Báo Cáo Về Dự Thảo Hiến Pháp Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa ...

  • Trang chủ
  • C. Mác; Ph. Ăngghen; V. I. Lênin; Hồ Chí Minh
  • Lãnh đạo Đảng, Nhà nước
  • Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương
  • Các Ban Đảng Trung ương
  • Các Đảng bộ trực thuộc Trung ương
  • Tư liệuvăn kiện Đảng
  • Hệ thống văn bản
  • Hồ sơ - Sự kiện Nhân chứng
Chủ Nhật, 24/11/2024 Hội nghị BCH Trung ương
  • Khóa I
  • |
  • Khóa II
  • |
  • Khóa III
  • |
  • Khóa IV
  • |
  • Khóa V
  • |
  • Khóa VI
  • |
  • Khóa VII
  • |
  • Khóa VIII
  • |
  • Khóa IX
  • |
  • Khóa X
  • |
  • Khóa XI
  • |
  • Khóa XII
  • |
  • Khóa XIII
Báo cáo về dự thảo Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam do đồng chí Chủ tịch Quốc hội Trường Chinh trình bày*

Thưa các đồng chí, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam họp kỳ này để nghe báo cáo về Dự thảo Hiến pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cho ý kiến về bản Dự thảo và quyết định những việc phải làm để bảo đảm cho Hiến pháp mới được thi hành nghiêm chỉnh, sau khi đã được Quốc hội thông qua, đưa đất nước tiến lên giành những thắng lợi to lớn hơn nữa trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta họp giữa lúc toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phấn khởi kỷ niệm Quốc khánh lần thứ 35 và chào mừng thành công tuyệt vời của chuyến bay vũ trụ Việt - Xô đầu tiên, một biểu hiện rực rỡ của tình hữu nghị thắm thiết và sự hợp tác toàn diện giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Liên Xô anh em. Từ tháng 7 năm 1976 dưới sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, Uỷ ban Dự thảo Hiến pháp của Quốc hội ta đã xây dựng Dự thảo Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, với sự tham gia tích cực của cán bộ và nhân dân cả nước và sự cộng tác của nhiều ngành, nhiều cơ quan. Đến nay Dự thảo Hiến pháp đã hoàn thành, tôi xin báo cáo để Trung ương xem xét. Báo cáo của tôi gồm có bốn phần: I- Sự cần thiết phải có Hiến pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và phương châm, nguyên tắc xây dựng Hiến pháp đó. II- Nội dung cơ bản của Dự thảo Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. III- Cuộc thảo luận Dự thảo Hiến pháp trong cán bộ và nhân dân. IV- Những việc phải làm để bảo đảm cho Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thi hành nghiêm chỉnh. I sự cần thiết phải có hiến pháp của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và phương châm, nguyên tắc xây dựng hiến pháp đó Thưa các đồng chí, Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một văn bản quan trọng của Nhà nước tổng kết những thành quả cách mạng đã đạt được và vạch phương hướng đưa nước ta tiến lên. Nó thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng trong giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam, quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội của nước ta, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu tổ chức và nguyên tắc hoạt động của các cơ quan nhà nước từ trung ương đến cơ sở, v.v.. Hiến pháp là luật cơ bản của nước nhà. 1. Vì sao nước ta phải có Hiến pháp mới? Từ khi Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thông qua Hiến pháp hiện hành đến nay, tình hình nước ta đã có nhiều biến đổi sâu sắc. Hồi đó (1959) đất nước còn bị chia làm hai miền. Miền Bắc mới bước vào thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Miền Nam còn bị đế quốc Mỹ và tay sai thống trị, nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chưa hoàn thành. Năm 1975, khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, ở miền Bắc khu vực kinh tế xã hội chủ nghĩa (bao gồm kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể) đã chiếm 85% giá trị sản lượng công nông nghiệp. Khu vực kinh tế cá thể của những người sản xuất nhỏ chỉ chiếm 15% và khu vực kinh tế tư bản chủ nghĩa tư doanh đã được cải tạo hoàn toàn. Ngoại thương do Nhà nước độc quyền. Thị trường có tổ chức chiếm 75% tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ xã hội. Về phát triển kinh tế, trong thời gian 16 năm (1959-1975), vừa sản xuất vừa chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai, nhân dân ta đã đạt được những thành tựu đáng kể. Giá trị sản lượng công nghiệp tăng 300%; giá trị sản lượng nông nghiệp tăng 20%. Tình hình thực tế trên đây cho phép ta kết luận: năm 1975 khi miền Nam giải phóng mới bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thì ở miền Bắc,hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa đã giành được thắng lợi cơ bản. Năm 1959, kinh tế miền Bắc gồm năm thành phần: kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế công tư hợp doanh, kinh tế tư bản chủ nghĩa tư doanh và kinh tế cá thể của những người sản xuất nhỏ; nay còn ba thành phần: kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể và kinh tế cá thể, trong đó kinh tế xã hội chủ nghĩa (kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể) giữ địa vị thống trị và kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Quyền sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất đã được xác lập; chế độ người bóc lột người căn bản đã bị xoá bỏ; cơ sở vật chất và kỹ thuật được tiếp tục tăng cường. Đó là nền tảng vững chắc cho sự nghiệp cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước. Năm 1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh giành được thắng lợi vĩ đại đánh dấu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ ở miền Nam. Nước nhà thống nhất về mặt Nhà nước. Thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã tác động mạnh đến miền Nam hoàn toàn giải phóng. Trong 5 năm qua, tình hình miền Nam đã biến đổi nhiều. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, miền Nam bước vào giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, cùng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Năm 1979, khu vực kinh tế xã hội chủ nghĩa đã chiếm 72% về giá trị sản lượng công nghiệp, riêng kinh tế quốc doanh chiếm 51%. Các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp đã thu hút 21,2% số hộ nông dân lao động trong miền1. Tính trong cả nước, đến năm 1979, khu vực kinh tế xã hội chủ nghĩa đã chiếm xấp xỉ 70% giá trị sản lượng công nông nghiệp, riêng kinh tế quốc doanh chiếm 37,3%; khu vực kinh tế phi xã hội chủ nghĩa chiếm 30%, trong đó phần lớn là kinh tế cá thể của người sản xuất nhỏ, còn lại là khu vực kinh tế tư bản chủ nghĩa tư doanh. Năm 1979 so với năm 1975, giá trị sản lượng công nghiệp tăng 28%, nông nghiệp tăng 14%. Những biến đổi về số lượng và chất lượng trên đây đã nói lên cái gì? 1. Tuy trình độ phát triển của hai miền nước ta có khác nhau, nhưng hiện nay thực tế hai miền đang cùng làm cách mạng xã hội chủ nghĩa và quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Miền Bắc đang hoàn thiện và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; miền Nam đang đẩy mạnh công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa; cả nước đang ra sức xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa nền kinh tế quốc dân. 2. Những biến đổi về kinh tế đã dẫn đến những biến đổi về thành phần giai cấp, về vị trí và chức năng của mỗi giai cấp trong xã hội ta: Giai cấp công nhân phát triển nhanh; đến nay đã xấp xỉ 1 phần 10 số dân; tỷ lệ công nhân công nghiệp tăng. Từ chỗ là nô lệ làm thuê của đế quốc và tư bản, giai cấp công nhân đã thực tế làm chủ các xí nghiệp, công trường, nông trường, các phương tiện giao thông vận tải chủ yếu, v.v. và đã sản xuất ra của cải vật chất chiếm đến non một nửa tổng sản phẩm xã hội. Giai cấp nông dân đã trở thành nông dân tập thể ở miền Bắc và đang trở thành nông dân tập thể ở miền Nam. Từ chỗ bị đế quốc và phong kiến áp bức, bóc lột thậm tệ và sản xuất riêng lẻ với công cụ hết sức thô sơ trên những mảnh đất manh mún, giai cấp nông dân nước ta đã và đang làm chủ tập thể đồng ruộng, sản xuất theo lối hợp tác và bước đầu sử dụng những phương tiện kỹ thuật hiện đại. Giá trị sản lượng nông nghiệp do nông dân tập thể làm ra đã chiếm 56,5% tổng giá trị sản lượng nông nghiệp nước ta1. Tầng lớp trí thức đã và đang biến đổi sâu sắc. ở miền Bắc, năm 1959, số cán bộ khoa học, kỹ thuật và nghiệp vụ đã tốt nghiệp đại học và trung học chuyên nghiệp mới có 6.630 người, năm 1975 đã có 356.000 người; cả nước năm 1975 đã có 460.000 người, năm 1979 có 720.000 người. Trí thức miền Bắc chủ yếu xuất thân từ giai cấp công nhân và giai cấp nông dân tập thể, đã trở thành trí thức xã hội chủ nghĩa. ở miền Nam, giới trí thức do chế độ cũ để lại đang phấn đấu theo tinh thần yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội. ở miền Bắc, các giai cấp bóc lột đã bị xoá bỏ. ở miền Nam, giai cấp địa chủ và giai cấp tư sản mại bản không còn nữa; tư sản dân tộc và những nhà tư sản khác không phải mại bản đang được cải tạo theo chủ nghĩa xã hội. Tầng lớp phú nông (tức tư sản nông thôn) vẫn còn khá lớn ở miền Nam, tuy vậy họ cũng đang được cải tạo trong phong trào hợp tác hoá nông nghiệp. Các dân tộc đa số và thiểu số ở nước ta đã từng đoàn kết chiến đấu để giành độc lập, tự do, nay lại tăng cường đoàn kết trong lao động và đấu tranh để xây dựng chủ nghĩa xã hội trên mọi vùng của đất nước và bảo vệ Tổ quốc, quyết đập tan mọi âm mưu và hành động của bọn đế quốc... ở nước ta, cuộc đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa đang diễn ra quyết liệt. Câu kết với bọn đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ,... các phần tử phản cách mạng... đang cố gắng tuyệt vọng hòng cản trở nhân dân ta xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhưng nhân dân ta quyết đạp bằng mọi trở lực, vững bước tiến lên! Tóm lại, tình hình nước ta hiện nay so với năm 1959 đã thay đổi về cơ bản. Nhà nước ta cần có một bản Hiến pháp mới phù hợp với quan hệ kinh tế - xã hội của nước nhà và tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động lực lượng toàn dân xây dựng thành công một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa, góp phần vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân toàn thế giới. Từ khi nhân dân ta giành được chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám đến nay, nước ta đã có hai bản Hiến pháp: Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959. Hiến pháp năm 1946 đánh dấu thắng lợi lịch sử đã giành được trong Cách mạng Tháng Tám, xác lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, phát triển cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, phục vụ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Mục tiêu chiến lược của Hiến pháp đó là hoàn thành độc lập dân tộc, xây dựng và phát triển dân chủ nhân dân, chuẩn bị tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hiến pháp năm 1959 xác định thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên miền Bắc nước ta, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, phục vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời phục vụ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của toàn dân; xây dựng miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc; chuẩn bị tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa trong cả nước. Chiến thắng lịch sử mùa Xuân năm 1975 đã mở ra một giai đoạn mới của cách mạng nước ta: nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, thống nhất và cả nước cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cần có Hiến pháp mới để xác định thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa trong cả nước, hoàn thành thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Hiến pháp mới kế thừa và phát triển Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959 của nước ta. Nước Việt Nam đã thống nhất về mặt Nhà nước. Nhưng về một số mặt khác, hai miền còn chênh lệch nhau. Trình độ cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở hai miền còn khác nhau. Trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa của các tầng lớp nhân dân cũng vậy. Sự chênh lệch đó là tất nhiên, do miền Bắc được giải phóng từ năm 1954 và đã làm cách mạng xã hội chủ nghĩa trước miền Nam hơn hai chục năm. Hiến pháp mới của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiệm vụ hoàn thành thống nhất nước nhà về nội dung và thực chất, thống nhất về mọi mặt kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá và xã hội. 2. Dự thảo Hiến pháp được xây dựng theo những phương châm, nguyên tắc gì? Thưa các đồng chí, Hiến pháp mới phải thể hiện đúng tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng là nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, xác định mối quan hệ khăng khít giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý; bảo đảm tiến hành thắng lợi ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, nhằm phục vụ đắc lực sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ Tổ quốc. Hiến pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Hiến pháp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước. Chẳng những nó tổng kết và xác định những thành quả đã đạt được, mà còn thể hiện phương hướng phát triển của cách mạng nước ta theo đường lối của Đảng. Vì vậy, Hiến pháp mới không tự hạn chế ở những sự việc đã và đang làm, những điều đã và đang thực hiện, mà còn bao gồm một số việc, một số điều sẽ phải làm, làm từng bước và chắc chắn làm được trong quá trình xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội. Trong khi xây dựng Hiến pháp mới, cần tính đến những mặt còn chưa thống nhất và đồng nhất giữa hai miền, làm cho Hiến pháp thật sự là luật cơ bản của cả nước, mọi quy định đều có thể áp dụng chung cho cả hai miền, tránh được những cái lạc hậu đối với miền này hoặc thái quá đối với miền kia. Hiến pháp mới phải thể hiện đúng ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Quá trình xây dựng Hiến pháp là quá trình phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân, động viên cán bộ và nhân dân cả nước tích cực tham gia thảo luận và góp ý kiến. Do đó, sau khi Hiến pháp được ban hành, mọi người sẽ tự giác, tự nguyện, ra sức thực hiện Hiến pháp, làm cho Hiến pháp tác động tích cực đến hoạt động của Nhà nước và cuộc sống của toàn dân. Xây dựng Dự thảo Hiến pháp là một công việc lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân, một cuộc vận động dân chủ xã hội chủ nghĩa sâu rộng, một quá trình nghiên cứu nghiêm túc. Trong công việc đó, Uỷ ban Dự thảo Hiến pháp có những thuận lợi cơ bản: có Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng và các nghị quyết tiếp theo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng làm cơ sở; có kinh nghiệm quý báu của 35 năm xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, kinh nghiệm phong phú về xây dựng và thi hành Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959. Nắm vững đường lối, chính sách của Đảng và tình hình thực tế nước ta, chúng ta còn tham khảo kinh nghiệm xây dựng và thi hành Hiến pháp của các nước xã hội chủ nghĩa khác. Dự thảo Hiến pháp trình Ban Chấp hành Trung ương Đảng là bản đã được chỉnh lý trên cơ sở tiếp thụ những ý kiến phong phú, thiết thực của cán bộ và nhân dân và thấm nhuần những chỉ thị của Bộ Chính trị. II - Nội dung cơ bản của dự thảo Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Thưa các đồng chí, Dự thảo Hiến pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm Lời nói đầu và 12 Chương. Lời nói đầu trình bày khái quát quá trình đấu tranh thắng lợi của nhân dân ta trong nửa thế kỷ qua, những nguyên nhân thắng lợi, những kinh nghiệm lịch sử của cách mạng nước ta, và nêu rõ nội dung cơ bản của Hiến pháp mới là thể chế hoá đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa do Đại hội lần thứ IV của Đảng đề ra, bảo đảm bước phát triển rực rỡ của xã hội Việt Nam trong giai đoạn mới. Tính chất, đặc điểm của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và đường lối xây dựng chế độ mới, kinh tế mới, văn hoá mới, con người mới và quốc phòng toàn dân được thể hiện chủ yếu trong bốn Chương đầu của Dự thảo, tập trung nhất là ở Chương I nói về "Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Chế độ chính trị". Chương V quy định các "quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân". Từ Chương VI đến Chương X là những quy định về cơ cấu tổ chức và nguyên tắc hoạt động của Nhà nước ở trung ương, các địa phương và cơ sở. Chương XI quy định những biểu tượng của nước ta: quốc kỳ, quốc huy, quốc ca, thủ đô. Chương cuối cùng quy định hiệu lực của Hiến pháp và vấn đề sửa đổi Hiến pháp. Bố cục của Dự thảo Hiến pháp mới theo bố cục hợp lý của Hiến pháp năm 1959. Song Dự thảo Hiến pháp lần này có thêm mấy chương mới: Chương III nói về "Văn hoá, giáo dục, khoa học, kỹ thuật"; Chương IV về "Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa" và Chương VII về "Hội đồng Nhà nước". Dưới đây, tôi xin nêu mấy vấn đề lớn thuộc về nội dung Dự thảo Hiến pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 1. Tính chất nhà nước và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam Vấn đề cơ bản nhất của Hiến pháp là xác định bản chất giai cấp của Nhà nước. Đây là một vấn đề quyết định toàn bộ nội dung của Hiến pháp nước ta trong giai đoạn hiện nay. Điều 2 của Dự thảo Hiến pháp quy định: "Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước chuyên chính vô sản". Bản chất giai cấp của Nhà nước ta được thể hiện trước hết ở sứ mệnh lịch sử của nó là "thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, động viên và tổ chức nhân dân tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt; xoá bỏ chế độ người bóc lột người; đập tan mọi sự chống đối của bọn phản cách mạng trong nước, mọi hành động xâm lược và phá hoại của kẻ thù bên ngoài; xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, tiến tới chủ nghĩa cộng sản" (Điều 2). Bản chất giai cấp của Nhà nước ta cũng được thể hiện ở đường lối đối ngoại của Nhà nước là: "tăng cường tình hữu nghị anh em, tình đoàn kết chiến đấu và quan hệ hợp tác về mọi mặt với Liên Xô, Lào, Campuchia và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản; bảo vệ và phát triển quan hệ hữu nghị với các nước láng giềng; đoàn kết với nhân dân các nước đang đấu tranh vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội; thực hiện chính sách cùng tồn tại hoà bình giữa các nước có chế độ chính trị và xã hội khác nhau trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi; tích cực ủng hộ và góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân cũ và mới, chủ nghĩa bành trướng và bá quyền, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội" (Điều 14). Nhà nước chuyên chính vô sản phải thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Cho nên, liền sau khi nói về tính chất nhà nước, Dự thảo Hiến pháp đã xác định quyền làm chủ tập thể đó. Điều 3 của Dự thảo Hiến pháp lại chỉ rõ nhân dân lao động bao gồm "giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể, tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa và những người lao động khác, mà nòng cốt là liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo". Xác định thành phần nhân dân lao động như vậy là phù hợp với thực tại xã hội và xu thế tất yếu của sự biến đổi về cơ cấu giai cấp của nước ta trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhà nước chuyên chính vô sản chỉ có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin. Kinh nghiệm lịch sử của chuyên chính vô sản trên thế giới cũng như ở nước ta từ khi miền Bắc bước vào cách mạng xã hội chủ nghĩa và từ 5 năm nay cả nước cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội, đã chứng minh điều đó. Lần đầu tiên ở nước ta, Dự thảo Hiến pháp thể chế hoá vai trò lãnh đạo của Đảng: "Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong và bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam, được vũ trang bằng học thuyết Mác - Lênin, là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội; là nhân tố chủ yếu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam" (Điều 4). Vai trò lãnh đạo của Đảng được ghi nhận với tinh thần và lời văn trang trọng như vậy là rất có ý nghĩa. Với Điều 4, Dự thảo Hiến pháp khẳng định công lao to lớn của Đảng ta đối với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của giai cấp công nhân và của dân tộc; thể hiện tình cảm sâu đậm của nhân dân cả nước đối với Đảng và đáp ứng yêu cầu tăng cường sự lãnh đạo toàn diện của Đảng trong tình hình mới. Dự thảo còn quy định: "Các tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp của Nhà nước". Quy định này không những không trái với việc xác định vai trò lãnh đạo của Đảng, mà còn nêu cao hơn nữa uy tín của Đảng. Bởi vì Hiến pháp là đường lối chính trị và những chính sách lớn của Đảng được thể chế hoá. Nó thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Các tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp thật ra là Đảng thực hiện đường lối của mình, vì lợi ích của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động. Quy định như vậy có tác dụng góp phần ngăn ngừa và khắc phục những biểu hiện độc đoán, chuyên quyền của một số cán bộ, đảng viên. Trong Điều 4 của Dự thảo, không nêu đảng viên phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, bởi vì đảng viên là thành viên của mỗi tổ chức Đảng; hơn nữa đảng viên là công dân, công dân nào cũng phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. 2. Quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động ở nước ta Quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động là một vấn đề lớn thấu suốt toàn bộ Dự thảo Hiến pháp. Những quy định về vấn đề này nằm trong Chương I và được cụ thể hoá ở hầu hết các chương khác của Dự thảo, về các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, v.v.. Đối với mỗi người dân, quyền làm chủ tập thể được cụ thể hoá thành những quy định trong Chương V nói về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Dự thảo Hiến pháp quy định nhân dân làm chủ bằng nhà nước, bằng các tổ chức xã hội và bằng sự tham gia của nhân dân lao động vào công việc nhà nước, công việc xã hội ở cơ sở - đương nhiên, làm chủ bằng nhà nước là chủ yếu. Thực chất của vấn đề làm chủ bằng nhà nước là gì? Điều 6 của Dự thảo Hiến pháp quy định: "ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. "Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân". Quốc hội được xác định là "cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất", và Hội đồng nhân dân được xác định là "cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương". Làm chủ bằng nhà nước thực chất là làm chủ thông qua các cơ quan quyền lực nhà nước, cho nên Dự thảo Hiến pháp đặc biệt chú ý những vấn đề liên quan đến vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Trong cuộc thảo luận Dự thảo Hiến pháp, cán bộ và nhân dân cũng rất quan tâm đến vấn đề đó. Do tính chất và vị trí của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, Dự thảo xác định "Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp là cơ sở chính trị của hệ thống cơ quan nhà nước". Quốc hội bầu ra Hội đồng Nhà nước, Hội đồng Bộ trưởng, Chánh án Toà án Nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; các cơ quan đó chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, và Quốc hội có quyền bãi miễn các thành viên của các cơ quan đó. Hội đồng nhân dân bầu ra Uỷ ban nhân dân và Toà án nhân dân; các cơ quan đó chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân, và Hội đồng nhân dân có quyền bãi miễn các thành viên của các cơ quan đó. Quốc hội, Hội đồng Nhà nước, Hội đồng Bộ trưởng, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp, Toà án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân các cấp (và các cơ quan nhà nước thuộc quyền) hợp thành hệ thống cơ quan nhà nước mà Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp là cơ sở chính trị. Quan hệ giữa các cơ quan dân cử và các đại biểu với nhân dân là một vấn đề mấu chốt bảo đảm tính chất nhân dân của Nhà nước ta. Vì vậy, Dự thảo quy định chế độ đại biểu phải liên hệ với cử tri và quần chúng nhân dân. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã nói: "Quy định chế độ và tạo điều kiện để các đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân có thể thu thập và phản ánh ý kiến của nhân dân cho các cơ quan nhà nước và theo dõi cách giải quyết của các cơ quan ấy. Xây dựng và ban hành các quy định bảo đảm sự kiểm tra và quyền bãi miễn của cử tri đối với đại biểu do dân bầu ra". Làm chủ bằng các tổ chức xã hội là một hình thức làm chủ tập thể rất quan trọng. Lần đầu tiên, vị trí, vai trò của các tổ chức xã hội được thể chế hoá trong Dự thảo Hiến pháp. Đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Dự thảo khẳng định đây là chỗ dựa vững chắc của Nhà nước, có chức năng đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí trong nhân dân, thể hiện sự thống nhất hành động của mọi tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng và củng cố chính quyền, thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà nước, giáo dục, động viên nhân dân phát huy tinh thần làm chủ tập thể, thi đua xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (Điều 9). ở nước ta cũng như ở các nước xã hội chủ nghĩa anh em, Công đoàn giữ một vị trí đặc biệt, vì đó là tổ chức rộng lớn nhất của giai cấp công nhân, giai cấp lãnh đạo cách mạng. Dự thảo quy định Công đoàn tham gia công việc nhà nước và kiểm tra hoạt động của cơ quan nhà nước, tham gia quản lý xí nghiệp; giáo dục công nhân, viên chức; tổ chức phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa; cùng với cơ quan nhà nước chăm lo đời sống và bảo đảm quyền lợi của công nhân, viên chức (Điều 10). Các tổ chức xã hội khác, như Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, v.v. có quyền tham gia công việc quản lý nhà nước và xã hội theo điều lệ của đoàn thể mình và theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Ngoài các hình thức làm chủ bằng nhà nước và bằng các tổ chức xã hội, Điều 11 của Dự thảo Hiến pháp còn quy định quyền làm chủ trực tiếp của quần chúng ở cơ sở: tập thể nhân dân lao động ở cơ quan, xí nghiệp, hợp tác xã, khu dân cư và các đơn vị cơ sở khác tham gia giải quyết và kiểm tra công việc nhà nước, công việc xã hội ở cơ sở, nghĩa là ở ngay nơi mình làm việc hoặc cư trú. Tất cả những quy định của Dự thảo Hiến pháp về Nhà nước chuyên chính vô sản, về quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động và về vai trò lãnh đạo của Đảng thể hiện mối quan hệ Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý. Đó là mối quan hệ cơ bản trong đời sống chính trị - xã hội nước ta được thể chế hoá trong Dự thảo Hiến pháp. 3. Vấn đề thể chế hoá đường lối xây dựng kinh tế mới, văn hoá mới, con người mới xã hội chủ nghĩa và xây dựng quốc phòng toàn dân Thưa các đồng chí, Tháng giêng năm 1946, khi trả lời các nhà báo, Chủ tịch Hồ Chí Minh có nói: "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành". Trong Di chúc, Người còn dặn lại: "Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân". Dưới lá cờ quang vinh của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn dân và toàn quân ta đã chiến đấu kiên cường và lao động sáng tạo, giành lại độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc, cải thiện một bước quan trọng đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân. Đại hội lần thứ IV của Đảng đã đề ra đường lối cải tạo và xây dựng kinh tế, phát triển văn hoá nhằm thực hiện cho bằng được điều "ham muốn tột bậc" và Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ. Dự thảo Hiến pháp đã dành một vị trí quan trọng cho vấn đề kinh tế và dân sinh. Việc xây dựng nền kinh tế mới của nước ta được trình bày ở Chương II của Dự thảo, theo tinh thần kết hợp cải tạo xã hội chủ nghĩa với xây dựng chủ nghĩa xã hội, lấy xây dựng làm chính, nhằm thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, phát triển lực lượng sản xuất xã hội chủ nghĩa và kiện toàn hệ thống quản lý kinh tế. Dự thảo Hiến pháp xác định mục đích chính sách kinh tế của Nhà nước ta theo yêu cầu quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội (Điều 15) và thể chế hoá những vấn đề lớn trong đường lối kinh tế của Đảng, như: công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, cách mạng về quan hệ sản xuất và quyền làm chủ tập thể của nhân dân về kinh tế; quan hệ kinh tế đối ngoại, đặc biệt là quan hệ hợp tác, tương trợ với các nước anh em trong Cộng đồng xã hội chủ nghĩa. Dự thảo Hiến pháp có riêng một điều khẳng định quyền sở hữu toàn dân đối với "đất đai, rừng núi, sông hồ, hầm mỏ, tài nguyên thiên nhiên trong lòng đất, ở thềm lục địa và vùng biển; các xí nghiệp công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, thương nghiệp quốc doanh, ngân hàng và các tổ chức bảo hiểm, công trình phục vụ lợi ích công cộng; hệ thống đường sắt, đường bộ, đường thuỷ, đường không; đê điều và công trình thuỷ lợi quan trọng; cơ sở phục vụ quốc phòng; hệ thống thông tin, liên lạc, phát thanh, điện ảnh, truyền hình; cơ sở nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, cơ sở văn hoá và xã hội, và các tài sản khác mà pháp luật quy định là của toàn dân" (Điều 19). Dự thảo Hiến pháp còn quy định về kinh tế tập thể và kinh tế phụ của gia đình xã viên; chế độ phân phối xã hội chủ nghĩa; việc kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân và quản lý kinh tế; việc bảo vệ thiên nhiên và môi trường; việc tăng cường pháp luật kinh tế và đấu tranh chống tiêu cực trong xã hội, v.v.. Về các hình thức sở hữu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Dự thảo Hiến pháp, một mặt, phản ánh tình hình thực tế hiện nay là còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế, do đó cần có chính sách hướng dẫn và sử dụng thích đáng các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa; mặt khác, phải tiến hành cách mạng về quan hệ sản xuất, hạn chế và cải tạo các thành phần kinh tế đó, thiết lập và củng cố chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức: sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, trong đó kinh tế quốc doanh (thuộc sở hữu toàn dân) "giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân và được phát triển ưu tiên" (Điều 18). Đối với thành phần kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công và những người lao động cá thể khác, chính sách cơ bản của Đảng và Nhà nước ta là cải tạo bằng con đường hợp tác hoá. Đồng thời căn cứ vào đặc điểm của một số ngành, như nông nghiệp, tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, mỹ nghệ, dịch vụ ở đó lao động riêng lẻ còn thích hợp và có thể phục vụ tốt lợi ích của nền kinh tế quốc dân và của nhân dân, Điều 24 viết: "Pháp luật quy định phạm vi được phép lao động riêng lẻ trong các lĩnh vực nông nghiệp, tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, mỹ nghệ, dịch vụ". Dự thảo Hiến pháp nêu một vấn đề rất quan trọng là chuyển toàn bộ đất đai thành sở hữu toàn dân. Chúng ta biết rằng, về nguyên tắc, trong quá trình tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, tất yếu phải xã hội hoá toàn bộ đất đai. Nhưng bằng con đường nào, bằng con đường hợp tác hoá nông nghiệp hay là bằng cách quy định thẳng đất đai thuộc sở hữu toàn dân? Bộ Chính trị đã cân nhắc và thấy đã đến lúc cần quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân để tạo thêm điều kiện thuận lợi cho việc thống nhất quy hoạch, khai thác hợp lý, bảo vệ và bồi bổ đất đai trên phạm vi cả nước cũng như ở từng vùng kinh tế. Song, để bảo đảm cho nông dân an tâm sản xuất, Dự thảo Hiến pháp quy định: "Những tập thể và cá nhân đang sử dụng đất đai được tiếp tục sử dụng và hưởng kết quả lao động của mình theo quy định của pháp luật". Đồng thời, còn quy định: "Tập thể hoặc cá nhân sử dụng đất đai đều có trách nhiệm bảo vệ, bồi bổ và khai thác theo chính sách và kế hoạch của Nhà nước" (Điều 20). Phân công lao động và hợp tác toàn diện về kinh tế, khoa học, kỹ thuật theo tinh thần quốc tế xã hội chủ nghĩa là một quy luật phát triển khách quan của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Đặc biệt đối với nước ta, từ sản xuất nhỏ tiến thẳng lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, thì việc tham gia sự phân công và hợp tác với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác là một điều kiện không thể thiếu, một yêu cầu có tầm quan trọng chiến lược để thực hiện những mục tiêu phát triển kinh tế và văn hoá mà Đại hội lần thứ IV của Đảng đã đề ra. Theo tinh thần đó, trong Điều 16 của Dự thảo Hiến pháp có nêu bật vấn đề "tăng cường quan hệ hợp tác, tương trợ với các nước anh em trong Cộng đồng xã hội chủ nghĩa...". Nêu như thế là cần thiết và phù hợp với tình hình sau khi nước ta đã trở thành thành viên chính thức của Hội đồng tương trợ kinh tế. Chương III của Dự thảo Hiến pháp quy định những nguyên tắc pháp lý cơ bản làm cơ sở cho việc đẩy mạnh cách mạng khoa học - kỹ thuật và cách mạng tư tưởng và văn hoá theo đường lối của Đảng. Vấn đề then chốt trong lĩnh vực tư tưởng và văn hoá là xác lập địa vị thống trị của chủ nghĩa Mác - Lênin. Điều 37 của Dự thảo Hiến pháp xác định:"Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ tư tưởng chỉ đạo sự phát triển của xã hội Việt Nam". Tiếp theo Điều 4 về vai trò lãnh đạo của Đảng, Điều 37 xác định vị trí của chủ nghĩa Mác - Lênin trong đời sống chính trị và tinh thần của xã hội càng bảo đảm chắc chắn cho cách mạng nước ta tiếp tục phát triển đúng đắn, sáng tạo và giành những thắng lợi to lớn hơn nữa. Các điều tiếp theo của Chương III quy định quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động trên các lĩnh vực văn hoá, giáo dục, khoa học, kỹ thuật; thể chế hoá đường lối, nguyên tắc và phương châm phát triển giáo dục, y tế và nghiên cứu khoa học, kỹ thuật; xây dựng và phát triển các ngành văn hoá, nghệ thuật, thông tin, báo chí, xuất bản, thể dục thể thao, du lịch. Dự thảo Hiến pháp dành một vị trí quan trọng cho sự nghiệp giáo dục, nhằm đào tạo thế hệ trẻ, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, nên trách nhiệm của Nhà nước, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, gia đình và toàn thể xã hội trong việc giáo dục thanh niên, thiếu niên và nhi đồng. Một yêu cầu lớn và thường xuyên của cách mạng nước ta là đi đôi với việc xây dựng đất nước về các mặt khác, phải ra sức xây dựng nền quốc phòng toàn dân để bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, kết hợp kinh tế với quốc phòng, làm cho đất nước hùng mạnh và luôn luôn đề cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, đập tan mọi hành động xâm lược và phá hoại của kẻ địch. Trên tinh thần đó, Chương IV về "Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa" quy định những vấn đề cơ bản thuộc về đường lối, phương châm, nguyên tắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện và hiện đại; tính chất và nhiệm vụ của các lực lượng vũ trang nhân dân và nhiệm vụ của tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân đối với công cuộc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc, giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội. 4. Vấn đề quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Những quy định trong Dự thảo Hiến pháp về vấn đề này thể hiện quan điểm của Đảng ta trong việc giải quyết mối quan hệ giữa công dân với Nhà nước và tập thể, "kết hợp hài hoà những yêu cầu của cuộc sống xã hội với tự do chân chính của cá nhân, bảo đảm sự nhất trí về lợi ích giữa Nhà nước, tập thể và cá nhân theo nguyên tắc mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người" (Điều 53). Tinh thần cơ bản được thấu suốt trong các mối quan hệ đó là quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân. Công dân đã có quyền thì phải có nghĩa vụ; ngược lại, làm nghĩa vụ phải đi liền với hưởng các quyền được Nhà nước bảo đảm. "Nhà nước bảo đảm các quyền của công dân; công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội" (Điều 53). Để phòng ngừa việc lợi dụng các quyền công dân xâm phạm lợi ích của Nhà nước và của nhân dân, Dự thảo Hiến pháp quy định: "Không ai được lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích của Nhà nước và của nhân dân" (Điều 53). Dự thảo Hiến pháp ghi một quyền rất quan trọng: "Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật" (Điều 54). Điều đó có nghĩa là: bất cứ công dân nào cũng được hưởng những quyền và phải là những nghĩa vụ như Hiến pháp và pháp luật quy định. Là người chủ tập thể của đất nước, làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu và được giải phóng khỏi mọi áp bức, bóc lột, công dân nước ta được bảo đảm những điều kiện cơ bản để được hưởng các quyền và làm nghĩa vụ như nhau, để phát huy tài năng, mang hết sức mình ra gánh vác công việc nhà nước, công việc xã hội. Pháp luật cụ thể hoá những quy định của Hiến pháp về lao động, học tập, nghĩa vụ quân sự, phân công lao động, phân phối, tiền lương, v.v., đề ra tiêu chuẩn, chế độ bảo đảm công bằng, hợp lý, tránh bình quân chủ nghĩa, nhưng cũng chống đặc quyền, đặc lợi. Mặt khác, điều quy định trên đây còn có nghĩa là mọi công dân đều phải tôn trọng Hiến pháp, pháp luật; những hành động vi phạm Hiến pháp, pháp luật phải được xử lý nghiêm minh, dù người vi phạm ở bất cứ cương vị công tác nào. Pháp luật là công bằng: ai phạm pháp thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật tuỳ theo tội nặng hay là nhẹ của mình, không ai được bênh che, tây vị. Công tác tuyên truyền, giáo dục của ta phải làm cho mọi người có ý thức về nguyên tắc "mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật", một nguyên tắc lớn của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của nước ta. Bên cạnh những quyền đã ghi trong Hiến pháp năm 1959 nay được ghi lại và bổ sung, Dự thảo đã quy định một số quyền mới rất quan trọng, như: quyền tham gia quản lý công việc của Nhà nước và của xã hội; quyền học tập không phải trả tiền; quyền được bảo vệ sức khoẻ và chữa bệnh không phải trả tiền; quyền có nhà ở; quyền được pháp luật bảo hộ tính mạng, tài sản, nhân phẩm và danh dự, v.v.. Việc bổ sung và mở rộng các quyền của công dân như vậy là phù hợp với sự phát triển của cách mạng nước ta trong hơn hai chục năm qua, kể từ khi có Hiến pháp năm 1959. Dự thảo Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam không chỉ ghi những quyền đã hoàn toàn có đủ điều kiện thực hiện, cũng không ghi những quyền hoàn toàn chưa có điều kiện thực hiện, mà ghi cả một số quyền có thể thực hiện, nhưng thực hiện từng bước trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Điều 66 Dự thảo Hiến pháp ghi: "Công dân có các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do biểu tình, phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã hội và của nhân dân". Nêu như thế là để ngăn chặn những phần tử xấu lợi dụng các quyền tự do đó để chống lại chủ nghĩa xã hội, chống lại lợi ích chính đáng của nhân dân. Dự thảo Hiến pháp còn ghi một số quyền như quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, tự do đi lại và cư trú, v.v., và dành cho pháp luật quy định cụ thể những trường hợp và điều kiện thi hành. Có những quyền như quyền lao động, quyền học tập đồng thời cũng là nghĩa vụ. Công dân có sức lao động thì phải lao động, phải học tập để nâng cao trình độ tham gia công việc nhà nước, công việc xã hội. Hiến pháp xã hội chủ nghĩa không chỉ công nhận quyền của công dân mà còn quy định Nhà nước có nhiệm vụ bảo đảm các điều kiện vật chất để công dân có thể hưởng và sử dụng các quyền đó. Tất nhiên, do trình độ phát triển kinh tế của ta còn thấp, cơ sở vật chất còn bị hạn chế, cho nên có những quyền chỉ được thực hiện từng bước, chẳng hạn như quyền có nhà ở. Về nghĩa vụ của công dân, Dự thảo Hiến pháp nêu những điều thật cơ bản: Trước hết, nêu nghĩa vụ: "Công dân phải trung thành với Tổ quốc - Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất đối với dân tộc." (Điều 75). Công dân có nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, có bổn phận làm nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân. Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật, kỷ luật lao động, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội, giữ gìn bí mật Nhà nước, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa. Công dân có nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa thuộc sở hữu toàn dân cũng như sở hữu tập thể. Công dân có nghĩa vụ đóng thuế và tham gia lao động công ích theo quy định của pháp luật. Những quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân rất súc tích, không những có tính chất pháp lý, mà còn thấm nhuần đạo đức xã hội chủ nghĩa. Pháp luật sẽ phải cụ thể hoá các điều đó của Hiến pháp để dễ thi hành. 5. Về cơ cấu tổ chức của Nhà nước Thưa các đồng chí, Căn cứ vào tình hình và nhiệm vụ mới, vào kinh nghiệm tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta hàng chục năm qua, Dự thảo Hiến pháp mới quy định cơ cấu tổ chức Nhà nước nhằm bảo đảm cho Nhà nước ta thật sự là của dân, do dân và vì dân; đồng thời, nâng cao hiệu lực quản lý chung của Nhà nước cũng như của từng bộ phận của nó. Trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, Dự thảo Hiến pháp xác định sự phân công, phân nhiệm rành mạch giữa các cơ quan nhà nước, giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương, giữa các cơ quan quyền lực Nhà nước với cơ quan chấp hành và hành chính nhà nước. Trong quá trình chuẩn bị Hiến pháp mới, có một vấn đề được Bộ Chính trị cũng như cán bộ và nhân dân rất quan tâm là làm thế nào "nêu cao vị trí của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp" như Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã nhấn mạnh, làm thế nào cho các cơ quan quyền lực có thực quyền và sử dụng quyền lực một cách có hiệu quả, không để cho các cơ quan đó chỉ tồn tại một cách hình thức, hữu danh vô thực. Theo yêu cầu đó, Dự thảo Hiến pháp đã có những quy định đầy đủ hơn, có hệ thống hơn về những nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội (Điều 82) và của Hội đồng nhân dân các cấp (Điều 114). Đối với Quốc hội, Dự thảo đề cao vị trí của Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp, có quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước, đối với việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật, v.v.. Về Hội đồng nhân dân, Dự thảo Hiến pháp ghi rõ quyền "quyết định và thực hiện các biện pháp nhằm xây dựng địa phương về mọi mặt, bảo đảm nâng cao từng bước đời sống của nhân dân địa phương và hoàn thành nhiệm vụ cấp trên giao cho"; quyền kiểm tra đối với các cơ quan nhà nước của địa phương và quyền "giám sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan, xí nghiệp và các tổ chức khác của cấp trên ở địa phương". Muốn thật sự nêu cao vị trí của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp thì bản thân các cơ quan quyền lực đó phải làm đúng và làm hết nhiệm vụ và quyền hạn của mình được quy định trong Hiến pháp; mặt khác, phải xác định rõ trách nhiệm và kiểm tra việc làm tròn trách nhiệm của các cơ quan chấp hành đối với các cơ quan quyền lực nhà nước, đặc biệt là trách nhiệm thi hành các nghị quyết của cơ quan quyền lực nhà nước và tạo điều kiện cho các cơ quan đó thực hiện đầy đủ nhiệm vụ và quyền hạn được Hiến pháp quy định. Một quy định mới về cơ cấu tổ chức nhà nước là thành lập Hội đồng Nhà nước để đảm nhiệm những chức năng của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và của Chủ tịch nước quy định trong Hiến pháp năm 1959. Việc tập trung những nhiệm vụ, quyền hạn của hai cơ quan đó vào Hội đồng Nhà nước làm cho Hội đồng Nhà nước có vai trò rất quan trọng trong hệ thống cơ quan nhà nước, và hoạt động của Hội đồng Nhà nước sẽ được nhạy bén hơn. Ngoài ra, việc thành lập Hội đồng Nhà nước góp phần làm tinh giản bộ máy và lề lối làm việc của cấp chính quyền nhà nước ở trung ương. Để phát huy hơn nữa vai trò của Hội đồng Bộ trưởng là cơ quan quản lý các mặt công tác chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại, v.v. của nước ta, Dự thảo Hiến pháp (Điều 106) đã bổ sung nhiều điểm vào nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng Bộ trưởng, so với Hiến pháp năm 1959. Dự thảo cũng quy định rõ hơn trách nhiệm của các thành viên của Hội đồng Bộ trưởng: "Mỗi thành viên Hội đồng Bộ trưởng chịu trách nhiệm cá nhân về phần công tác của mình trước Quốc hội, Hội đồng Nhà nước, Hội đồng Bộ trưởng, đồng thời cùng với các thành viên khác chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Hội đồng Bộ trưởng trước Quốc hội và Hội đồng Nhà nước" (Điều 111). Về Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân, Dự thảo Hiến pháp đã có những bổ sung và phát triển quan trọng so với Hiến pháp năm 1959. Điều 126 quy định: "Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong phạm vi chức năng của mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự tôn trọng tính mạng, tài sản, tự do và nhân phẩm của công dân". ở các cấp, Toà án nhân dân đều thực hành chế độ bầu thẩm phán và hội thẩm nhân dân. Dự thảo Hiến pháp quy định thành lập ở cơ sở các tổ chức thích hợp của quần chúng để giải quyết những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân. Đây là một quy định mới nhằm thu hút nhân dân tham gia trực tiếp vào việc bảo đảm thi hành pháp luật (Điều 127). Việc xét xử của Toà án nhân dân theo nguyên tắc xét xử tập thể, công khai và quyết định theo đa số; khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật và hội thẩm nhân dân ngang quyền với thẩm phán; công dân thuộc các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết của mình trước Toà án; quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm; tổ chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự khác về mặt pháp lý. Tất cả các quy định nói trên đều nhằm thể hiện tính nhân dân của Toà án, bảo đảm cho việc xét xử và trừng phạt được công minh, và góp phần giáo dục nhân dân về ý thức tôn trọng pháp luật và giữ gìn trật tự xã hội. Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố Nhà nước, nhằm bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, cho các việc điều tra, giam giữ, truy tố, xét xử và thi hành án được tiến hành theo đúng pháp luật. Ngành kiểm sát nhân dân được tổ chức theo chế độ thủ trưởng và tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành. Viện trưởng, kiểm sát viên các cấp tỉnh, thành, huyện và cấp tương đương do Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, chứ không do Hội đồng nhân dân bầu. Chế độ thủ trưởng và sự lãnh đạo tập trung, thống nhất trong ngành kiểm sát bảo đảm cho Viện kiểm sát không lệ thuộc vào bất cứ cơ quan nào ở địa phương, bảo đảm hành động nhất trí, hoạt động nhạy bén, phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các việc làm vi phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước hoặc của công dân. 6. Vấn đề tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong Dự thảo Hiến pháp Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa là một yêu cầu cấp thiết của việc nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước chuyên chính vô sản, bảo đảm quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Điều 12 của Dự thảo Hiến pháp quy định: "Nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. "Tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, nhân viên nhà nước, nhân viên các tổ chức xã hội và công dân đều phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật, kiên quyết đấu tranh để phòng ngừa và chống các tội phạm hoặc việc làm vi phạm Hiến pháp và pháp luật". Quy định này đòi hỏi Nhà nước ta phải khẩn trương xây dựng pháp luật. Điều rất rõ ràng là muốn "quản lý xã hội theo pháp luật" thì trước hết phải có pháp luật, phải xây dựng pháp luật. Mặt khác, cần đẩy mạnh công tác phổ biến và giáo dục pháp luật để công dân tự giác, tự nguyện tuân theo; phải tăng cường các cơ quan làm công tác pháp luật, từ nghiên cứu và xây dựng dự án luật, đến giám sát, kiểm sát, thanh tra, xét xử, v.v.. Tất cả các cơ quan đó phải được tổ chức thành một hệ thống, có phân công rành mạch và hợp tác chặt chẽ để đủ sức làm lực lượng nòng cốt cho công tác xây dựng pháp luật và bảo đảm việc thi hành pháp luật. Phải khắc phục tình trạng không bình thường như hiện nay là hệ thống pháp luật rất không đủ, nhất là thiếu nhiều luật về kinh tế; nhiều khi lấy chỉ thị của Đảng hoặc "văn kiện dưới luật" của Chính phủ thay cho luật; các luật đã có không được phổ biến, không được thi hành; cơ quan có nhiệm vụ trực tiếp thi hành pháp luật lại không thi hành pháp luật; việc thi hành luật một cách lệch lạc không được kịp thời uốn nắn, sửa chữa. Hiến pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được ban hành nhất định sẽ mở đầu cho một thời kỳ mới tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa ở nước ta. III - Cuộc thảo luận dự thảo hiến pháp trong cán bộ và nhân dân Thưa các đồng chí, Đầu năm 1978, Bộ Chính trị ra chỉ thị tổ chức thảo luận Dự thảo Hiến pháp trong cán bộ và nhân dân. Cuộc thảo luận chia làm hai bước (bước 1 trong cán bộ cao cấp và trung cấp, bước 2 trong các cán bộ khác và trong toàn dân) đã được tiến hành sâu rộng trong cả nước, từ thành thị đến nông thôn, từ các miền rừng núi đến đồng bằng và các hải đảo. Gần 20 triệu người thuộc đủ mọi tầng lớp xã hội đã tích cực tham gia thảo luận Dự thảo Hiến pháp. Nhiều người không có dịp dự các buổi thảo luận đã tìm gặp cán bộ có trách nhiệm để góp ý kiến hoặc viết thư kiến nghị gửi Uỷ ban dự thảo Hiến pháp. Nhiều đồng chí phụ trách tại các đơn vị kinh tế, hành chính lúc đầu lo không có nhiều người tham gia các cuộc thảo luận tổ chức sau giờ sản xuất, giờ làm việc, nhưng thực tế hoàn toàn khác hẳn: số người tham gia vẫn đông. Các cụ phụ lão, các chị em phụ nữ có con mọn, đồng bào các dân tộc vùng rẻo cao cũng cố gắng khắc phục khó khăn, tham gia thảo luận Hiến pháp. Có thể nói từ trước đến nay chưa có cuộc sinh hoạt chính trị nào thu hút đông đảo nhân dân cả nước tham gia như lần này. Cuộc thảo luận Dự thảo Hiến pháp trong cán bộ và nhân dân thật sự là một cuộc sinh hoạt chính trị và vận động dân chủ xã hội chủ nghĩa như Bộ Chính trị đã nhận định. Tình hình trên đây phản ánh một sự thật vô cùng quan trọng: nhân dân ta với cương vị là người chủ tập thể của đất nước, đã tỏ ra tích cực tham gia xây dựng luật cơ bản có tầm quan trọng quyết định vận mệnh của nước nhà và lợi ích của toàn dân. Tuy mỗi vùng, mỗi miền có tình hình và đặc điểm khác nhau, nhưng ý thức làm chủ tập thể của nhân dân cả nước đều đã được thể hiện rõ qua cuộc thảo luận xây dựng Hiến pháp mới. Các ý kiến đóng góp xây dựng Hiến pháp phản ánh rõ sự trưởng thành về chính trị của nhân dân ta. Tuyệt đại đa số những ý kiến đều thiết thực, chân thành, xây dựng. Loại ý kiến xấu rất ít. Trong các buổi thảo luận cũng như trong các thư từ góp ý kiến, cán bộ và nhân dân đã đối chiếu nội dung các điều trong Dự thảo Hiến pháp với thực tế ở địa phương mình, đơn vị mình, khẳng định những mặt tốt và phê bình những thiếu sót, sai lầm, đề ra những biện pháp sửa chữa. ở một số nơi, nhân dân chẳng những phê bình cán bộ, đảng viên, phê bình lãnh đạo mà còn liên hệ tự kiểm điểm về việc thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm của bản thân đối với công việc chung của Nhà nước, của xã hội. Rõ ràng tính đấu tranh giữa cái đúng và cái sai đã được thể hiện rõ nét trong cuộc thảo luận. ý kiến chung của cán bộ và nhân dân là tán thành Dự thảo Hiến pháp và cho rằng Dự thảo đã phản ánh trung thành đường lối của Đại hội lần thứ IV của Đảng, thể hiện được ý chí và nguyện vọng của nhân dân ta, đáp ứng yêu cầu của một đạo luật cơ bản của Nhà nước ta trong giai đoạn mới. ý kiến đóng góp của cán bộ và nhân dân rất phong phú. Có nhiều ý kiến đề nghị bổ sung, sửa đổi, từ lời nói đầu đến các chương, các điều của Dự thảo Hiến pháp. Có những ý kiến đề nghị ghi vào Hiến pháp những quy định chi tiết, những chế độ, thể lệ áp dụng cho từng địa phương, từng ngành. Phần lớn những ý kiến đó là đúng, nhưng không thể ghi hết vào Hiến pháp. Tuy vậy, những ý kiến đó đều được ghi chép cẩn thận để các cơ quan có trách nhiệm nghiên cứu khi xây dựng các đạo luật cụ thể hoá những điều khoản của Hiến pháp và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật của nước ta. Dự thảo Hiến pháp đã được chỉnh lý trên cơ sở tiếp thụ có chọn lọc những ý kiến đóng góp của cán bộ và nhân dân. Kết quả là Dự thảo Hiến pháp trình Trung ương hôm nay so với các Dự thảo trước đã được hoàn chỉnh thêm một cách rõ rệt, có thêm chương, thêm điều và đã có những sửa đổi, bổ sung vào 138 điều trong tổng số 146 điều của Dự thảo. Rõ ràng Dự thảo Hiến pháp phản ánh trí tuệ tập thể của đông đảo cán bộ và nhân dân cả nước. Dưới đây, tôi xin báo cáo khái quát một số ý kiến quan trọng mà cán bộ và nhân dân đã phát biểu trong cuộc thảo luận Dự thảo Hiến pháp: 1. Cán bộ và nhân dân hoan nghênh Dự thảo Hiến pháp nêu rõ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước, đối với xã hội; cho đó là một điều biểu hiện đúng đắn lòng tin tưởng của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng ta, và đề nghị ghi rõ: Đảng tồn tại và phấn đấu vì lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam. Đồng thời, cán bộ và nhân dân phê phán một số cấp ủy Đảng bao biện, làm thay cơ quan nhà nước, một số cán bộ, đảng viên vi phạm quyền làm chủ tập thể của nhân dân, vi phạm pháp luật Nhà nước. Do đó, quần chúng yêu cầu các cấp uỷ Đảng phát huy vai trò của cơ quan chính quyền các cấp, không bao biện, làm thay chính quyền, phải sử dụng chính quyền và phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, làm gương trong việc thi hành Hiến pháp và pháp luật; ngăn chặn những hành động độc đoán, chuyên quyền; xử lý nghiêm minh những cán bộ, đảng viên biến chất, lợi dụng chức vụ và quyền hạn của Đảng và Nhà nước giao cho để ức hiếp quần chúng. 2. Nhiều người quan tâm sâu sắc việc thể hiện rõ quyền làm chủ tập thể của nhân dân, nhất là ở cơ sở, và đề nghị quy định rõ hơn vấn đề thực quyền của các cơ quan dân cử và của đại biểu nhân dân trong các cơ quan đó. Trong thực tế, hiện nay không ít cơ quan dân cử hoạt động một cách hình thức. Nhân dân mong muốn có những biện pháp có hiệu lực để bảo đảm cho các cơ quan dân cử thật sự là cơ quan quyền lực nhà nước ở các cấp, có thực quyền và hoạt động có hiệu quả; khắc phục những hiện tượng không đúng là nhiều Uỷ ban nhân dân đã vượt quyền Hội đồng nhân dân, khiến cho Hội đồng nhân dân không thể làm đúng chức năng của nó; đồng thời, quần chúng yêu cầu có những biện pháp cụ thể nhằm tạo điều kiện cho các đại biểu quan hệ mật thiết với các cử tri, phản ánh kịp thời ý kiến của quần chúng với các cơ quan nhà nước, làm cho những ý kiến xác đáng của quần chúng nhanh chóng được tiếp thụ và thực hiện. 3. Vấn đề hiệu lực của bộ máy nhà nước và pháp chế xã hội chủ nghĩa cũng là một vấn đề nổi lên trong cuộc thảo luận Dự thảo Hiến pháp. Nhiều ý kiến phê bình các biểu hiện quan liêu, cửa quyền của cơ quan nhà nước và đặc biệt lưu ý tình hình bộ máy nhà nước ngày càng cồng kềnh, nhưng hiệu lực giảm sút; giấy tờ trở thành tệ nạn và gây rất nhiều phiền hà cho nhân dân; pháp luật xã hội chủ nghĩa đã thiếu lại chồng chéo nhau và việc thi hành pháp luật bị buông lỏng. Nhân dân yêu cầu chấn chỉnh biên chế, tinh giản bộ máy hành chính, tăng cường hiệu lực của các cơ quan nhà nước; tổ chức hợp lý, sử dụng và bố trí cán bộ đúng chỗ, đúng việc; đồng thời, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công tác xây dựng pháp luật và kiên quyết thi hành pháp luật. 4. Cán bộ và nhân dân tán thành Dự thảo Hiến pháp khẳng định Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước chuyên chính vô sản. Nhiều ý kiến phê bình Nhà nước ta buông lỏng chuyên chính, trừng trị không nghiêm bọn phản cách mạng, bọn bóc lột không chịu cải tạo, bọn lưu manh, côn đồ, bọn ăn cắp, đầu cơ, buôn lậu, phe phẩy. Nhưng nhiều cấp uỷ Đảng và cơ quan nhà nước lại không phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, không tôn trọng quyền làm chủ tập thể của nhân dân. Nhân dân tỏ ý bất bình với những cán bộ quan liêu, hách dịch, độc đoán, chuyên quyền, tham ô, hối lộ, móc ngoặc, ức hiếp quần chúng (trong đó có cả cán bộ công an và cán bộ quân đội) mà không bị trừng trị hoặc trừng trị quá nhẹ. Nhiều ý kiến được đề xuất vượt ra ngoài phạm vi Dự thảo Hiến pháp, phản ánh nguyện vọng của nhân dân mong muốn Đảng và Nhà nước ta có những biện pháp cứng rắn để khắc phục tình trạng nói trên. 5. Về các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cán bộ và nhân dân cho rằng Dự thảo Hiến pháp đề ra như thế là rõ ràng, chỉ đề nghị bổ sung một số điểm cụ thể cần thiết, như các vấn đề: quốc tịch; quyền của công dân được bảo hộ lao động, được chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ, được toà án bảo vệ khi tự do cá nhân, danh dự và nhân phẩm bị đe doạ hoặc bị xâm phạm; các cơ quan nhà nước giải quyết nhanh chóng các khiếu tố, v.v.. Nhân dân yêu cầu Nhà nước bảo đảm những điều kiện chính trị, vật chất, văn hoá để nhân dân được hưởng thật sự những quyền đã ghi trong Hiến pháp. Trên đây là những ý kiến lớn mà Uỷ ban Dự thảo Hiến pháp nhận là đúng và đã chú ý tiếp thụ trong khi chỉnh lý Dự thảo Hiến pháp. Dưới đây, tôi xin báo cáo một số ý kiến mà Uỷ ban dự thảo Hiến pháp thấy không thể tiếp thụ hoặc không nên đưa vào Hiến pháp: 1. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đề nghị có một điều riêng quy định về đoàn thể mình ở Chương I. Dự thảo Hiến pháp chỉ có một điều riêng về Tổng Công đoàn Việt Nam, tổ chức quần chúng rộng lớn nhất của giai cấp công nhân, có vị trí là "trường học của chủ nghĩa cộng sản" và được Nhà nước giao cho nhiệm vụ trực tiếp quản lý đời sống của nhân dân lao động trong một phạm vi nhất định. Đó là điều cần thiết và thích hợp với Hiến pháp một nước xã hội chủ nghĩa. Thanh niên có vị trí rất quan trọng trong cách mạng. Đảng ta đã tổ chức ra Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, coi đó là lực lượng hậu bị và cánh tay của Đảng. Vai trò của Đoàn trong đời sống xã hội, quyền và nghĩa vụ của thanh niên đã được nêu đầy đủ ở các Điều 40, 65, 85 và 105. Riêng Điều 65 nhấn mạnh trách nhiệm của Nhà nước và xã hội đối với thanh niên và vai trò "xung kích" của thanh niên trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, không cần có một điều riêng về Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh ở Chương I. 2. Có ý kiến đề nghị ghi rõ năm thành phần kinh tế vào Dự thảo Hiến pháp. Nước ta hiện nay đang ở trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế của ta đang thay đổi không ngừng theo đà phát triển của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và cải tạo xã hội chủ nghĩa. Vả lại, về thành phần kinh tế, hai miền Nam, Bắc không đồng nhất, không giống nhau: miền Bắc chỉ còn ba thành phần, miền Nam hiện có năm thành phần. Hiến pháp là luật cơ bản của cả nước, phải nói những điều chung cho cả nước, có giá trị trong một thời gian tương đối dài. Do đó, vấn đề năm thành phần kinh tế ở miền Nam tuy là một vấn đề quan trọng, nhưng không nên đưa vào Hiến pháp. 3. Có ý kiến cho rằng trong những điều quy định về quyền công dân, như quyền tự do đi lại và cư trú, quyền tự do ngôn luận, v.v., có ghi câu "theo quy định của pháp luật" hoặc "phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã hội và của nhân dân", v.v., như thế dễ gây ấn tượng là Hiến pháp hạn chế quyền công dân hoặc "cho tay này, lấy lại tay kia". ở nước ta, nhân dân nắm chính quyền, làm chủ đất nước; nhân dân bầu ra Quốc hội, Quốc hội quyết định Hiến pháp. Tất cả những điều khoản trong Dự thảo Hiến pháp cốt nhằm bảo đảm quyền làm chủ tập thể của nhân dân để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa thắng lợi, làm cho nước nhà giàu mạnh, nhân dân tự do, hạnh phúc. Trong các điều quy định về quyền công dân, như quyền tự do đi lại và cư trú, quyền tự do ngôn luận, v.v., cần ghi thêm "theo quy định của pháp luật" hoặc "phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã hội và của nhân dân". Điều đó không ngoài mục đích là đề phòng kẻ địch và những phần tử xấu lợi dụng làm thiệt hại đến lợi ích của chủ nghĩa xã hội, đến lợi ích cơ bản và lâu dài của nhân dân. Đó là một việc hoàn toàn hợp lý và cần thiết, chỉ có lợi cho nhân dân và hại cho kẻ thù của nhân dân. 4. Có ý kiến đề nghị cân nhắc xem có nên ghi trong Hiến pháp những quyền mà trước mắt hoặc trong một tương lai gần, ta chưa có khả năng thực hiện đầy đủ hay không? Ví dụ: quyền tự do cư trú, quyền tự do đi lại, quyền có nhà ở. Các quyền tự do cư trú, tự do đi lại đã được ghi trong Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959. Do hoàn cảnh của nước ta trước đây có chiến tranh (và ngày nay nguy cơ chiến tranh cũng chưa chấm dứt), cho nên ta chưa thực hiện được đầy đủ các quyền đó. Nhưng đây là những quyền cơ bản của nhân dân, trong điều kiện hiện nay vẫn cần và có thể thực hiện một phần, và khi nào tình hình cho phép, các quyền đó sẽ được thực hiện đầy đủ. Quyền có nhà ở cũng là một quyền cơ bản nữa của nhân dân. Để thực hiện quyền đó, tất nhiên chúng ta phải phấn đấu trong một thời gian dài. Nhưng ngay trước mắt, dù có khó khăn, Nhà nước và nhân dân ta vẫn phải thực hiện từng bước quyền có nhà ở. 5. Tổ chức chính quyền nội thành các thành phố trực thuộc trung ương nên chia làm hai hay là ba cấp? Vấn đề này đã được thảo luận nhiều. Uỷ ban dự thảo Hiến pháp đã tổ chức hội nghị gồm đại diện của Uỷ ban nhân dân các Thành phố Hà Nội, Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Nam Định, Đà Nẵng, Huế, Cần Thơ, đại diện của Ban Tổ chức Trung ương, Phủ Thủ tướng và Văn phòng Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, để trưng cầu ý kiến. Nghiên cứu ý kiến phát biểu ở hội nghị nói trên thì thấy: tổ chức chính quyền thành phố chia làm hai cấp là xu hướng chung của việc tổ chức quản lý các thành phố hiện đại; nhưng tình hình các thành phố của ta hiện nay còn nhiều khó khăn, phức tạp và thiếu các phương tiện hiện đại để quản lý một cách nhạy bén và tập trung cao; trình độ quản lý thành phố của cán bộ ta còn bị hạn chế nhiều. Vì vậy, Dự thảo Hiến pháp quy định tổ chức chính quyền nội thành các thành phố trực thuộc trung ương chia làm ba cấp để cho cán bộ đủ sức quản lý và đi sát nhân dân, bảo đảm quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động ở cơ sở. 6. Có ý kiến đề nghị nên có Chủ tịch Hội đồng nhân dân hoặc cơ quan thường trực của Hội đồng nhân dân để đề cao vai trò của Hội đồng nhân dân và bảo đảm cho Hội đồng nhân dân hoạt động thật sự. Dự thảo Hiến pháp đã xác định mối quan hệ khăng khít giữa Hội đồng nhân dân với Uỷ ban nhân dân. Uỷ ban nhân dân thực chất cũng là cơ quan thường trực của Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thực chất là Chủ tịch Uỷ ban Thường trực của Hội đồng nhân dân. Nếu thêm Chủ tịch của Hội đồng nhân dân hoặc bầu Uỷ ban thường trực của Hội đồng nhân dân thì vô hình chung lại tách rời Hội đồng nhân dân với Uỷ ban nhân dân. Vấn đề là phải thi hành nghiêm chỉnh những điều quy định của Hiến pháp và pháp luật về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, nâng cao nhận thức tư tưởng, năng lực và phương pháp công tác của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, phát huy vai trò và đẩy mạnh hoạt động của Hội đồng nhân dân, nhất là trên cơ sở thi hành Hiến pháp mới, các cấp uỷ Đảng chuyển biến về nhận thức, tư tưởng đối với Hội đồng nhân dân - chứ không phải bầu thêm Chủ tịch, các Phó chủ tịch hoặc bầu Uỷ ban thường trực của Hội đồng nhân dân thì mới giải quyết được vấn đề. Trên tinh thần bảo đảm cho Hội đồng nhân dân hoạt động thiết thực, phát huy tác dụng cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, Dự thảo Hiến pháp quy định: Hội đồng Nhà nước "giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp nhằm phát huy chức năng cơ quan đại biểu nhân dân của Hội đồng nhân dân" (Điều 99, điểm 9). Hội đồng bộ trưởng "bảo đảm cho Hội đồng nhân dân các cấp thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương" (Điều 106, điểm 14). "Uỷ ban nhân dân tạo điều kiện cho các đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động - Chủ tịch Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm điều hoà, phối hợp hoạt động của các ban do Hội đồng nhân dân lập ra" (Điều 124). Trên đây là những vấn đề lớn trong cuộc thảo luận Dự thảo Hiến pháp mà Uỷ ban Dự thảo Hiến pháp đã tiếp thụ hoặc không tiếp thụ vì lý do này hoặc lý do khác, cần báo cáo để Trung ương xem xét. Ngoài ra, còn một số ý kiến được đề ra trong cuộc thảo luận Dự thảo Hiến pháp thuộc về biên tập hoặc bố cục của Hiến pháp, không thuộc về nội dung, cho nên tôi không nêu trong Báo cáo này. IV- Những việc phải làm để bảo đảm cho hiến pháp mới được thi hành nghiêm chỉnh Thưa các đồng chí, Xây dựng được một bản Hiến pháp tốt là một điều rất quan trọng. Nhưng Hiến pháp chỉ thật sự có giá trị khi nó tác động mạnh vào tư tưởng và hành động hàng ngày của quần chúng, và được các tổ chức Đảng, các cơ quan nhà nước, các đoàn thể nhân dân và mọi công dân nghiêm chỉnh thi hành. Đông đảo cán bộ và nhân dân mong muốn Hiến pháp mới được ban hành sớm. Nhiều người tự hỏi: Hiến pháp mới có được nghiêm chỉnh thi hành không? những hiện tượng tiêu cực trái với Hiến pháp có được kiên quyết sửa chữa không? Nhân dân ta có truyền thống lâu đời đoàn kết, yêu nước, cùng hy sinh phấn đấu để xây dựng và bảo vệ nước nhà. Từ khi Đảng ta ra đời, nhân dân ta một lòng tin yêu Đảng, vì dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng, nhân dân ta đã giành được độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Nhân dân ta tha thiết với chính quyền cách mạng và Hiến pháp của Nhà nước, những cái bảo đảm cho mình quyền làm chủ tập thể và lợi ích thiết thân hàng ngày. Nhưng mặt khác, trong nền kinh tế nước ta, sản xuất nhỏ là phổ biến; tính tự do, tản mạn còn khá nặng nề trong nhân dân. Quần chúng nước ta chưa quen sống theo pháp luật; tính vô tổ chức, vô kỷ luật còn khá phổ biến trong xã hội ta. Đó là mặt thuận lợi và mặt không thuận lợi cho việc thi hành Hiến pháp. Chúng ta cần phải thấy cả hai mặt đó để giáo dục, vận động nhân dân ra sức phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Không phải có Hiến pháp mới là tự nhiên nó được thi hành. Việc thi hành Hiến pháp là một quá trình đấu tranh lâu dài, trên nhiều lĩnh vực: chính trị, hành chính, kinh tế, pháp luật, tư tưởng và văn hoá, kết hợp giáo dục chính trị cho cán bộ và nhân dân với đấu tranh chống địch phá hoại, chống tiêu cực, chống các tệ nạn xã hội. Đảng và Nhà nước có lãnh đạo chặt chẽ việc thi hành Hiến pháp thì Hiến pháp mới mang lại hiệu quả thiết thực. Đề nghị Trung ương xem xét và quyết định những công tác dưới đây để có thể triển khai ngay sau khi Hiến pháp mới được ban hành. 1. Những việc cần làm để bảo đảm cho Hiến pháp được thi hành nghiêm chỉnh. a) Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục về Hiến pháp và pháp luật trong cán bộ và nhân dân. Đây là một công tác cấp bách có tác dụng quan trọng trước mắt và lâu dài. Trong nhiều năm qua, công tác tuyên truyền, giáo dục Hiến pháp, pháp luật bị lơ là. Lần này Hiến pháp mới được Quốc hội thông qua sẽ trở thành luật cơ bản của Nhà nước mà mọi người dân đều phải nghiêm chỉnh thi hành. Để phát huy thắng lợi của việc ban hành Hiến pháp mới, cần tổ chức một đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng để học tập Hiến pháp và thảo luận việc thi hành Hiến pháp trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân và trong toàn dân; động viên nhân dân phê bình, nhận xét công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội và tự phê bình những thiếu sót của mình đối với Nhà nước; cán bộ, đảng viên liên hệ kiểm điểm, sửa chữa những việc làm sai trái như: ức hiếp quần chúng, tham ô, ăn cắp, hối lộ, móc ngoặc, không chấp hành nghiêm chỉnh chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Sau đợt tuyên truyền, giáo dục này, các Ban Tuyên huấn, Ban Dân vận và Mặt trận, Uỷ ban Pháp chế của Chính phủ có kế hoạch thường xuyên phổ biến và giải thích pháp luật trong nhân dân bằng các hình thức sách báo, phát thanh, truyền hình, nói chuyện, v.v.. Đưa việc học tập Hiến pháp và một số luật quan trọng hiện hành của nước ta vào chương trình giảng dạy của các trường đại học, trung học chuyên nghiệp, trường phổ thông cấp 3, các trường Đảng, trường Công đoàn và trường của các tổ chức xã hội khác. Sửa đổi chương trình giáo dục công dân ở trường phổ thông cho phù hợp với tinh thần và nội dung Hiến pháp mới. b) Đẩy mạnh công tác xây dựng pháp luật Sau khi có Hiến pháp, nhiều điều quy định trong Hiến pháp cần được cụ thể hoá bằng các luật. Trước mắt, Hội đồng Bộ trưởng, Uỷ ban Dự án pháp luật của Quốc hội, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao cần chuẩn bị gấp các luật về bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, các luật về tổ chức Quốc hội, Hội đồng Nhà nước, Hội đồng Bộ trưởng, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân. Quốc hội sẽ sớm thông qua các luật đó. Trong những năm tới, Quốc hội sẽ lần lượt thông qua các luật cụ thể hoá các điều khoản của Hiến pháp, như Luật quốc tịch, Luật ruộng đất, Luật lao động, Luật nghĩa vụ quân sự, Luật xét khiếu tố và các Luật hình sự và dân sự. Hội đồng Bộ trưởng và các cơ quan, đoàn thể hữu quan chịu trách nhiệm trước Trung ương về việc xây dựng và trình ra Quốc hội các dự án luật nói trên, bảo đảm trong vòng 5 năm, Quốc hội sẽ thông qua xong các đạo luật cần thiết. c) Kiện toàn bộ máy nhà nước, nhất là các cơ quan chuyên trách bảo vệ pháp chế Trong cuộc thảo luận Dự thảo Hiến pháp mới, nhân dân phê bình bộ máy nhà nước của ta cồng kềnh, quan liêu, kém hiệu lực. Chúng ta cần nghiêm chỉnh tiếp thụ ý kiến phê bình đó; nghiên cứu kỹ để kết hợp với việc tổ chức bộ máy nhà nước theo Hiến pháp mới mà kiện toàn các cơ quan, tăng cường chất lượng cán bộ, chấn chỉnh tổ chức, sửa đổi lề lối làm việc, bảo đảm cho bộ máy nhà nước tinh giản, gọn nhẹ mà lại phát huy được hiệu lực. Quốc hội và Hội đồng nhân dân phải hoạt động thật sự, xứng đáng là cơ quan quyền lực nhà nước ở trung ương và các cấp, đồng thời là cơ quan đại biểu của nhân dân có quan hệ chặt chẽ với cử tri. Toà án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân các cấp, Bộ Nội vụ, Uỷ ban Pháp chế, Uỷ ban Thanh tra của Chính phủ và Uỷ ban Dự án pháp luật của Quốc hội cần được kiện toàn, đồng thời phải xây dựng tổ chức pháp chế của các bộ, các Uỷ ban Nhà nước, v.v. với nhiệm vụ giúp các cơ quan đó đề ra sáng kiến pháp luật và thi hành đúng Hiến pháp và pháp luật. d) Tăng cường đào tạo cán bộ pháp lý và cán bộ hành chính nhà nước các cấp. Trong những năm qua, công tác đào tạo cán bộ pháp lý và cán bộ hành chính nhà nước không được chú ý. Phần lớn cán bộ chính quyền chưa được bồi dưỡng về nghiệp vụ pháp lý và hành chính, cho nên họ thường vi phạm nguyên tắc, thể lệ của Nhà nước; giải quyết công việc một cách tuỳ tiện, độc đoán, luộm thuộm, lôi thôi không thể tưởng tượng được! Sau 34 năm giành chính quyền, ta mới mở Trường đại học Pháp lý Hà Nội. Đó là một sự chậm trễ mà càng ngày càng thấy hậu quả tai hại. Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Uỷ ban Pháp chế của Chính phủ và các cơ quan hữu quan cần giúp cho Trường đại học Pháp lý ổn định tổ chức và giảng dạy có chất lượng. Chính phủ cần chấn chỉnh trường hành chính hiện nay thành trung tâm đào tạo cán bộ hành chính nhà nước. Ngoài hệ thống đào tạo chính quy, cần tổ chức các lớp tại chức, các lớp bổ túc nhằm tăng nhanh đội ngũ cán bộ pháp lý và hành chính nhà nước các cấp. Kết hợp việc đào tạo cán bộ pháp lý và hành chính ở trong nước với việc đào tạo cán bộ pháp lý và hành chính ở một số nước xã hội chủ nghĩa anh em. đ) Tăng cường giám sát, kiểm tra việc thi hành Hiến pháp và pháp luật; xử lý nghiêm minh các việc làm trái với Hiến pháp và pháp luật Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật phổ biến và kéo dài là công tác giám sát, kiểm tra việc thi hành pháp luật chưa được chặt chẽ, việc xử lý các vụ vi phạm pháp luật không được nghiêm minh và kịp thời. Quốc hội và Hội đồng nhân dân cần thực hiện đầy đủ chức năng giám sát và kiểm tra việc tuân theo pháp luật của các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội. Công đoàn và các tổ chức xã hội khác căn cứ vào điều lệ của đoàn thể mình mà tích cực tham gia giám sát, kiểm tra việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật của các cơ quan nhà nước và của nhân dân. Cần phát huy hiệu lực của các cơ quan kiểm sát và thanh tra nhà nước, đồng thời tăng cường công tác thanh tra nhân dân. Công an nhân dân, Toà án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân các cấp phải làm tròn nhiệm vụ phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh các việc làm trái với Hiến pháp và pháp luật. Chấn chỉnh gấp công tác xét các khiếu tố của nhân dân; khắc phục tình trạng để ứ đọng, đùn đẩy, không giải quyết kịp thời các vụ khiếu tố, và những người bị thiệt thòi, bị áp bức không biết kêu vào đâu. 2. Sự lãnh đạo thường xuyên và chặt chẽ của Đảng đối với việc thi hành Hiến pháp và pháp luật Thưa các đồng chí , Hiến pháp và các luật là những văn bản thể chế hoá, "Nhà nước hoá" đường lối, chính sách của Đảng. Việc nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật có ý nghĩa rất quan trọng đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, do đó, cần được sự quan tâm lãnh đạo thường xuyên và chặt chẽ của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và của Đảng uỷ các cấp. Mọi điều quan tâm đặc biệt của cán bộ và nhân dân ta hiện nay là: Hiến pháp mới sẽ được thi hành như thế nào? Nhiều nơi, quần chúng băn khoăn, lo lắng trước tình hình pháp luật, kể cả Hiến pháp, không được tôn trọng đầy đủ, không được nghiêm chỉnh thi hành, hiệu lực của cơ quan nhà nước không nhiều, quyền công dân bị vi phạm nghiêm trọng. Tình trạng ấy các cơ quan Đảng và Nhà nước đã thấy rõ, nhưng khắc phục rất chậm. Vì vậy, đề nghị Hội nghị Trung ương lần này dành thì giờ thích đáng để bàn việc lãnh đạo thi hành Hiến pháp, có quyết định rõ về những biện pháp bảo đảm cho Hiến pháp được thi hành. Thi hành Hiến pháp là nhiệm vụ của toàn thể nhân dân, của tất cả các tổ chức Đảng và Nhà nước, các tổ chức xã hội trong hệ thống chuyên chính vô sản do Đảng lãnh đạo. Thi hành Hiến pháp là một quá trình phấn đấu lâu dài, nhưng Hiến pháp lại phải bắt đầu thi hành ngay sau khi được Quốc hội biểu quyết và được chính thức công bố. Hiện nay, pháp chế xã hội chủ nghĩa của chúng ta còn thiếu sót nhiều, trình độ hiểu biết và ý thức tuân theo pháp luật của cán bộ và nhân dân còn thấp, hiệu lực của bộ máy nhà nước còn bị hạn chế. Trong tình hình ấy, phải nhấn mạnh vai trò và trách nhiệm lãnh đạo của các tổ chức Đảng, trước hết là các cấp uỷ Đảng, từ Ban Chấp hành Trung ương đến Đảng uỷ cơ sở, đối với việc thi hành Hiến pháp và pháp luật. Các cấp uỷ Đảng có thật sự tôn trọng Hiến pháp và pháp luật, cải tiến và nâng cao sự lãnh đạo đối với công tác nhà nước, thì việc thi hành Hiến pháp mới có kết quả tốt, mới đáp ứng được lòng mong mỏi của nhân dân. Các cấp uỷ Đảng phải làm gì để bảo đảm thi hành Hiến pháp và pháp luật? Nhà nước xã hội chủ nghĩa là người tổ chức và quản lý mọi mặt đời sống xã hội, do đó cũng là người tổ chức thực hiện các điều quy định trong Hiến pháp. Nếu cơ quan nhà nước không mạnh, hoạt động không có hiệu lực, thì Hiến pháp, pháp luật không thực hiện được tốt. Vì vậy, xây dựng và tăng cường Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng cầm quyền. Các cấp ủy Đảng phải thường xuyên chăm lo việc xây dựng các cơ quan nhà nước, cải tiến phương thức lãnh đạo của mình, thật sự tôn trọng nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước, không xem nhẹ các cơ quan dân cử, không bao biện, làm thay các cơ quan chính quyền. ở một địa phương, nếu có tình trạng các cơ quan chính quyền nhà nước hoạt động không có hiệu lực, thì về mặt lãnh đạo, cấp uỷ Đảng phải chịu trách nhiệm. Hiến pháp và pháp luật được thi hành thông qua các quyết định, nghị định, chỉ thị cụ thể của Chính phủ. Là người lãnh đạo thi hành Hiến pháp và pháp luật, Trung ương Đảng cần lãnh đạo, kiểm tra việc chuẩn bị, ban hành và thực hiện các quyết định, nghị định, chỉ thị cụ thể đó. Phải nghiêm cấm việc tuỳ tiện định ra những quy định, thể lệ trái với Hiến pháp và pháp luật, những việc làm vi phạm quyền công dân, quyền làm chủ tập thể của nhân dân. Trung ương và Chính phủ cần có thái độ nghiêm khắc đối với cơ quan lãnh đạo và cán bộ lãnh đạo các cấp, các ngành phạm khuyết điểm nặng trong việc thi hành Hiến pháp và pháp luật. Cấp uỷ Đảng phải trực tiếp lãnh đạo công tác tuyên truyền, giáo dục trong Đảng và trong nhân dân về nội dung của Hiến pháp và có trách nhiệm trong việc thi hành Hiến pháp. Đối với cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ cao cấp và trung cấp của Đảng, phải giáo dục sâu về vấn đề Nhà nước và pháp quyền theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, về vai trò lãnh đạo và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, về trách nhiệm lãnh đạo thi hành Hiến pháp mới, v.v.. Trong tình hình hiện nay, để động viên cán bộ và nhân dân phấn khởi, tin tưởng và hăng hái thi hành Hiến pháp, việc tuyên truyền, giải thích về Hiến pháp phải đi đôi với việc phê phán, xử phạt những tổ chức và cá nhân cố ý làm sai Hiến pháp và pháp luật, với việc khắc phục có hiệu quả những khuyết điểm về quản lý kinh tế, quản lý xã hội, đặc biệt là phải cải tiến công tác kinh tế, thực hiện ổn định và cải thiện đời sống của nhân dân. * * * Thưa các đồng chí, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần này có ý nghĩa lịch sử. Hội nghị sẽ cho ý kiến để hoàn chỉnh Dự thảo Hiến pháp. Căn cứ vào ý kiến kết luận ở Hội nghị, Dự thảo Hiến pháp sẽ được chỉnh lý lần nữa và trình Quốc hội xem xét và quyết định thành Hiến pháp chính thức của nước ta. Hiến pháp mới ra đời là một sự kiện quan trọng cùng với ba ngày kỷ niệm lớn đánh dấu năm 1980 đáng ghi nhớ này. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta sẽ sử dụng Hiến pháp mới làm vũ khí sắc bén để đấu tranh giành những thắng lợi rực rỡ hơn nữa trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. - Nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa muôn năm! - Đảng Cộng sản Việt Nam, người tổ chức mọi thắng lợi của nhân dân Việt Nam muôn năm! - Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp cách mạng của chúng ta!

Lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng.

  • Tweet
Tags:

Phản hồi

Ý kiến của bạn:(Không quá 1000 ký tự) Còn lại: 1000 ký tự

Thông tin người gửi phản hồi

  • Họ và tên*
  • Email*
  • Mã bảo vệ*

Các tin khác

  • Đề cương phát biểu ý kiến của đồng chí Tổng bí thư Lê Duẩn trong buổi kết thúc Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng (ngày 10/12/1980)
  • Báo cáo về kế hoạch nhà nước năm 1981
  • Bài nói của đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn tại Hội nghị lần thứ tám ban Chấp hành Trung ương Đảng
  • Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 20/10/1980, Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành trung ương Đảng (khoá IV)
  • Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 20/9/1979, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng về phương hướng, nhiệm vụ phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp địa phương
  • Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 20/9/1979, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tình hình và nhiệm vụ cấp bách
  • Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 25/12/1978, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng về nhiệm vụ kinh tế năm 1979
  • Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 27/7/1978, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng về kiện toàn tổ chức, cải tiến chế độ làm việc, đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới
  • Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 7/1/1978, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IV) về nhiệm vụ kinh tế năm 1978
  • Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 19/8/1977, Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương đảng (khoá IV)
Chủ trương, chính sách mới

Ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng

(ĐCSVN) - Ngày 10/10, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký Quyết định số 190-QĐ/TW về việc ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng.

Kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công

(ĐCSVN) - Bộ Chính trị vừa ban hành Quy định số 189-QĐ/TW ngày 08/10/2024 về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công.

Bộ Chính trị ban hành quy định phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong điều tra, xét xử

(ĐCSVN) – Ngày 27/10/2023, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 132-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Tập trung tuyên truyền những chủ đề lớn, trọng tâm từ nay đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng

(ĐCSVN) - Ban Tuyên giáo Trung ương yêu cầu thông tin chính xác, kịp thời với nhiều hình thức linh hoạt, sáng tạo, phong phú, sinh động gắn với tuyên truyền đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và tuyên truyền kỷ niệm các ngày lễ lớn, sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước trong năm 2024, 2025.

Quy trình kỷ luật đảng viên thuộc thẩm quyền của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

(ĐCSVN) - Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường vừa ký Quyết định số 165-QĐ/TW ngày 6/6/2024 của Bộ Chính trị ban hành Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật đối với tổ chức Đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Tư liệu văn kiện Đảng
  • Lịch sử Đảng
  • Đảng kỳ
  • Điều lệ Đảng
  • Sách chính trị
  • Văn kiện Đảng toàn tập
  • Giới thiệu văn kiện Đảng
  • Văn kiện Đại hội Đảng
  • Hội nghị BCH Trung ương
Hồ sơ - Sự kiện - Nhân chứng
  • Phong trào cộng sản, công nhân quốc tế Phong trào cộng sản, công nhân quốc tế
  • Các nước, vùng lãnh thổ Các nước, vùng lãnh thổ
  • Tổ chức quốc tế Tổ chức quốc tế
  • Luật quốc tế Luật quốc tế
  • Sự kiện và nhân chứng Sự kiện và nhân chứng
Liên kết website Liên kết website Cổng Thông tin điện tử Chính phủ Cổng Thông tin điện tử Quốc hội Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam Trang tin điện tử Hồ Chí Minh Báo Nhân dân Tạp chí Cộng sản Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật CƠ QUAN CHỦ QUẢN: BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG. © 2018 Bản quyền thuộc Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam Địa chỉ: 381 Đội Cấn, Ba Đình, Hà Nội Điện thoại: 08 048161 / 08 048160 / 08 048458 - Fax: 08 044175 Email: dangcongsan@cpv.org.vn Giấy phép số: 373/GP-BTTTT của Bộ Thông tin và Truyền thông Thiết kế bởi Acomm Chịu trách nhiệm nội dung: Tổng Biên tập: Nguyễn Công Dũng Phó Tổng Biên tập Thường trực: Đỗ Thị Thu Hiên Phó Tổng Biên tập: Phạm Đức Thái Ủy viên Ban Biên tập: Vũ Diệu Thu; Lương Thị Thanh Hoa; Nguyễn Thị Mai Phương

Từ khóa » Bản Dự Thảo Hiến Pháp Của Cộng Hòa Nam Phi được Thông Qua Vào