà Trịnh Tủng cung cấp và sau đó được Mã Đoan Lâm và Trịnh Nhược Tăng nhắc và sao chép lại trong trước tác của họ (…) Tình hình dân số An Nam vào thời kì Trịnh Tủng viết Kỉ lược cho thấy quá trình di cư rất mạnh của các nhóm người có nguồn gốc Trung Quốc, để rồi hậu quả là như ông viết: “Nước đó, người bản địa cực ít, phân nửa là dân các tỉnh của Trung Quốc”. Trịnh Tủng ghi chép lại tình hình của An Nam vào khoảng thế kỉ 13 và đặc biệt chú ý đến một hiện tượng đó là sự ưu đãi người Mân một cách thái quá của nhà cầm quyền An Nam: “Người Mân men theo biển mà đi thuyền tới đó thường được hậu đãi. Nhân đó được họ cho làm quan, hỏi han bàn bạc mà quyết mọi việc”. Nguyên nhân của sự trọng đãi này, theo lí giải của Trịnh Tủng đó là do tổ tiên của các vua Lí là Lí Công Uẩn cũng là người Mân. Lí giải của Trịnh Tủng về nguyên nhân mà nhà Lí trọng thị những người có nguồn gốc từ Mân sang Việt Nam chưa thể xác định được là đúng hay sai, nhưng sử liệu này cũng cho thấy có tồn tại một mối quan hệ bất thường cần phải làm rõ thêm giữa người Mân và triều đình nhà Lí trong suốt một thời gian dài mà điểm cuối có thể nhận biết là cuối thế kỉ 13 (…)

Nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Phúc rất có lí khi băn khoăn: “Không có tư liệu nào của Việt Nam xác nhận thông tin từng có một bức thư như thế đến tay triều đình nhà Lý và cuộc tấn công “tiên phát chế nhân” do Lý Thường Kiệt chỉ huy đánh sang đất Tống có sự nội ứng của nhân vật Từ Bách Tường này”. Từ Bá Tường không làm nội ứng cho nhà Lí, điều này đã được Lí Đảo xác nhận trong Tục Tư trị thông giám trường biên. Còn sử thư Việt Nam không ghi chép về nhân vật này là điều có thể hiểu được.

Lí trang Chử Nội Lí thị phòng phả được biên soạn đầu tiên vào tháng 8 năm Bính Dần niên hiệu Hàm Thuần đời Nam Tống (1266), biên soạn lại lần thứ hai vào tháng 3 năm Giáp Tí niên hiệu Gia Tĩnh triều Minh (1564). Cũng theo như Lí Thiên Tích thì văn bản này có thể đã được chỉnh sửa dưới thời vua Quang Tự nhà Thanh theo trào lưu chỉnh sửa và cho in ấn phát hành gia phả rộng rãi thời kì đó.

Những nội dung liên quan đến Lí Công Uẩn như sau: “Nhánh thứ 11 – Tùng: Lí Tung, tên húy là Đại Sửu. Nguyên tịch huyện Nhiêu Dương, Thâm Châu. Hậu Tấn Cao Tổ là Tấn Xuất Đế (thời gian tại vị từ năm 942 đến năm 946), tể tướng Lí Tung bị vu oan và bị hại. Con cháu phải đến phương nam tị nạn, định cư ở Lí gia trang phía đông Loan Hải, quận Mân Châu, nay thuộc hương Trung Sái, Cửu Đô. Ông sinh vào ngày mùng 9 tháng 3 năm Quý Mão, năm thứ 2 niên hiệu Trung Hoa đời Đường (883), mất vào ngày 27 tháng 10, năm Càn Hựu nguyên niên nhà Hậu Hán (948). Ông lấy vợ họ Thạch, bà được phong là phu nhân. Ông chọn mộ nơi nào giờ không rõ. Sinh được hai con là Thuần An và Hi Hồng (…) Nhánh thứ 12 – Thuần An: Lí Thuần An tên chữ Phú An, con trưởng của ông Lí Tung. Làm quan Thủy lục vận sứ. Nguyên tịch huyện Nhiêu Dương, Thâm Châu, nay thuộc huyện Nhiêu Dương, tỉnh Hà Bắc, di cư đến Lí gia trang phía đông Loan Hải, quận Mân Châu, nay thuộc Trung Sái, Cửu Đô. Vì tị nạn mà bỏ quan chức, kinh doanh vận tải đường thủy, từng đưa thuyền đến các vùng đất Chân Lạp, Giao Chỉ, Xiêm La mà nhiều nhất là đến Giao Chỉ. Ông sinh thời Hậu Lương ngày mùng 6 tháng 9 năm Tân Tị, Càn Đức nguyên niên; mất ngày 19 tháng 10 năm Ất Hợi năm thứ hai niên hiệu Hàm Bình thời Bắc Tống (…) Nhánh thứ 13 – Công Uẩn: Lí Công Uẩn, tên chữ là Triệu Diễn, con thứ của Lí Thuần An. Ông khéo võ công, giỏi văn chương. Từ nhỏ theo cha di cư đến Bắc Giang, Giao Chỉ. Khi mới ban đầu nắm chức Điện tiền chỉ huy sứ dưới triều Tiền Lê. Năm Kỉ Dậu, năm thứ 2 niên hiệu Đại Trung Tường Phù của Tống Chân Tông (1009), Giao Chỉ hỗn loạn, ông bình định có công, được triều đình suy tôn làm vua Giao Chỉ, lập nên triều Lí. Sau khi ông làm vua, liền sai sứ đến nạp cống cho triều đình nhà Tống. Tống Chân Tông sách phong cho ông làm Giao Chỉ quận vương. Cho đến triều của Tống Nhân Tông cũng lại phong ông làm Nam Bình Vương. Sau, ông còn được truy tặng tên thụy là Giao Chỉ quốc Thái tổ thần vũ hoàng đế. Ông sinh ngày 14 tháng giêng năm Ung Hi nguyên niên nhà Bắc Tống, mất ngày 18 tháng 10 năm Mậu Thìn, năm thứ 6 niên hiệu Thiên Thánh. Lấy vợ người họ Lê, họ Trần, lập Đức Chính làm vương tử” (…)

Chúng tôi cho rằng phạm vi lưu hành hạn hẹp của một quyển gia phả khiến cho khó có khả năng sử gia nhà Nguyên khi viết Tống sử sẽ phải lặn lội từ Đại Đô (nay là Bắc Kinh) về Mân để tham khảo và thu thập sử liệu, nên có thể loại bỏ khả năng Tống sử chịu ảnh hưởng của gia phả này. Lúc này sẽ có hai khả năng: khả năng 1, hai nhóm tư liệu này được biên soạn độc lập; khả năng 2, gia phả đã dựa vào sử thư để biên soạn. Khả năng thứ nhất khó có thể xảy ra”

Độc sử phương dư kỉ yếu của Cố Tổ Vũ (1631-1692) đời Thanh biên soạn vào khoảng từ năm 1659 đến năm 1679 (…) viết: “Đầu đời Tống, đất đó lại bị Đinh Bộ Lĩnh chiếm, tự xưng là Vạn Thắng vương, cho con là Liễn làm Tĩnh Hải tiết độ sứ. Năm Khai Bảo thứ 6, lại nội thuộc triều đình (nhà Tống). Năm Khai Bảo thứ 8, phong làm Giao Chỉ quận vương, từ đó Giao Chỉ dần trở thành dị vực. Liễn chết, em là Tuyền lên nối ngôi, bị thuộc tướng là Lê Hoàn soán ngôi. Đầu niên hiệu Cảnh Đức, phong làm Nam Bình vương. Hoàn chết, con là Long Đĩnh nối ngôi. Năm Cảnh Đức thứ 4, đổi phong là Giao Chỉ quận vương. Long Đĩnh chết, con là Chí Trung nối ngôi. Năm Đại Trung Tường Phù thứ 3, bị bề tôi là Lí Công Uẩn, người đất Mân, soán ngôi. Nhà Tống vẫn phong làm Giao Chỉ quận vương, truyền đến đời Nhật Tôn thì xưng đế, quốc hiệu Đại Việt. Vào thời Hi Ninh, Vương An Thạch bàn kế mở mang biên giới, xâm nhiễu bờ cõi dân man. Hi Ninh năm thứ 8, người Giao Chỉ làm phản, vây hãm các châu Khâm, Liêm, Ung. Hi Ninh năm thứ 9, vua chiếu cho Quách Quỳ  thảo phạt, đánh đến sông Phú Lương, chiếm được bốn châu một huyện rồi rút về. Đất ấy rồi lại nhập về với Giao Chỉ. Công Uẩn truyền ngôi được 8 đời thì dứt, con rể là Trần Nhật Cảnh có được nước”.

Tây Sơn tạp chí của Sái Vĩnh Khiêm (1776 – 1835) đời Thanh. Sái Vĩnh Khiêm vốn là người Đông Thạch, Tấn Giang. Do không rõ niên đại ra đời của quyển sách, ta có thể phỏng đoán là sách ra đời khoảng đầu thế kỉ XIX (1800 – 1835), lấy điểm đầu là khi Sái Vĩnh Khiêm trưởng thành, điểm cuối là năm mất của ông. Nội dung Tây Sơn tạp chí viết:

“Lí trang có năm thôn, nằm giữa Tăng Thố và Đại Phòng. Năm Khai Vận nguyên niên nhà Hậu Tấn thời Ngũ Đại, Nam Đường chủ bàn cách đánh đất Mân. Thị trung là Lí Tùng can không nên đánh. Lí Tùng sống ở phía tả của Ngô Sơn, ông vốn phải đi thuyền theo đường biển về phương nam, lánh nạn ở đấy. Con ông là Lí Phú An, tên chữ là Sơn Bình, bỏ học theo nghề buôn, thuyền buôn đi xa đến tận các nước Chân Lạp, Chiêm Thành, các nước ở vịnh Xiêm La. An Nam, Giao Chỉ là biết rõ nhất. Mỗi lần thuyền đi, người trong thôn xóm cùng đi theo. Con út là Lí Công Tố, thời Bắc Tống được suy tôn lên làm vua, xây dựng vương triều ở An Nam kéo dài chín đời. Lí gia cảng là nơi đậu thuyền của Lí Sơn Bình vậy”. {Tiếp cận 4: Những sử liệu đời Thanh dù nhiều thì chẳng qua cũng chỉ là chép lại của đời Tống}

Trong số nhóm sử liệu về nguồn gốc Mân của Lí Công Uẩn nêu trên, chúng tôi đặc biệt chú ý đến những sử liệu do Tư Mã Quang, Thẩm Quát và Lí Đào viết. Chúng tôi giữ niềm tin rằng, Lí Công Uẩn bản thân tự nhận là An Nam Tĩnh Hải Quân Quyền Lưu Hậu, tức coi mình như một viên quan nhiếp quản quyền Tiết độ sứ của nhà Tống, sau lại được nhà Tống chấp nhận coi như một tiết độ sứ chính thức, đứng chân vào hàng ngũ quan lại cấp cao, thì triều đình nhà Tống phải có những thông tin cơ bản về Lí Công Uẩn. Với tư cách là những sử gia và là những quan lại cấp cao của nhà nước, lại là người đương – cận thời thì những ghi chép của họ về Lí Công Uẩn tỏ ra có sức thuyết phục!  

(…) Cuộc chiến tranh Tống – Lí khép lại bằng cái chết của Từ Bá Tường, người đã phản bội triều Tống để trở thành con tốt thí trên bàn cờ hòa của cuộc chiến tranh. Hoàng Xuân Hãn viết về Từ Bá Tường như sau: “Có lẽ Bá-Tường sau này không giúp Lý Thường Kiệt. Sau khi quân Lý rút lui, viên coi Quế-châu là Thạch Giám có khai công-trạng Từ Bá-Tường, đã mộ 700 quân che-chở cho nạn-nhận chạy giặc xuống Quảng-châu. Ngày 22 tháng 4 năm B. Th (1076), Bá-Tường được bổ làm tuần kiểm các châu Khâm, Liêm và Bạch (…) Nhưng sau, vua Lý tố-giác sự Bá-Tường xui ta đánh Tống. Ngày 26 tháng 2 năm M. Ng (1078), có chiếu cách chức anh em Bá-Tường, ép Bá-Tường tự thắt cổ chết, và phát phối con cái”

Bức thư của Từ Bá Tường được biết đến thông qua lời kể của tướng Quách Quỳ cho Tư Mã Quang nghe (…) đóng vai trò then chốt trong việc khẳng định nguồn gốc Mân của nhà Lí. Những thông tin này cho thấy một trong những nguyên nhân khiến Từ Bá Tường ủng hộ nhà Lí đó là vì tổ tiên của vua Lí Nhân Tông (tức Lí Công Uẩn) lúc bấy giờ vốn là người đất Mân. Và nguyên nhân đó được nêu ra trong một bức thư ngoại giao và vua nhà Lí đã vừa lòng với nguyên nhân được Từ Bá Tường đưa ra, bằng chứng là vào năm 1075, cuộc tấn công “tiên phát chế nhân” đã diễn ra. Việc Lí Nhân Tông đưa lại bức thư cho Quách Quỳ làm bằng chứng tố cáo Từ Bá Tường cho thấy vua Lí cũng không ngại ngần gì trong việc công khai nguồn gốc quê quán của mình bởi có lẽ điều đó vào đương thời là điều mà ai cũng biết, đến cả một viên quan nhỏ như Từ Bá Tường cũng biết được điều này. 

Vậy nên nếu muốn bác bỏ những sử liệu này, người phản biện buộc phải chứng minh sự kiện Từ Bá Tường và bức thư kia là không có thật hay chỉ là cái cớ được đưa ra để chấm dứt cuộc chiến tranh Tống – Lí một cách êm đẹp! {Tiếp cận 5: Đúng là để bác bỏ sử liệu thì phải chứng minh sự kiện Từ Bá Tường và bức thư là không có thật. Tuy nhiên chúng ta vẫn có thể đặt câu hỏi về tính chính xác của nội dung bức thư. Có đúng là bức thư viết: “Đại vương tổ tiên vốn là người Mân”}

Song rất khó để có thể nghi ngờ tính chất chân thực của sự kiện bức thư và sự tồn tại của nhân vật Từ Bá Tường. Tính chân xác của nó được đảm bảo bởi những lí do sau đây:

– Người đầu tiên đưa ra thông tin bằng văn bản về sự kiện Từ Bá Tường là Tư Mã Quang, một trường hợp cá biệt, một sử gia mà danh tiếng, uy tín và ảnh hưởng của ông đã tác động đến hầu hết các quốc gia Đông Á chịu ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa (…) Trong thời gian diễn ra cuộc chiến tranh Tống – Lí (1075 – 1077) ông là người sống và chứng kiến cuộc chiến diễn ra với tư cách của một sử gia, một học giả được trọng vọng và là một người có uy tín chính trị. Thông qua Tốc thủy kí văn, người ta biết được rằng ông đã được tiếp xúc với những trọng thần khi ấy của triều đình và cả những người trực tiếp điều khiển cuộc chiến như là Quách Quỳ. Thông tin của ông về Từ Bá Tường, được cung cấp bởi Quách Quỳ, người ra lệnh bắt Từ Bá Tường, đương nhiên, sẽ là những thông tin có thể chấp nhận được. Việc bắt Từ Bá Tường chắc chắn phải gây ra một tiếng vang, vì đó là một sự kiện then chốt để kết thúc chiến tranh Tống – Lí và để Quách Quỳ vớt vát chút công lao khi kế hoạch ban đầu khi tiến hành cuộc chiến không được hoàn toàn như ý. Tác phẩm Tốc Thủy kí văn, như đã nói, được viết ngay trong và sau tiến trình của cuộc chiến tranh Tống – Lí nên độ giãn cách về thời gian không dài để phát sinh những nhầm lẫn. Những thông tin mà nó cung cấp vì thế, có độ tin cậy cao hơn những nguồn thông tin khác. {Tiếp cận 6: Với danh tiếng của Tư Mã Quang thì chúng ta cũng chỉ có thể dừng lại ở độ xác tín về những thông tin được ghi chép trong Tốc thuỷ kí, nghĩa là: có việc Quách Quỳ kể lại cho Tư Mã Quang nghe và câu chuyện Quỳ kể lại thì đúng như những gì Mã Quang ghi chép lại. Chứ chưa thể khẳng định Quách Quỳ có kể sai khác với sự thật hay không}

– Tính chân xác của sự kiện Bức thư và nhân vật Từ Bá Tường được khẳng định thêm một lần nữa thông qua những ghi chép của Lí Đảo trong Tục Tư trị thông giám trường biên. Lí Đảo có tham khảo và dùng lại những ghi chép của Tư Mã Quang trong Tốc Thủy kí văn. Khi Lí Đảo viết Tục Tư trị thông giám trường biên thì cả Tư Mã Quang và Quách Quỳ và những nhân chứng của cuộc chiến đều đã chết. Song ông có một lợi thế là tư liệu của triều đình nhà Tống vẫn còn lại, giãn cách với sự kiện cũng chưa xa, vậy nên ông có một góc nhìn khá bao quát, hơn hẳn sử gia tiền nhiệm Tư Mã Quang.

Bắt đầu từ Lí Đảo, câu chuyện về nguồn gốc Mân của Lí Công Uẩn đã đi từ góc độ quan sát cá nhân và quan sát sử học cá nhân vào trong chính sử và trở thành một phần của lịch sử được nhà nước thừa nhận (…) Khai thác các thông tin được biên chép trong Tục Tư trị thông giám trường biên (…) còn có được một số thông tin thú vị xung quanh Từ Bá Tường và sự kiện Bức thư như sau: “Ngày Tân Mùi, tháng 2, năm Nguyên Phong thứ nhất (1078), triều Tống Thần Tông (1068 – 1077). Nhà vua xuống chiếu: “quyền Quế Châu tư lí tham quân Từ Bá Hài và nhiếp Thạch Khang huyện úy, thuộc Liêm Châu là Từ Bá Chuẩn đều bị truy hủy toàn bộ văn bằng ban chức từ lúc làm quan đến giờ, gạch tên buộc thôi chức, vĩnh viễn không thu dùng; bọn dân thường Từ Kiến An đều bị đánh gậy vào xương sống, đày đi quản thúc ở Bắc Lộ, Kinh Hồ”. Nguyên nhân bị trừng phạt là do không biết được việc Từ Bá Tường trước kì đại xá, thông thư với Giao Chỉ để còn ngăn cấm. Bá Tường ban đầu nhờ áo vải mà mộ được dân chúng đánh giặc Giao Chỉ, nên được trao chức Hữu thị cấm, làm Duyên hải tuần kiểm. Khi quân nhà vua đánh đến sông Phú Lương. Càn Đức (tức Lí Nhân Tông) sai người đem bức thư mà Bá Tường gửi từ năm Hi Ninh thứ 6 (1073) tới nộp. Bức thư đó tự xưng là “Cự Tống du sĩ, thần, Bá Tường”, chỉ cho Giao Chỉ cách quấy nhiễu biên cương, cho rằng triều đình đã phụ lại công lao của hắn, cho nên hàm oán, muốn bỏ cả phần mộ, thân thích mà quy hàng Giao Chỉ. Vì thế nhà vua ra chiếu bắt Bá Tường, Bá Tường bèn treo cổ tự sát. Còn Bá Hài đó là anh cùng mẹ, Bá Chuẩn là anh em thúc bá, Kiến An là con trai của Bá Tường vậy. Bá Tường nhận quan chức vào ngày 22 tháng 3 năm Hi Ninh thứ 9 (1076)”.

Ngoài tư liệu của Lí Đảo ra, Tống sử quyển sách do nhóm Thoát Thoát (1314 – 1355) biên soạn vào đời Nguyên cũng cho biết: “Ngày Đinh Sửu, năm thứ 9 niên hiệu Hi Ninh đời vua Thần Tông, tháng ba, ban cho Tiến sĩ Quảng Tây là Từ Bá Tường làm Hữu thị cấm, tuần kiểm ba châu Khâm, Liêm và Bạch”. Như vậy Tống sử với Tục Tư trị thông giám trường biên là thống nhất về nội dung. {Tiếp cận 7: Những sử liệu này chỉ dừng lại ở việc: chứng minh có nhân vật Từ Bá Tường. Bá Tường đã chết. Anh em Tường bị liên luỵ. Còn nguyên nhân do Tường thông thư với Giao Chỉ thì là do Tục tư trị thông giám ghi chép, mà như đã trình bày: Lí Đảo tham khảo Tốc thuỷ kí}

– Vào thời Nam Tống, độc lập với những ghi chép của Lí Đảo và hệ thống sách sử quan phương, chúng tôi còn tìm thấy một tư liệu quan trọng nữa cũng viết về sự kiện Từ Bá Tường đó là sách Lĩnh ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi (1135 – 1189). Cuốn sách này cho biết: “Lê Hoàn chết, con là Chí Trung lên. Năm thứ 3 niên hiệu Đại Trung Tường Phù (1010) Chí Trung chết, có con mới mười tuổi. Lí Công Uẩn mạo nhận họ mình là họ Lê rồi giết chết Chí Trung. Tự xưng là Lưu hậu, sai sứ sang xin phong. Triều đình trao cho chức Lê thị quan. Công Uẩn chết. Con là Đức Chính lên nối ngôi, sai người đến báo tang, tự xưng là Lưu Hậu. Năm thứ 6 niên hiệu Thiên Thánh (1028) trao cho chức An Nam đô hộ Giao Châu quận vương. Đầu niên hiệu Bảo Nguyên, quyền lực rơi vào tay bề tôi, đại thần Lí Thượng Cát đầu têu phản loạn, tiến sĩ Bạch châu của Quảng Tây là Từ Bá Tường vì có công với châu mà không được làm quan đã chỉ lối cho chúng, phạm vào biên giới, vây hãm ba châu Ung, Khâm, Liêm. Triều đình sai Quách Đạt đến thảo phạt, cơ hồ diệt nước ấy, nước ấy mới dâng biểu xin hàng. Gặp lúc quân triều đình đang có đại dịch, Đạt nhận được biểu xin hàng liền thu quân, lúc ấy là năm Hi Ninh thứ 8 (1075). Càn Đức chết, có một đứa con lúc ấy chưa ra đời ở Chiêm Thành, bề tôi bèn lập lên làm vua, đó chính là Thiên Tộ. Theo như Tống sử, năm thứ 2 niên hiệu Thiệu Hưng (1132), Càn Đức chết, con là Dương Hoán nối ngôi. Năm thứ 8 niên hiệu Thiệu Hưng (1138), Dương Hoán chết. Con là Thiên Tộ nối ngôi. Ở đây có nhầm lẫn”.      

Thông tin của Chu Khứ Phi về Từ Bá Tường là có thể chấp nhận được bởi Chu Khứ Phi có cuộc đời làm quan gắn chặt với châu Khâm và vùng Quảng Tây, nơi Từ Bá Tường sống và hoạt động. Thông tin của ông đưa ra có một vài điểm chưa rõ ràng, nhưng sự tồn tại của Từ Bá Tường và sự kiện Bức Thư là khó có thể bác bỏ. Từ nội dung tự sự có thể nhận thấy thông tin của ông là một nguồn độc lập với Thẩm Ước, Tư Mã Quang và Lí Đảo, đặc biệt trong cách ông lí giải nguyên nhân phản bội của Từ Bá Tường. {Tiếp cân 8: Theo như sử liệu thì chúng ta cũng chỉ có thể dừng lại ở việc xác định tồn tại nhân vật Từ Bá Tường, chỉ lối cho Giao Chỉ vào chiếm. Chưa nói rõ về sự tồn tại của bức thư và giả như tồn tại bức thư, thì cũng không biết được nội dung bức thư ấy ra sao. Trong khi đó sử liệu không nhắc gì về nguồn gốc Mân của Lí Công Uẩn – thông tin mà hầu như mọi sử liệu đều nhắc đến}

Tiểu kết: Từ những sử liệu trên chúng ta chỉ có thể dừng lại ở những xác quết sau: Chắc chắn là có nhân vật Từ Bá Tường. Tường được phong chức vào năm 1076 và thắt cổ tự vẫn vào năm 1078. Anh em họ hàng của Tường bị liên luỵ. Rất có thể Tường qua lại với Giao Chỉ và có thể tồn tại bức thư (viết gửi năm 1073) với nội dung như trong Tốc thuỷ kí. Nhưng việc Tường viết trong bức thư “đại vương tổ tiên vốn là người Mân” cũng chưa hẳn đã đúng và Tường cũng chỉ nghe thông tin rằng: họ Lí vốn là người Mân.

* Như vậy là bất bình trước triều đình nhà Tống, vào năm 1073 Từ Bá Tường viết bức thư gửi họ Lí ở Giao Chỉ xúi đánh nhà Tống. Năm 1075 Lý Thường Kiệt xuất binh tiến đánh 3 châu Khâm Liêm Ung. Bá Tường thu gom người tập kích Thường Kiệt khi rút quân. Nhân đó năm 1076 được phong chức. Cùng năm Quách Quỳ tấn công Giao Chỉ nhưng không hiệu quả, nhà Lý chủ động cầu hoà, buộc Quỳ rút quân về. Năm 1078 trong những lần hội sứ, nhà Tống có hỏi về việc nhà Lý tấn công 3 châu, sứ nhà Lý đưa bức thư mà Bá Tường gửi cho vua nhà Lý và nói rằng: người Tống gọi quân đội nhà Lý vào đánh, chứ không phải nhà Lý tự ý vào.

 Câu hỏi rất quan trọng là: Trong lần nhà Lý tấn công vào 3 châu mà không nhận được sự hỗ trợ của Từ Bá Tường như bức thư viết ? Ngược lại, còn vấp phải sự chống đối của Bá Tường. Trước hết, chúng ta thấy rằng: Nhà Lý nhận được sự hỗ trợ từ những người bất mãn trong hàng ngũ đối thủ, thì ít nhất nhà Lý phải báo tin cho nội gián của mình biết kế hoạch để cùng phối hợp tấn công. Nhưng qua việc đánh hạ 3 châu (2 châu Liêm Khâm thì phá nhanh, có lẽ do nhà Tống bị bất ngờ. Châu Ung thì Lí Thường Kiệt mất nhiều thời gian và lực lượng hơn, có thể do nhà Tống đã có chuẩn bị. Sau khi phá xong châu Ung, Thường Kiệt rút quân. Có thể Kiệt đã thấy việc bắc phạt nên dừng lại, vì trong khi đánh hạ 3 châu, quân Tống đã có thời gian để chuẩn bị quân lực phòng thủ các châu khác. Nếu cố đánh thêm, rất có thể bị sa lấy. Cho thấy Kiệt thực là người tài, nắm bắt được khả năng, nhận định chính xác tình hình) và Bá Tường truy kích, cho thấy nhà Lý không có nội gián hay ít nhất là trước khi tấn công nhà Lý không có liên hệ với nội gián. Đây thực sự là việc khó hiểu ? Nếu Bá Tường gửi thư cho nhà Lý, vua Lý thấy phải, xuất binh phạt bắc, thì hẳn là phải liên hệ với Tường để cùng phối hợp. Nhưng lạ thay nhà Lý không liên lạc ? Hoặc nhà Lý có liên lạc nhưng không thấy Bá Tường hồi âm, thì hẳn nhà Lý phải đặt câu hỏi chứ ? Vì những người cầm quân, đều là những vị kiệt xuất. Hay nhà Lý đã quá nóng vội, khi chưa (hoặc không) nhận được hồi âm của Bá Tường vẫn quyết tấn công.

Khi Bá Tường dẫn người tập kích quân đội nhà Lý, điều gì thôi thúc Bá Tường làm vậy ? Tường hoàn toàn có thể không phải làm việc ấy ? Nếu Tường tấn công thật thì không sợ nhà Lý đưa ra bức thư sao ? Hay Tường nghĩ nhà Lý sẽ không biết Tường là người tấn công ? Có khi nào đó là cuộc tấn công giả không ? Qua việc Tường thi nhiều mà không đỗ, nên bất mãn cho thấy Tường là người háo danh. Tường tấn công vậy để được triều đình xác nhận công trạng và phong chức (có 2 nhóm sử liệu giải thích sự bất mãn của Tường: Nhóm viết rằng Tường thi không đỗ, nhóm khác viết rằng Tường có công truy kích giặc nhưng không được trọng vọng nên bất mãn). Có khi nào nhà Lý và Tường cùng diễn trò không ? Mục đích Tường sẽ có cơ hội lên cao hơn, khi ấy nội gián có giá trị hơn. Trường hợp này rất khó vì nếu đó là diễn trò thì vì sao năm 1078 khi Tường chưa lộ, nhà Lý lại tố Tường. Khi Thường Kiệt hạ 3 châu, phương bắc đều sợ hãi vậy mà Tường gan lớn thu thập có mấy trăm người tập kích cả đội quân vừa hạ 3 châu. Đây là việc còn khó hiểu nữa ? Lúc Thường Kiệt vây thành Ung châu, Bá Tùng đang ở đâu mà không tới cứu viên ? Không dũng cảm ra mặt ? Qua chi tiết “gom người truy kích” cho thấy Tường không có binh lực và lúc này cũng ở gần Ung châu ? Vậy mà lúc quân Lý vây thành, không thấy Tường đâu ? E rằng: việc này có chép hơi quá! Có thể sự việc chỉ diễn ra như sau: Khi thấy Ung châu khó giữ, Tường dẫn người châu rút chạy, thoát được khỏi quân Lý.

Cũng có thể ban đầu Tường chống nhà Tống, nhưng sau Tường đổi ý, nên trước thì viết thư cho nhà Lý nhưng về sau lại tập kích Lý Thường Kiệt. Về cái chết của Tường cũng khá khó hiểu: Khi nhận được bức thư, Quách Quỳ sai tra hỏi, nhưng trong bức thư có nói rõ tên Bá Tường, vậy thì đối tượng đầu tiên là Tường, nếu đã nghi ngờ Tường thì vì sao lại để Tường trốn đi ? Phải bắt giam hoặc chí ít là theo dõi ? Điều khó hiểu hơn là Tường có lòng ham sống thì mới trốn đi ? Nhưng trốn được rồi lại thắt cổ tự tử vì sợ hãi ? Trường hợp Tường bị ép phải tự tử thì cũng khó hiểu bởi vì với những chứng cứ rõ ràng như thế: Đúng lý Quách Quỳ phải tâu báo đúng sự thật, áp Tường về kinh và chém đầu thị chúng, để răn đe những kẻ khác, đằng này lại sát hại một cách mờ ám. Liên quan tới bức thư của Tường, chắc chắn Quỳ có trong tay ? Về lí Quỳ phải dâng lên vua như là bằng chứng nhưng chỉ duy có Tư Mang Quang chép lại nội dung bức thư qua lời kể của Quỳ, các cuốn sử khác không chép lại, thậm chí không nhắc tới. Có khi nào nhận được bức thư, vua Tống đã huỷ đi hay các nhà chép sử không ghi lại hoặc có thể Quỳ không dâng vua ? Chúng ta chỉ biết rằng: Chỉ duy có Tốc thuỷ kí là chép về nội dung bức thư.

Về thông tin trong bức thư của Tường nói rằng: Lí Công Uẩn người Mân. Đây liệu rằng có phải là một thông tin chính xác không ? Hay là Tường cũng chỉ nghe thông tin như thế ? Chứ thật không thể chắc chắn ? Qua bức thư thì chúng ta còn biết được rằng: Người Mân xuất hiện tại An Nam thời nhà Lý là nhiều và họ rất được nhà Lý coi trọng. Đồng thời trước và sau cuộc chiến tranh Tống Lý thì phần nhiều người Tống đều cho rằng: Lí Công Uẩn người Mân. Chúng ta hiểu sao về những thông tin này ?

Tôi đặt giả thuyết từ bài viết của Phạm Lê Huy trong Tin đồn Đại Việt trên đất Tống: “hai vương triều Lý – Trần đã triển khai nhiều chính sách cụ thể nhằm hạn chế việc tiếp xúc, trao đổi với người nước ngoài, qua đó phòng ngừa gian tế, hạn chế việc rò rỉ thông tin cơ mật của quốc gia (…) một số biên lại của nhà Tống cũng đứng ra kiểm soát các nguồn thông tin về Đại Việt được đưa về chính quyền trung ương. Đây là môi trường thuận lợi cho sự hình thành của rất nhiều loại tin đồn, được thu thập một cách không chính thống về quốc gia Đại Việt trên đất Tống. Rất nhiều trong số đó được ghi chép lại trong các thư tịch của nhà Tống như Tốc thủy ký văn, Mộng khê bút đàm, Quế hải ngu hành chí, Lĩnh ngoại đại đáp (…) tin đồn, như bản chất vốn có của nó, thường rất khó xác định nguồn phát tán và độ chính xác. Trong nhiều trường hợp, tin đồn không phản ảnh một cách chính xác hiện thực, mà chỉ thể hiện nhận thức, hoặc mong muốn nhận thức của người sống vào thời đại đó (…) tin đồn về nguồn gốc Mân của Lý Thái Tổ bắt nguồn từ bối cảnh có một luồng di dân lớn từ Phúc Kiến sang Đại Việt, cũng như nhiều trí thức người Phúc Kiến đã được trọng dụng trong chính quyền nhà Lý.

Như đã trình bày ở phần trước, ở đây, chúng tôi không bàn sâu về vấn đề nguồn gốc Mân của Lý Thái Tổ, nhưng chúng tôi muốn lưu ý rằng chính nhà Lý cũng là một trung gian phát tán tin đồn, qua việc công khai lá thư của Từ Bá Tường xin làm nội ứng. Dù lá thư của Từ Bá Tường là thật hay giả, rõ ràng tin đồn về nguồn gốc Mân của Lý Thái Tổ và nhiều quí tộc nhà Lý đã được sử dụng để hợp lý hóa việc qui phục nhà Lý của Từ Bá Tường. Mặt khác, nhà Lý lại sử dụng lá thư này như một công cụ thông tin để mượn tay nhà Tống giết Từ Bá Tường, người đã lập công trong việc truy kích quân Lý sau trận Khâm – Liêm”.

Nếu như nhà Lý không phải là một trung gian phát tán tin đồn mà là nguồn phát tán tin đồn thì sao ? Nhà Lý muốn đánh lấy đất Tống, vậy lý do là gì đây ? Vì sao không nhân có việc người Mân xuất hiện nhiều tại An Nam mà mượn đó để khẳng định rằng: Tổ tiên vua Lý là người Mân, đất Mân (Chiết Giang) bị nhà Tống lấy (năm 971) nay con cháu người Mân lấy lại đất nên đánh Tống là hợp lẽ. Việc trọng vọng người Mân có chủ ý của nhà Lý có tới 4 cái lợi: Thứ nhất làm bằng chứng cho thấy tin đồn họ Lý đúng là người Mân, thứ hai là thu thập được những người tài giỏi của người Mân, thứ ba hạn chế được những cuộc nội loạn hay bị kích động từ kẻ thù bên ngoài đối với nhóm người Mân, thứ tư là khẳng định đối với những dân tộc thiểu số của nhà Tống (mà chủ yếu là người Tráng Nùng) thấy được tính nhân đức và công bằng của nhà Lý, tất vì thế mà theo về, ủng hộ nhà Lý trong cuộc chiến với nhà Tống.

Nếu đúng vậy thì khi nhận được bức thư của Tưởng gửi, có nhắc đến việc tổ tiên nhà Lý là người Mân, vua quan nhà Lý phải rất vui mừng vì như thế kế hoạch đã thành công và như thế cũng chỉ ra nhà Lý đã có những bước chuẩn bị cho cuộc tấn công vào đất Tống rất kỹ. Xã hội nói chung và xã hội nho giáo rất trọng tính chính danh, vì thế mà nhà Lý không chỉ dừng lại việc tung tin rằng: họ là người gốc Mân mà trong cuộc tấn công 3 châu của nhà Tống, nhà Lý còn cho rải khắp bài Phạt Tống lộ bố văn. Bài viết của tác giả Nguyễn Phúc Anh rất hay nhưng rõ ràng là chưa thể chứng minh thuyết phục rằng: Lí Công Uẩn người Mân (Chiết Giang).

  1. Tiếp cận văn bản Đâu là sự thật về tông tích của Lý Công Uẩn của Trần Viết Điền

Đâu là sự thật về tông tích của Lý Công Uẩn chép: “Sự kiện Lý Công Uẩn không có cha cụ thể, mà con của thần nhân, cùng với những câu thơ sấm kí ở làng Cổ Pháp,  rồi những điềm báo có thiên tử ra đời là biểu hiện của một cuộc vận động chính trị có tổ chức của giới trí thức tam giáo, đứng đầu là nhà sư đầy tài năng Vạn Hạnh, hoàn thành tâm nguyện trăm năm của quần chúng mà đại diện ban đầu là thiền sư Định Không của hương Diên Uẩn (…)

Khi đã lên ngôi, vua Lý Thái Tổ đã truy phong cha là Hiển Khánh vương và tôn tạo ngôi mộ của cha ở rừng Báng, không  xa  chùa Thiên Tâm và Dương Lôi,  được dân gian gọi là mộ Hiển Khánh Vương. Lại truy phong mẹ là Minh Đức Thái Hậu và cũng xây lăng cho mẹ trong rừng Báng. Do chưa tiện truy phong ông nội Lý Lãng Công [Lý Khuê], một vị sứ quân [thời thập nhị sứ quân] đã tử trận, nhưng sau đó truy phong bà nội làm hậu, ban tên thụy để cúng tế; thế thì bí mật truy phong ông nội là hoàng đế vậy. Lý Công Uẩn bí mật dựng mộ phần của ông nội Lý Lãng Công (mộ Hùng Công) và mộ của bà nội Phạm Thị Tiên (mộ Phạm quốc mẫu) ở Hoa Lâm.

Rõ ràng Lý Công Uẩn có người anh được ban tước Vũ Uy Vương, có em là Dực Thánh Vương. Lại có một người chú ruột còn sống và được phong Vũ Đạo Vương, con ông chú là Trung Hiển lại giứ chức Thái úy Lý triều. Như thế Lý công Uẩn có một gia tộc đàng hoàng, nhưng do ông nội là sứ quân Lý Lãng Công, bị Đinh Tiên Hoàng đánh bại và Triều Đinh, Tiền Lê tầm nã gắt gao con cháu Lý Lãng Công, gia đình của Lý Công Uẩn phải sống trong ly tán, bí mật. Nếu không có mối quan hệ huyết thống với sứ quân Lý Khuê thì bà con thân thuộc của thiền sư Vạn Hạnh chỉ cần đổi họ và sống bình thường, đằng này cha mẹ của Lý Công Uẩn phải kết hôn trong bí mật, sống trong rừng, chịu muôn vàn khó khăn và chết thảm!

Do cuộc  vận động nhằm đưa Lý Công Uẩn lên ngôi, họ Lý hương Cổ Pháp đã tạo ra huyền thoại cha con Lý Công Uẩn là con thần cháu thánh nên vẫn giữ bí mật mối quan hệ huyết tộc với Lý Khuê. Thôn Dương Đanh, làng Dương Xá được lệnh ngầm tế lễ sứ quân Lý Lãng Công và ở Thái Đường Hoa Lâm là nơi hiệp tế tiên tổ họ Lý, trong đó có ông nội Lý Khuê và bà nội Phạm Thị Tiên của Lý Thái Tổ (…) chúng tôi thử dựng một phổ hệ gia tộc Lý Công Uẩn và Quốc Sư Vạn Hạnh. Phả đồ giả thuyết về tông tích của Lý Công Uẩn, trong đó chọn thân phụ của Định Không thiền sư làm tổ họ Lý và phải chăng ngài tổ này là hậu duệ của Lý Tự Tiên, cùng khởi nghĩa với Đinh Kiến vào năm 687 ? Tạm xềp Định Không thuộc đời thứ nhất, ngang hàng ông cố của Lý Khuê.

Có khả năng đệ tử Thông Thiện cũng thuộc họ Lý, ngang đời với ông nội của Lý Khuê. Đệ tử Đinh La Quí An của Thông Thiện, người trị phép thuật của Cao Biền và trồng cây gạo lịch sử ở Dương Lôi là ngang đời với cha của Lý Khuê và là hậu duệ của Đinh Kiến. Họ Khúc từng khởi nghĩa và tự chủ, có hậu duệ là Khúc Lãm, được Trưởng lão Đinh La Quí An nhắc đến trong lời trối”.

Untitled.png

Bài viết của tác giả Trần Viết Điền có 2 gợi ý rất hay: thứ nhất là cuộc vận động chính trị của thiền sư Vạn Hạnh và phổ hệ họ Lý từ Lý Tự Tiên đến Lý Khuê đến Lý Công Uẩn. Cả 2 gợi ý này vốn đã được củng cố thêm vững chắc mà chúng ta đã bỏ qua trong bài viết Chữ trên đá chữ trên đồng của tác giả Hà Văn Tấn.

Chữ trên đá chữ trên đồng viết: “Sách Thiền uyển tập anh ngữ lục cho chúng ta biết khá hơn về một số nhà sư thế kỷ thứ X như La Quý An (chết năm 936), Pháp Thuận (chết năm 990), Ma Ha, Thiền Ông (chết năm 979), Vạn Hạnh (chết năm 1001) thuộc dòng thiền của Tì ni đa lưu chi (…) Tuy ở Hoa Lư vào thế kỷ thứ X có những kinh điển Mật giáo, chúng tôi vẫn nghĩ rằng bấy giờ không hẳn đã có những nhà sư Mật tông mà chính các nhà sư Thiền tông đã sử dụng những kinh điển đó. Theo chúng tôi, Thiền giáo chịu ảnh hưởng của Mật giáo (…) Mật tông khác hẳn với Thiền tông. Mật tông tiếp cận với Đạo giáo, chú trọng đến các nghi lễ tôn giáo thần bí (…) Theo Thiền uyển tập anh, đồ đệ của thiền sư Đỗ Pháp Thuận là sư Ma Ha đã tụng niệm những lời chú Đại bi tâm đà la ni (…) là một thần chú phổ biến của Mật tông (…) sư Vạn Hạnh chuyên học phép tam ma địa [Từ một cột kinh phật năm 973 vừa phát hiện ở Hoa Lư]

Năm 1987 (…)tìm thấy một quả chuông thời Ngô ở vãn chỉ thôn Nhật Tảo, xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội (…) Sau đây là toàn bộ bài minh trên chuông được chép lại theo sự đoán nhận của chúng tôi: “

Thôn Hạ Từ Liêm, huyện Giao chỉ, vào ngày 29 tháng Tư năm Mậu Thân niên hiệu Càn Hòa thứ 6 (tức ngày 9 tháng 6 năm 948), các đệ tử Vô pháp môn là đô xã chủ đại đức Đỗ Pháp Dao, xã phó Kim Huyền Ký (?), xã phán quan Lý Đạo Vinh, xã vụ Lý Huyền Tháo, đô giám Trần Huyền Đàm, lục sự Trần Pháp Tuyên, Trần Tiên Cao, cao công Đỗ Pháp Tính, Lý Khả Đạo, áp nha Lý Tề Cổ, Lý Thủ Sơ, đại đức Đỗ Tiên Liêu, Ngu Tiên Hưu, Lý Tiên Thọ, Trần Khả Lôi, Ngô Tiên Lữ, Phùng Thừa Tư, Trần Ngạn Ung, Lý Thiệu Vị, Phí Khuông Nhân thuộc hai phái Đạo giáo và Nho giáo, từ trong năm Giáp Thìn (tức năm 944) đã chung nhau góp tiền vẽ một bức tranh Thái Thượng tam tôn. Chưa đến năm, lại làm 6 chiếc phướn báu thứ quan, xong, làm cỗ chay mừng hoàn tất. Nay cùng đưa ra việc mua một quả chuông báu, nặng 15 cân, để cúng dàng mãi mãi. Nhưng bọn Đỗ Pháp Dao kính cẩn tu theo đại pháp cúa trời đấtđể báo đáp tứ ântam hữu, đều được lợi ích. Xin cho chúng nhân một hội, mang lục căn tam diệp, muôn vàn lỗi lầm, tắm gội duyên lành này, đều hy vọng được trường cửu. Chay mừng xong, ghi lại” (…)

Bài minh đề cập đến công việc của một tổ chức tôn giáo thời bấy giờ, gọi là xã. Ta đã gặp một xã như vậy trên chuông Thanh Mai thế kỷ thứ VIII tìm được ở huyện Thanh Oai, Hà Tây (Đinh Khắc Thuân và Đặng Kim Ngọc 1987). Xã ở chuông Thanh Mai tên là Tùy Hỉ xã, còn xã trên chuông thời Ngô thì không thấy chép tên. Nhưng có nhiều chức danh thì giống nhau giữa hai chuông như xã chủ, xã phó, xã phán quan, xã lục sự. Nhưng cũng có những chức danh chỉ thấy trên chuông Thanh Mai mà không thấy trên chuông thời Ngô, như xã chi khiển, xã bình chính, xã khổng mục (…)

Điều khác nhau quan trọng là xã trên chuông Thanh Mai thế kỷ VIII là một xã Phật giáo còn xã trẽn chuông thời Ngô là một xã Đạo giáo (…) Hãy chú ý đến tên cúa những người trong xã. Ta biết đấy không phải là tên húy mà chỉ là đạo hiệu hay pháp danh. Những pháp danh này thường bắt đầu bằng các từ Pháp, Huyền, Tiên, Đạo (…) Ta biết một đạo sĩ được nhắc đến thời Đinh Tiên Hoàng (năm 971) là Đặng Huyền Quang. Ông này họ Đặng, còn Huyền Quang hẳn là đạo hiệu, mà cũng bắt đầu với từ Huvền, như nhiều tên trên quả chuông thời Ngô (…)

Không rõ vào thời Ngô, ở Việt Nam đã có Đạo tạng thời Đường hay chưa. Chi biết rằng theo Vân níp thập thiêm (do Trương Quân Phòng đời Bắc Tông biên soạn) thì Đạo tạng chia thành 12 loại, trong đó có loại “Uy nghi” là các sách nói về trai pháp cũng như các khoa nghi. Như vậy, “uy nghi” là chi nghi lễ Đạo giáo. Điều này khiến ta liên tướng đến chức Sùng chân uy nghi mà Đinh Tiên Hoàng trao cho đạo sĩ Đặng Huyền Quang năm 971 (…) Như vậy, bên cạnh Phật giáo đã có bước phát triển trong thế kỷ X, Đạo giáo cũng đã có vị trí của nó. Chính vì thế mà Đinh Tiên Hoàng đã phải định tăng quan và đạo quan (….)

Chú: “Xã” ở đây không phải là “làng xã”, mà là một tổ chức tồn giáo. Trên chuông Thanh Mai thế kỷ VIII ở Hà Tây, ta đã gặp từ “xã” với nghĩa này (Xem Đinh Khắc Thuân và Đậng Kim Ngọc 1987). Đô xã chủ là người đứng đầu “xã” [Quả chuông thời Ngô với một số vấn đề lịch sử và đạo giáo]”

Như vậy chúng ta có thể hình dung tổng quan rằng: Đại Việt với 2 dòng thiền lớn là Tì ni đa lưu chi và Vô thông ngôn, trước sự ảnh hưởng lớn mạnh của Đạo giáo, các nhà sư đã đưa các yếu tố của Đạo gia vào trong Phật giáo, tạo nên bước ngoặt quan trọng trong lịch sử Phật giáo Việt Nam. Nên sử sách chép rằng sư Vạn Hạnh uyên thâm tam giáo cũng không phải là chép quá. Trước xã hội coi trọng Phật giáo [Đinh Liễn lấy đệm là Khuông giống như tên của Khuông Việt đại sư, lại dựng cả trăm cột đá khắc kinh phật. Lê Hoàn thì mời Khuông Việt đại sư và Pháp Thuận đại sư để tiếp sứ phương bắc. Vì sao vậy. Lý do chính là xã hội Đại Việt coi trọng Phật giáo và cũng vì tầng lớp tăng sư là tầng lớp giỏi chữ nghĩa, có kiến thức cổ kim gần như duy nhất ở thế kỷ thứ 10.

Những tầng lớp vua chúa tướng tá là những người giỏi võ nghệ nhưng chưa hẳn đã giỏi văn chương. Cho đến khi tuyển chọn quan lại thông qua thi cử thì một tầng lớp khác giỏi văn chương, thông kim bác cổ mới hình thành] sư Vạn Hạnh lại là người có uy tín bậc nhất nước Việt thời đó, thì sự vận động ủng hộ của ngài là rất quan trọng. Thêm vào đó bản thân Lý Công Uẩn cũng là người nắm giữ binh quyền, rất thân tín của vua. Nên việc Uẩn lên ngôi mà không có sự phản đối nào cũng là việc dễ hiểu. Nhưng vì sao sư Vạn Hạnh lại ủng hộ Công Uẩn. Đó là vì 2 vị này có mối quan hệ đặc biệt. Có thể tạm xác định đó là quan hệ thầy trò.

Việt sử lược là một tác phẩm khuyết danh thời nhà Trần chép: “Thái tổ. Tên húy là Uẩn, họ Nguyễn. Người Cổ Pháp, Bắc Giang. Mẹ họ Phạm. Sinh ngày 17 tháng 2 năm Thái Bình thứ 5. Thủa nhỏ thông minh sâu sắc, phong độ dáng vẻ rộng rãi, du học ở chùa Lục Tổ, thiền sư Vạn Hạnh thấy cho là khác lạ”.

Thiền uyển tập anh chép: “Thiền sư Vạn Hạnh (? – 1025). Chùa Lục tổ, làng Dịch bảng, phủ Thiên đức. Người Cổ pháp, họ Nguyễn. Gia đình đời đời thờ Phật. Thuở nhỏ Sư đã khác thường, gồm thông ba học nghiên cứu trăm luận, xem thường công danh. Năm 21 tuổi xuất gia, cùng với Ðịnh Huệ thờ Thiền Ông chùa Lục tổ làm thầy. Ngoài lúc hầu hạ, Sư học tập quên cả mệt mỏi (…) Hoàng đế Lê Ðại Hành hết lòng tôn kính Sư. Năm Thiên Phúc thứ 1 (980) tướng Tống là Hầu Nhân Bảo kéo quân sang cướp nước ta, đóng quân tại Cương giáp, Lãng sơn. Vua mời Sư đến, đem chuyện thắng bại ra hỏi (…) ngày Lý Thái Tổ lên ngôi, Sư ở tại chùa Lục tổ đã biết trước, bảo với người bác và người chú của vua”.

Chúng ta thấy rằng sư Vạn Hạnh và Công Uẩn đều là người họ Nguyễn làng Cổ Pháp. Công Uẩn lại theo học thầy Vạn Hạnh từ nhỏ. Nhưng rõ ràng là Công Uẩn không đi theo con đường của thầy mà lại trở thành tướng quân dưới trong triều đình nhà Lê. Có lẽ đúng như truyền thuyết kể: việc tiến thân của Công Uẩn có sự giúp đỡ rất lớn của sư Vạn Hạnh. Công Uẩn người họ Lý hay người họ Nguyễn ? Đây thực là việc rất khó bởi vì ngay tên họ Lý cũng là lấy theo họ của cha nuôi Lý Khánh Văn. Công Uẩn theo thấy Vạn Hạnh năm 7 tuổi, sau khi Uẩn lên ngôi, Vạn Hạnh vẫn còn sống. Vậy thì hẳn là Công Uẩn phải biết về gốc tích của mình thông qua thầy Vạn Hạnh. Nhưng Công Uẩn không có sự thay họ nào vậy thì rất có thể Công Uẩn đúng là người họ Lý.

Công Uẩn biết mẹ, biết bà nội nhưng cha và ông nội thì lại không biết ? Hay là có điều gì muốn giấu giếm ? Trần Viết Điền truy về Lý Khuê ? Và cho rằng: Sau thua trận, con cháu của Lý Khuê phải trốn chạy, ẩn nấp nên giấu tung tích về phía cha. Nhưng khi Công Uẩn lên ngôi rồi, thì còn cần gì phải dấu nữa ?

Nếu chúng ta để ý thì sẽ thấy trong bài minh khắc trên chuông đồng thời nhà Ngô, có rất nhiều nhân vật mang họ Lý. Chúng ta có thể kể ra như: xã phán quan Lý Đạo Vinh, xã vụ Lý Huyền Tháo, cao công Lý Khả Đạo, áp nha Lý Tề Cổ, Lý Thủ Sơ, đại đức Lý Tiên Thọ, Lý Thiệu Vị. Trước hết bài minh khắc năm 948 nghĩa là cách năm sinh của Lý Công Uẩn là 26 năm, tức là khoảng 1 thế hệ (ước tính từ 15 – 20 năm thì trai gái hôn phối). Tiếp đó, đây rõ ràng là 1 tổ chức Đạo giáo. Năm 944 (năm Ngô Quyền mất) tổ chức này có vẽ bức tranh Thái thượng tam tôn và làm 6 cái phướn báu thứ quan. Rõ ràng đây là một tổ chức khá mạnh. Cuối cùng theo như Hà Văn Tấn thì quả chuông (và rất có thể tổ chức này) có nguồn gốc ở huyện Từ Liên, Đan Phượng (Hà Nội) rất gần với Từ Sơn (Bắc Ninh) và sư Vạn Hạnh có liên quan tới Đạo giáo (nên rất có thể biết và có qua lại với tổ chức này).

untitled-2

[Bản đồ Từ Liêm (Hà Nội) và Từ Sơn (Bắc Ninh)]

Từ khóa » Cha Của Lý Công Uẩn Là Ai