Báo Cáo Tình Hình Kinh Tế – Xã Hội Quý IV Và Năm 2018

  1. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước

Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý IV năm 2018 ước tính tăng 7,31% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,90%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,65% và khu vực dịch vụ tăng 7,61%. Tăng trưởng quý IV/2018 thấp hơn tốc độ tăng quý IV/2017 nhưng cao hơn tăng trưởng quý IV các năm 2011-2016[1]. Xét về góc độ sử dụng GDP quý IV năm 2018, tiêu dùng cuối cùng tăng 7,51% so với cùng kỳ năm trước; tích lũy tài sản tăng 9,06%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 10,69%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 9,50%.

GDP cả năm 2018 tăng 7,08%, là mức tăng cao nhất kể từ năm 2008 trở về đây[2], khẳng định tính kịp thời và hiệu quả của các giải pháp được Chính phủ ban hành, chỉ đạo quyết liệt các cấp, các ngành, các địa phương cùng nỗ lực thực hiện. Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,76%, đóng góp 8,7% vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,85%, đóng góp 48,6%; khu vực dịch vụ tăng 7,03%, đóng góp 42,7%.

Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt mức tăng trưởng cao nhất trong giai đoạn 2012-2018[3], khẳng định xu thế chuyển đổi cơ cấu ngành đã phát huy hiệu quả, mặt khác giá bán sản phẩm ổn định cùng với thị trường xuất khẩu được mở rộng là động lực chính thúc đẩy sản xuất của khu vực này. Trong đó, ngành nông nghiệp tiếp tục khẳng định xu hướng phục hồi rõ nét khi đạt mức tăng 2,89%, là mức tăng cao nhất của giai đoạn 2012-2018[4], đóng góp 0,36 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành thủy sản đạt kết quả khá tốt với mức tăng 6,46%, đóng góp 0,22 điểm phần trăm; ngành lâm nghiệp tăng 6,01% nhưng chiếm tỷ trọng thấp nên chỉ đóng góp 0,05 điểm phần trăm.

Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp năm 2018 duy trì mức tăng trưởng khá với 8,79%, đóng góp 2,85 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục khẳng định là điểm sáng của khu vực này và là động lực chính của tăng trưởng với mức tăng cao 12,98%, tuy thấp hơn mức tăng của cùng kỳ năm 2017 nhưng cao hơn nhiều so với mức tăng các năm 2012-2016[5], đóng góp 2,55 điểm phần trăm. Ngành công nghiệp khai khoáng vẫn tăng trưởng âm (giảm 3,11%), làm giảm 0,23 điểm phần trăm mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế nhưng mức giảm đã được thu hẹp đáng kể so với mức giảm 7,1% của năm trước. Ngành xây dựng năm nay duy trì được mức tăng trưởng khá với tốc độ 9,16%, đóng góp 0,65 điểm phần trăm.

Khu vực dịch vụ năm nay tăng 7,03%, tuy thấp hơn mức tăng 7,44% của năm trước nhưng cao hơn so với các năm 2012-2016[6]. Trong khu vực dịch vụ, đóng góp của một số ngành có tỷ trọng lớn vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm năm 2018 như sau: Bán buôn và bán lẻ tăng 8,51% so với cùng kỳ năm trước, là ngành có tốc độ tăng cao nhất trong khu vực dịch vụ, cũng là ngành có đóng góp lớn nhất vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế (0,92 điểm phần trăm); hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 8,21%, đóng góp 0,53 điểm phần trăm; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 6,78%, đóng góp 0,29 điểm phần trăm; ngành vận tải, kho bãi tăng 7,85%, đóng góp 0,26 điểm phần trăm; hoạt động kinh doanh bất động sản tăng 4,33%, đóng góp 0,24 điểm phần trăm.

Quy mô nền kinh tế theo giá hiện hành đạt 5.535,3 nghìn tỷ đồng; GDP bình quân đầu người ước tính đạt 58,5 triệu đồng, tương đương 2.587 USD, tăng 198 USD so với năm 2017. Về cơ cấu nền kinh tế năm 2018, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 14,57% GDP; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 34,28%; khu vực dịch vụ chiếm 41,17%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 9,98% (cơ cấu tương ứng của năm 2017 là: 15,34%; 33,40%; 41,26%; 10,0%).

Xét về góc độ sử dụng GDP năm 2018, tiêu dùng cuối cùng tăng 7,17% so với năm 2017; tích lũy tài sản tăng 8,22%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 14,27%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 12,81%.

Chất lượng tăng trưởng kinh tế được cải thiện: Năm 2018, đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng GDP đạt 43,50%, bình quân 3 năm 2016-2018 đạt 43,29%, cao hơn nhiều so với mức bình quân 33,58% của giai đoạn 2011-2015. Năng suất lao động của toàn nền kinh tế theo giá hiện hành năm 2018 ước tính đạt 102 triệu đồng/lao động (tương đương 4.512 USD/lao động, tăng 346 USD so với năm 2017)[7]; năng suất lao động năm 2018 tăng 5,93% so với năm 2017, cao hơn nhiều mức tăng 5,29% của năm 2016 và xấp xỉ mức tăng 6,02% của năm 2017 do lực lượng lao động được bổ sung và số lao động có việc làm năm 2018 tăng cao.

Hiệu quả đầu tư được cải thiện với nhiều năng lực sản xuất mới bổ sung cho nền kinh tế. Chỉ số hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (Hệ số ICOR) giảm từ mức 6,42 năm 2016 xuống 6,11 năm 2017 và 5,97 năm 2018, bình quân giai đoạn 2016-2018 hệ số ICOR ở mức 6,17, thấp hơn so với hệ số 6,25 của giai đoạn 2011-2015.

  1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

a) Nông nghiệp

Diện tích lúa cả năm 2018 ước tính đạt 7,57 triệu ha, giảm 134,8 nghìn ha so với năm trước; năng suất lúa ước tính đạt 58,1 tạ/ha, tăng 2,6 tạ/ha; sản lượng lúa cả năm ước tính đạt 43,98 triệu tấn, tăng 1,24 triệu tấn so với năm 2017.

Vụ đông xuân năm nay, cả nước gieo cấy được 3,1 triệu ha lúa, giảm 15 nghìn ha so với vụ đông xuân năm trước; năng suất lúa đạt 66,4 tạ/ha, tăng 4,1 tạ/ha; sản lượng đạt 20,6 triệu tấn, tăng 1,19 triệu tấn.

Vụ lúa hè thu năm nay cả nước gieo cấy được 2,05 triệu ha, giảm 0,7% so với năm 2017; năng suất đạt 54,6 tạ/ha, tăng 0,6%; sản lượng đạt 11,21 triệu tấn, giảm 0,1%. Năng suất lúa hè thu của vùng Đồng bằng sông Cửu Long năm nay ước tính đạt 54,8 tạ/ha, tăng 0,3 tạ/ha; sản lượng đạt 8,8 triệu tấn, tăng 15,1 nghìn tấn. Diện tích lúa thu đông tại Đồng bằng sông Cửu Long năm nay ước tính đạt 732,1 nghìn ha, giảm 78,1 nghìn ha so với năm 2017; năng suất ước tính đạt 53,2 tạ/ha, tăng 0,9 tạ/ha; sản lượng đạt 3,9 triệu tấn, giảm 343,2 nghìn tấn. Vụ mùa năm nay cả nước gieo cấy được 1,68 triệu ha, giảm 28,1 nghìn ha so với vụ mùa năm trước; năng suất ước tính đạt 49,1 tạ/ha, tăng 3,2 tạ/ha; sản lượng ước tính đạt 8,26 triệu tấn, tăng 403 nghìn tấn.

Tính đến tháng 12/2018, đàn trâu cả nước giảm 2,8% so với cùng kỳ năm trước; đàn bò tăng 2,7%; đàn lợn tăng 3,2%; đàn gia cầm tăng 6,1%. Sản lượng thịt hơi các loại năm nay đạt khá, trong đó sản lượng thịt trâu đạt 92,1 nghìn tấn, tăng 4,7% so với năm trước; sản lượng thịt bò đạt 334,5 nghìn tấn, tăng 4%; sản lượng thịt lợn đạt 3,8 triệu tấn, tăng 2,2%; sản lượng thịt gia cầm đạt 1,1 triệu tấn, tăng 6,4%; trứng gia cầm đạt 11,6 tỷ quả, tăng 9,5%; sản lượng sữa bò cả năm 2018 đạt 936 nghìn tấn, tăng 6,2%. Tính đến thời điểm 26/12/2018, cả nước không còn dịch tai xanh trên lợn; dịch cúm gia cầm còn ở Quảng Ninh; dịch lở mồm long móng còn ở Bắc Ninh, Hà Nội.

b) Lâm nghiệp

Năm 2018, diện tích rừng trồng tập trung của cả nước ước tính đạt 238,6 nghìn ha, giảm 1,2% so với năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 85,8 triệu cây, giảm 0,3%; sản lượng củi khai thác đạt 23,7 triệu ste, giảm 1,2%; sản lượng gỗ khai thác ước tính đạt 12,8 triệu m3, tăng 9,6%. Diện tích rừng bị thiệt hại năm 2018 là 1.283,3 ha, giảm 17,8% so với năm trước, trong đó diện tích rừng bị cháy là 739,1 ha, tăng 41,7%; diện tích rừng bị chặt phá là 544,2 ha, giảm 47,6%.

c) Thủy sản

Sản lượng thuỷ sản quý IV/2018 ước tính đạt 2.106,4 nghìn tấn, tăng 6,4% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung cả năm, tổng sản lượng thuỷ sản ước tính đạt 7.756,5 nghìn tấn, tăng 6,1% so với năm trước, trong đó sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 4.153,8 nghìn tấn, tăng 6,7%; sản lượng thủy sản khai thác đạt 3.602,7 nghìn tấn, tăng 5,3%.

  1. Sản xuất công nghiệp

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) năm 2018 ước tính tăng 10,2% so với năm trước (quý I tăng 12,7%, quý II tăng 8,2%, quý III tăng 10,7% và quý IV tăng 9,4%), thấp hơn mức tăng 11,3% của năm 2017, trong đó ngành chế biến, chế tạo tiếp tục đóng vai trò chủ chốt, thúc đẩy tăng trưởng chung của toàn ngành với mức tăng 12,3%, đóng góp 9,5 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 10%, đóng góp 0,9 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,3%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 2% (chủ yếu do khai thác dầu thô giảm 11,3%), làm giảm 0,3 điểm phần trăm mức tăng chung.

Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo năm 2018 tăng 12,4% so với năm trước (năm 2017 tăng 10,2%). Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 31/12/2018 tăng 8,3% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 14,1% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm 2017 tăng 9,5%); tỷ lệ tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo bình quân năm 2018 là 64,4%, đạt mức tồn kho thấp nhất trong những năm gần đây[8].

  1. Hoạt động của doanh nghiệp

a) Tình hình đăng ký doanh nghiệp[9]

Trong năm 2018, cả nước có 131,3 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 1.478,1 nghìn tỷ đồng, tăng 3,5% về số doanh nghiệp và tăng 14,1% về số vốn đăng ký so với năm 2017; vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới đạt 11,3 tỷ đồng, tăng 10,2%. Nếu tính cả 2.408,8 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm của các doanh nghiệp thay đổi tăng vốn thì tổng số vốn đăng ký bổ sung thêm vào nền kinh tế trong năm nay là 3.886,9 nghìn tỷ đồng. Bên cạnh đó, còn có 34.010 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 28,6% so với năm trước, nâng tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong năm 2018 lên gần 165,3 nghìn doanh nghiệp. Tổng số lao động đăng ký của các doanh nghiệp thành lập mới năm 2018 là 1.107,1 nghìn người, giảm 4,7% so với năm trước. Trong năm nay, số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động là 90.651 doanh nghiệp, tăng 49,7% so với năm trước, bao gồm 27.126 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 25,1% và 63.525 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động không đăng ký hoặc chờ giải thể, tăng 63,4%[10]; số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể là 16.314 doanh nghiệp, tăng 34,7%.

b) Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp

Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý VI/2018 cho thấy: Có 44,7% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh quý IV năm nay tốt hơn quý trước; 16,9% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn và 38,4% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định. Dự kiến quý I/2019 so với quý IV/2018, có 47,3% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên; 14,9% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn và 37,8% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định.

  1. Hoạt động dịch vụ

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2018 ước tính đạt 4.395,7 nghìn tỷ đồng, tăng 11,7% so với năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá tăng 9,4% (năm 2017 tăng 9,3%).

Vận tải hành khách năm 2018 đạt 4.641,5 triệu lượt khách, tăng 10,7% so với năm trước và 207,1 tỷ lượt khách.km, tăng 10,9%. Vận tải hàng hóa năm 2018 đạt 1.634,7 triệu tấn, tăng 10% so với năm trước và 306,4 tỷ tấn.km, tăng 7,6%.

Doanh thu lĩnh vực viễn thông năm 2018 ước tính đạt 395,8 nghìn tỷ đồng, tăng 7,3% so với năm 2017. Khách quốc tế đến nước ta trong năm 2018 ước tính đạt 15,5 triệu lượt người, tăng 19,9% so với năm trước (tăng 2,6 triệu lượt khách).

  1. Hoạt động ngân hàng, bảo hiểm

Tính đến thời điểm 20/12/2018, tổng phương tiện thanh toán tăng 11,34% so với cuối năm 2017 (cùng kỳ năm 2017 tăng 14,19%); huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 11,56% (cùng kỳ năm 2017 tăng 14,5%); tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 13,30% (cùng kỳ năm trước tăng 16,96).

Doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường năm 2018 ước tính đạt 133,7 nghìn tỷ đồng, tăng 24% so với năm trước, trong đó bảo hiểm nhân thọ đạt 88 nghìn tỷ đồng, tăng 32,8%; bảo hiểm phi nhân thọ đạt 45,7 nghìn tỷ đồng, tăng 9,9%.

  1. Đầu tư

Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2018 theo giá hiện hành ước tính đạt 1.856,6 nghìn tỷ đồng, tăng 11,2% so với năm trước và bằng 33,5% GDP, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước đạt 619,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 33,3% tổng vốn và tăng 3,9% so với năm trước; khu vực ngoài Nhà nước đạt 803,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 43,3% và tăng 18,5%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 434,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 23,4% và tăng 9,6%.

Đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến thời điểm 20/12/2018 thu hút 3.046 dự án cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 17.976,2 triệu USD, tăng 17,6% về số dự án và giảm 15,5% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2017. Bên cạnh đó, có 1.169 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt 7.596,7 triệu USD, giảm 9,7% so với cùng kỳ năm trước. Như vậy, tổng số vốn đăng ký cấp mới và vốn tăng thêm trong năm 2018 đạt 25.572,9 triệu USD, giảm 13,9% so với cùng kỳ năm 2017. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện năm 2018 ước tính đạt 19,1 tỷ USD, tăng 9,1% so với năm 2017. Trong năm 2018 còn có 6.496 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị góp vốn là 9,89 tỷ USD, tăng 59,8% so với cùng kỳ năm 2017, trong đó có 1.113 lượt góp vốn, mua cổ phần làm tăng vốn điều lệ của doanh nghiệp với giá trị vốn góp là 4,25 tỷ USD và 5.383 lượt nhà đầu tư nước ngoài mua lại cổ phần trong nước mà không làm tăng vốn điều lệ với giá trị 5,64 tỷ USD.

Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài trong năm 2018 có 149 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn của phía Việt Nam là 376,2 triệu USD; 35 dự án điều chỉnh vốn với số vốn tăng thêm là 56 triệu USD. Tính chung tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và tăng thêm) năm 2018 đạt 432,2 triệu USD.

8. Thu, chi ngân sách Nhà nước

Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/12/2018 ước tính đạt 1.272,5 nghìn tỷ đồng, bằng 96,5% dự toán năm, trong đó thu nội địa 1.012,3 nghìn tỷ đồng, bằng 92,1%; thu từ dầu thô 59,4 nghìn tỷ đồng, bằng 165,5%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu 195,9 nghìn tỷ đồng, bằng 109,4%.

Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/12/2018 ước tính đạt 1.272,1 nghìn tỷ đồng, bằng 83,5% dự toán năm, trong đó chi thường xuyên đạt 874,5 nghìn tỷ đồng, bằng 93%; chi đầu tư phát triển 260,2 nghìn tỷ đồng, bằng 65,1%; chi trả nợ lãi 102,2 nghìn tỷ đồng, bằng 90,8%.

  1. Xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ

a) Xuất khẩu hàng hóa

Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu thực hiện tháng 11/2018 đạt 21.747 triệu USD, cao hơn 147 triệu USD so với số ước tính. Ước tính tháng 12, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 21,00 tỷ USD, giảm 3,4% so với tháng trước và tăng 6,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong quý IV năm 2018, kim ngạch xuất khẩu đạt 65,26 tỷ USD, tăng 8,6% so với cùng kỳ năm 2017 và giảm nhẹ 0,03% so với quý III năm nay. Tính chung cả năm 2018, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 244,72 tỷ USD, tăng 13,8% so với năm 2017, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 69,20 tỷ USD, tăng 15,9%, chiếm 28,3% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 175,52 tỷ USD, tăng 12,9%, chiếm 71,7% (giảm 0,6 điểm phần trăm so với năm 2017). Loại trừ yếu tố giá, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu năm 2018 tăng 12,7% so với năm 2017.    

Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu thực hiện tháng 11/2018 đạt 21.594 triệu USD, thấp hơn 406 triệu USD so với số ước tính. Ước tính tháng 12, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt 21,20 tỷ USD, giảm 1,8% so với tháng trước và tăng 5,3% so với cùng kỳ năm trước. Kim hàng hóa ngạch nhập khẩu quý IV/2018 đạt 64,37 tỷ USD, tăng 11,2% so với cùng kỳ năm 2017 và tăng 3,3% so với quý III năm 2018. Tính chung cả năm 2018, kim ngạch hàng hoá nhập khẩu ước tính đạt 237,51 tỷ USD, tăng 11,5% so với năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 94,80 tỷ USD, tăng 11,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 142,71 tỷ USD, tăng 11,6%. Nếu loại trừ yếu tố giá, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu cả năm tăng 9,5% so với năm 2017.

Kim ngạch xuất khẩu tăng nên cán cân thương mại tháng Mười Một xuất siêu 153 triệu USD[11]; tháng Mười Hai ước tính nhập siêu 200 triệu USD. Tính chung cả năm 2018 tiếp tục xuất siêu 7,2 tỷ USD[12], trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 25,6 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 32,8 tỷ USD. Năm 2018, khu vực kinh tế trong nước chuyển biến tích cực khi đạt tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cao hơn khu vực có vốn đầu tư nước ngoài với tỷ trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu tăng lên so với năm 2017[13].

b) Xuất, nhập khẩu dịch vụ

Kim ngạch xuất khẩu dịch vụ năm 2018 ước tính đạt 14,8 tỷ USD, tăng 13,2% so với năm 2017, trong đó dịch vụ du lịch đạt 10,1 tỷ USD (chiếm 68,1% tổng kim ngạch), tăng 13,4%; dịch vụ vận tải đạt 2,9 tỷ USD (chiếm 19,5%), tăng 14,6%. Kim ngạch nhập khẩu dịch vụ năm 2018 ước tính đạt 18,5 tỷ USD, tăng 8,1% so với năm trước, trong đó dịch vụ vận tải đạt 8,8 tỷ USD (chiếm 47,8% tổng kim ngạch), tăng 7,5%; dịch vụ du lịch đạt 5,7 tỷ USD (chiếm 31%), tăng 13,7%. Nhập siêu dịch vụ trong năm 2018 là 3,7 tỷ USD, bằng 24,9% kim ngạch xuất khẩu dịch vụ.

  1. Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và đô la Mỹ

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12/2018 giảm 0,25% so với tháng trước. Tính chung quý IV/2018, CPI tăng 0,6% so với quý trước và tăng 3,44% so với quý IV/2017. CPI bình quân năm 2018 tăng 3,54% so với năm 2017, dưới mục tiêu Quốc hội đề ra. CPI tháng 12/2018 tăng 2,98% so với tháng 12/2017, bình quân mỗi tháng tăng 0,25%.

Lạm phát cơ bản tháng 12/2018 tăng 0,09% so với tháng trước và tăng 1,7% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản bình quân năm 2018 tăng 1,48% so với bình quân năm 2017.

Chỉ số giá vàng tháng 12/2018 tăng 0,41% so với tháng trước; giảm 0,41% so với cùng kỳ năm 2017; bình quân năm 2018 tăng 2,36% so với năm 2017. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 12/2018 giảm 0,07% so với tháng trước và tăng 2,69% so với cùng kỳ năm 2017; bình quân năm 2018 tăng 1,29% so với năm 2017.

  1. Một số tình hình xã hội a) Dân số, lao động và việc làm

Dân số trung bình năm 2018 của cả nước ước tính 94,67 triệu người, bao gồm dân số thành thị 33,83 triệu người, chiếm 35,7%; dân số nông thôn 60,84 triệu người, chiếm 64,3%; dân số nam 46,79 triệu người, chiếm 49,4%; dân số nữ 47,88 triệu người, chiếm 50,6%.

Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước năm 2018 ước tính là 55,4 triệu người, tăng 566,2 nghìn người so với năm 2017; lực lượng lao động trong độ tuổi lao động ước tính là 48,7 triệu người, tăng 549,8 nghìn người so với năm trước.

Lao động 15 tuổi trở lên đang làm việc năm 2018 là 54,3 triệu người, bao gồm 20,7 triệu người đang làm việc ở khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, chiếm 38,1% tổng số; khu vực công nghiệp và xây dựng 14,4 triệu người, chiếm 26,6%; khu vực dịch vụ 19,2 triệu người, chiếm 35,3%.

Tính chung năm 2018, tỷ lệ thất nghiệp chung của cả nước ước tính là 2,0%, trong đó khu vực thành thị là 2,95%; khu vực nông thôn là 1,55%. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi là 2,19%, trong đó khu vực thành thị là 3,1%; khu vực nông thôn là 1,74%. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (từ 15-24 tuổi) ước tính là 7,06%, trong đó khu vực thành thị là 10,56%; khu vực nông thôn là 5,73%. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi ước tính là 1,46%, trong đó tỷ lệ thiếu việc làm khu vực thành thị là 0,69%; tỷ lệ thiếu việc làm khu vực nông thôn là 1,85%.

b) Năng suất lao động

Năng suất lao động toàn nền kinh tế theo giá hiện hành năm 2018 ước tính đạt 102 triệu đồng/lao động (tương đương khoảng 4.512 USD/lao động). Tính theo giá so sánh năm 2010, năng suất lao động toàn nền kinh tế năm 2018 tăng 5,93% so với năm 2017, bình quân giai đoạn 2011-2018 tăng 4,87%/năm.

c) Đời sống dân cư và bảo đảm an sinh xã hội

Đời sống dân cư năm nay nhìn chung được cải thiện. Thu nhập bình quân một người một tháng năm 2018 ước tính đạt 3,76 triệu đồng (tăng 660 nghìn đồng so với năm 2016), bình quân giai đoạn 2016-2018 tăng 10,2%/năm. Tỷ lệ hộ nghèo theo tiếp cận đa chiều năm 2018 ước tính 6,8%, giảm 1,1 điểm phần trăm so với năm 2017. Năm 2018, cả nước có 105 nghìn lượt hộ thiếu đói, giảm 42,1% tương ứng với 420 nghìn lượt nhân khẩu thiếu đói, giảm 43,7%. Thiếu đói tập trung chủ yếu vào các tháng đầu năm, trong đó tháng Hai có 34,4 nghìn hộ thiếu đói, tương ứng với 129,3 nghìn nhân khẩu thiếu đói, tháng Năm có 31,5 nghìn hộ thiếu đói, tương ứng với 131,5 nghìn nhân khẩu thiếu đói. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, từ đầu năm, các cấp, các ngành, các tổ chức từ Trung ương đến địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 7,4 nghìn tấn lương thực và hơn 1,6 tỷ đồng.

Tổng kinh phí dành cho hoạt động an sinh xã hội và giảm nghèo trong năm 2018 là 4.977 tỷ đồng, bao gồm 2.792 tỷ đồng quà thăm hỏi và hỗ trợ các đối tượng chính sách; 1.487 tỷ đồng hỗ trợ các hộ nghèo và 698 tỷ đồng cứu đói, cứu trợ xã hội khác. Bên cạnh đó, đã có gần 23,6 triệu thẻ bảo hiểm y tế, sổ/thẻ khám chữa bệnh miễn phí được phát tặng cho các đối tượng chính sách trên địa bàn cả nước.

d) Thiệt hại do thiên tai

Thiên tai xảy ra trong năm 2018 chủ yếu là ảnh hưởng của mưa lớn, lũ quét, ngập lụt và sạt lở đất. Thiệt hại do thiên tai năm 2018 đã giảm hơn rất nhiều so với năm 2017, thiên tai làm 218 người chết, mất tích và 157 người bị thương; hơn 120 nghìn ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi, ngập nước và hư hỏng; hơn 260 nghìn ha lúa và hoa màu bị hư hỏng. Tổng giá trị thiệt hại do thiên tai năm 2018 ước tính 15,7 nghìn tỷ đồng, giảm 73,8% so với năm 2017.

Khái quát lại, kinh tế – xã hội nước ta năm 2018 tiếp tục khởi sắc với tăng trưởng GDP đạt mức cao nhất trong 8 năm qua. Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực; chất lượng tăng trưởng được cải thiện. Sản xuất nông nghiệp đạt kết quả khá; công nghiệp chế biến, chế tạo và dịch vụ thị trường tiếp tục tăng cao, giữ vững vai trò là động lực tăng trưởng. Thực hiện vốn đầu tư phát triển hiệu quả hơn với nhiều năng lực sản xuất mới được bổ sung cho nền kinh tế. Môi trường kinh doanh đang ngày càng cải thiện. Tiêu dùng tăng cao, xuất khẩu và thu hút khách du lịch quốc tế đạt khá. Tình hình giải quyết việc làm và an sinh xã hội được quan tâm thực hiện. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, nền kinh tế vẫn còn những tồn tại, thách thức: Quá trình cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng có chuyển biến nhưng còn chậm; năng suất lao động còn thấp, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao. Biến đổi khí hậu, thiên tai, bão, lũ, dịch bệnh diễn biến phức tạp có thể ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp và đời sống của nhân dân. Để hoàn thành tốt mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế – xã hội năm 2019, các cấp, các ngành và địa phương phải nhận thức đúng và đầy đủ những khó khăn, thách thức phía trước để kịp thời có các giải pháp khắc phục ngay từ những ngày đầu, tháng đầu của năm 2019./.

TỔNG CỤC THỐNG KÊ

[1] Tăng trưởng GDP quý IV một số năm: Năm 2011 tăng 6,71%; năm 2012 tăng 5,57%; năm 2013 tăng 6,05%; năm 2014 tăng 6,96%; năm 2015 tăng 7,01%; năm 2016 tăng 6,68%; năm 2017 tăng 7,65%; năm 2018 tăng 7,31%.

[2] Tăng trưởng GDP một số năm: Năm 2008 tăng 5,66%, năm 2009 tăng 5,4%; năm 2010 tăng 6,42%; năm 2011 tăng 6,24%; năm 2012 tăng 5,25%; năm 2013 tăng 5,42%; năm 2014 tăng 5,98%; năm 2015 tăng 6,68%; năm 2016 tăng 6,21%; năm 2017 tăng 6,81%; năm 2018 tăng 7,08%.

[3] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản một số năm: Năm 2012 tăng 2,92%; năm 2013 tăng 2,63%; năm 2014 tăng 3,44%; năm 2015 tăng 2,41%; năm 2016 tăng 1,36%; năm 2017 tăng 2,90%; năm 2018 tăng 3,76%.

[4] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm ngành nông nghiệp một số năm: Năm 2012 tăng 2,57%; năm 2013 tăng 2,19%; năm 2014 tăng 2,51%; năm 2015 tăng 2,03%; năm 2016 tăng 0,72%; năm 2017 tăng 2,07%; năm 2018 tăng 2,89%.

[5] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo của một số năm: Năm 2012 tăng 9,05%; năm 2013 tăng 7,22%; năm 2014 tăng 7,41%; năm 2015 tăng 10,60%; năm 2016 tăng 11,90%; năm 2017 tăng 14,40%; năm 2018 tăng 12,98%.

[6] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm khu vực dịch vụ của một số năm: Năm 2012 tăng 6,71%; năm 2013 tăng 6,72%; năm 2014 tăng 6,16%; năm 2015 tăng 6,33%; năm 2016 tăng 6,98%; năm 2017 tăng 7,44%; năm 2018 tăng 7,03%.

[7] Năng suất lao động năm 2017 đạt 4.166 USD/lao động, tăng 314 USD so với năm 2016.

[8] Tỷ lệ tồn kho các năm 2016-2018 lần lượt là: 65,4%; 65,9% và 64,4%.

[9] Nguồn: Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

[10] Số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động không đăng ký hoặc chờ giải thể tăng cao trong đó có nguyên nhân từ tháng 4/2018 các phòng đăng ký kinh doanh trên cả nước đang rà soát, chuẩn hóa dữ liệu, loại bỏ các doanh nghiệp không còn hoạt động trong thời gian dài.

[11] Ước tính tháng Mười Một nhập siêu 400 triệu USD.

[12] Trong đó, cả năm 2018 xuất siêu sang EU đạt 28,7 tỷ USD, tăng 10% so với năm trước; nhập siêu từ Hàn Quốc 29,6   tỷ USD, giảm 7,8%; nhập siêu từ Trung Quốc 23,9 tỷ USD, tăng 3%; nhập siêu từ ASEAN 7,3 tỷ USD, tăng 10,9%.

[13] Năm 2017, kim ngạch xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước tăng 18,5% so với năm trước, chiếm 27,7% tổng kim ngạch xuất khẩu;  khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 23,1%, chiếm 72,3%.

Từ khóa » Chỉ Số Gdp Của Việt Nam Năm 2018