Bệnh Cúm Lợn (cúm Heo) Trong Chăn Nuôi Công Nghiệp (Swine ...

Virus cúm lợn (cúm heo) typ A hay gọi tắt là cúm lợn (cúm heo) là một trong những nguyên nhân quan trọng gây ra bệnh hô hấp cấp tính ở heo ở mọi lứa tuổi và tất cả các mùa nào trong năm. Trong trường hợp không có kế phát, bệnh nhẹ, heo tự khỏi bệnh sau khoảng 7 ngày. Độc lực của virus cúm lợn được xác định bởi khả năng xâm nhập vào các mô, mức độ nghiêm trọng của bệnh và khả năng lây lan của virus vào những đàn heo mẫn cảm với bệnh cúm lợn.

Heo con cai sữa thường là đối tượng phát tán mầm bệnh cúm heo
Heo con cai sữa thường là đối tượng phát tán mầm bệnh cúm heo

Một số bệnh trên heo nguy hiểm khác

  • Phương pháp nào kiểm soát PRRS (bệnh tai xanh trên heo) hiệu quả?
  • Hội chứng tiêu chảy trên heo con và những điều có thể bạn chưa biết
  • Mối nguy hiểm của bệnh hô hấp phức hợp trên heo - PRDC.

Virus gây bệnh cúm lợn trên heo là chủ yếu là các chủng H1N1, H1N2, và H3N2. Trong đó, có những biến thể di truyền được tìm thấy rộng rãi trong các vùng khác nhau trên khắp thế giới, thường được gọi là di truyền hay tổ hợp di truyền. Chẳng hạn như nhóm virus H1N1 ở gia cầm đã xảy ra ở Tây Âu hay cổ điển như virus H1N1 tái tổ hợp 3α được biết ở Tây Canada.

Trong mỗi cụm di truyền ở tất cả các chủng, có những chủng có độc lực mạnh gây ra những biểu hiện bệnh điển hình (tỷ lệ mắc bệnh) và gây tử vong cao (tỷ lệ tử vong). Kể cả độc lực giữa các chủng virus là khác nhau, tuy nhiên các cơ chế cơ bản của bệnh cúm lợn vẫn không thay đổi. Tác nhân gây bệnh được tạo bởi các liên kết của protein Hemagglutinin trên bề mặt của virus với các phân tử đường axit Sialic trên bề mặt của các tế bào biểu mô đường hô hấp. Đây là những tế bào nền niêm mạc mũi, khí quản và đường hô hấp của phổi (phế quản và tiểu phế quản) – virus thường tấn công vào những đường khí quản nhỏ.

Một khi virus gây bệnh cúm lợn thâm nhập được vào tế bào, nó sử dụng bộ máy di truyền của tế bào để nhân lân sau đó gây chết tế bào hoặc gây hoại tử của tế bào. Các tế bào hoại tử bong ra vào trong lòng của đường hô hấp và bị các thực bào tiêu diệt (chủ yếu là bạch cầu trung tính). Trong vòng 24 đến 48 giờ, các tổn thương vi thể và dấu hiệu của mủ viêm tiểu phế quản có thể thấy được.

Các tế bào biểu mô còn lại lan ra để bao phủ các màng nền (suy giảm). Trong khoảng 2-3 ngày tiếp theo các tế bào biểu mô bắt đầu nhân lên cho đến khi chúng gặp lớp trên cùng của nhau (hyperplasia). Trong vòng 5-7 ngày, virus đã ngừng tái tạo và các mô bắt đầu phục hồi. Các tế bào hoại tử và viêm nhiễm được giải phóng và các mô có thể trở lại bình thường trong vòng 14-21 ngày nhiễm virus gây bệnh cúm lợn.

Các tổn thương tổng thể có thể thấy trong phổi ở bệnh cúm lợn là những vùng hoại tử thể hiện cho tiểu thùy, những vùng đang bị tổn thương (lõm), đỏ sẩm, và cứng khi chạm vào. Đây là những vùng nơi mà các phế nang và các tiểu phế quản đã bị thoát không khí ra ngoài (tiểu thùy phổi xẹp) do sự tắc nghẽn gây ra bởi các tế bào hoại tử và tế bào viêm trong đường hô hấp (Hình 1b). So sánh với trạng thái bình thường (hình 1a).

Hình 1: Những biến đổi của nang phổi
Hình 1: Những biến đổi của nang phổi

(a): Đường hô hấp bình thường với phế quản dẫn vào phổi được hình thành bởi nhiều phế nang.

(b): Các phế quản được lấp đầy bởi các tế bào hoại tử và viêm (hoại mủ viêm tiểu phế quản) làm chặn luồng không khí và gây ra sự xì hơi của các phế nang hay còn gọi là xẹp phổi.

(c): Nhiễm khuẩn kế phát với các liên cầu khuẩn, tạo tiểu thùy bị gan hóa hợp nhất được lấp đầy vi khuẩn, tế bào viêm, phù nề chất dịch và các tế bào hoại tử thuộc về cuống phổi trong bệnh cúm lợn

.

Đây là những gì xảy ra trong trường hợp không có biến chứng. Trong trường hợp phức tạp, trong đường hô hấp của heo thường xuyên có các vi khuẩn gây bệnh cơ hội tồn tại. Nhiễm khuẩn kế phát với cúm lợn là Streptococcus suis, Pasteurella multocida, Haemophilus parasuis, Actinobacillus Suis, và Bordetella bronchiseptica.

Với những heo mắc cúm lợn ở một mức độ nhỏ, lỗ khí chứa đầy các tế bào viêm, các vi khuẩn đang phát triển và protein đi ra khỏi các mạch máu (edema) cùng với fibrin. Quá trình này được gọi là hợp nhất. Khi lỗ khí được lấp đầy dẫn tới vỏ ngoài phình to ra, ta thấy các tổn thương tổng thế đã sưng lên, chuyển từ đỏ sẫm sang màu tím, vùng đa giác chuyển sang nhục hóa.

Các tổn thương tổng thể do nhiễm virus cúm lợn không biến chứng và nhiễm khuẩn thứ phát thường xảy ra ở phần mặt bụng của phổi vì các khí quản và phế nang bị nhiễm. Với một con heo đứng, virus xâm nhập vào qua mũi và xuống khí quản. Khi virus chạm đến phổi, chúng xâm nhập vào rất nhiều nhánh (cây phế quản) do trọng lực tác động, điều này sẽ làm hầu hết các virus đi vào các phế quản nhỏ ở tận cùng của phổi thùy hoành. Hầu hết các tổn thương xảy ra ở thùy hoành và phần thùy phụ, nhưng những tổn thương này cũng có thể lan rộng đến các thùy đỉnh hay tới đuôi thùy phổi.

Ở những con được bảo hộ chặt chẽ từ hệ thống miễn dịch do chúng được tự miễn hay được tiêm vaccine phòng bệnh cúm lợn, nhiễm trùng trước đó hoặc các kháng thể mẹ truyền, các tổn thương mô do nhiễm virus cúm có thể được giảm thiểu. Điều này xảy ra khi các kháng thể được tạo ra đủ để trung hòa virus gây bệnh. Một kháng nguyên hoàn hảo là rất lý tưởng để giảm thiệt hại và giẩm các biểu hiện lâm sàng. Tuy nhiên, nếu virus giống nhau có phản ứng miễn dịch chéo, bệnh có thể được giảm xuống khoảng 2-4 ngày.

Bạn có muốn xem thêm ?
  • Cúm lợn - những thông tin cần lưu ý
  • Các bệnh trên heo thường gặp trong chăn nuôi công nghiệp
  • Bệnh Glasser - Hiểm họa thầm lặng trong chăn nuôi heo thịt.

VietDVM team biên dịch

Theo: Pig333

Từ khóa » Cúm Heo Trong Tiếng Anh Là Gì