Bệnh Quan Liêu Và Giải Pháp Khắc Phục Bệnh Quan Liêu Trong Công ...

1. Bản chất, đặc trưng của bệnh quan liêu trong công tác tổ chức cán bộ

Quan liêu, xét về bản chất là sự tha hóa quyền lực của cơ quan công quyền. Sự tha hóa này biểu hiện chủ yếu ở bên ngoài là hiện tượng giấy tờ, bộ máy cồng kềnh, nhiều tầng nấc trung gian và ở bên trong là tâm lý hám danh, chạy theo chủ nghĩa thành tích, chạy theo địa vị, chức quyền và lợi dụng địa vị chức quyền, lợi dụng sơ hở của cơ chế quản lý để mưu cầu lợi ích cá nhân dẫn tới lạm quyền và lộng quyền.

Bệnh quan liêu với các đặc trưng chủ yếu là “sự thống trị của bàn giấy”, xa quần chúng, xa thực tế, xa cuộc sống, chỉ chú ý đến hình thức, không chú ý đến bản chất của sự vật, lấy phương pháp mệnh lệnh hành chính thay cho phương pháp làm việc khoa học. Nói chung, cách làm việc như vậy thường không quan tâm đến hiệu quả của công việc.

Yếu tố thường xuyên ảnh hưởng đến tổ chức, bộ máy, đến năng lực của cán bộ là bệnh quan liêu. Chính căn bệnh này đã làm tê liệt bộ máy, vô hiệu hóa bộ máy, làm xói mòn đạo đức của một số cán bộ, đảng viên, làm rạn nứt mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng, làm cho nhân dân hiểu sai lệch về sự lãnh đạo của Đảng, bản chất nhà nước xã hội chủ nghĩa - một nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Suy cho cùng, bệnh quan liêu khi đã xâm nhập vào đội ngũ cán bộ, đảng viên sẽ là nguyên nhân gây nên mọi sự trì trệ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội hiện nay. Một trong những nguyên nhân của bệnh quan liêu là mất dân chủ, không thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ; chủ nghĩa cá nhân còn tồn tại trong một số cán bộ, công chức...

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã đề cập đến nhiệm vụ chống quan liêu như sau: Toàn Đảng, toàn dân ta đang kiên quyết khẩn trương thực hiện sự đổi mới về nhiều mặt thì việc khắc phục chủ nghĩa quan liêu là một vấn đề rất quan trọng.

Hiện nay, chủ nghĩa quan liêu là căn bệnh khá phổ biến. Nó thể hiện ở ý thức phục vụ nhân dân giảm sút, phong cách công tác xa rời thực tế, không sát cơ sở, lề lối làm việc giấy tờ phiền hà, hình thức phô trương, tổ chức bộ máy cồng kềnh...

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng khi đề cập đến các nguy cơ cũng chỉ rõ: “... Chệch hướng xã hội chủ nghĩa và quan liêu, tham nhũng vẫn đang thật sự là những nguy cơ lớn. Tệ quan liêu, tham nhũng và suy thoái về phẩm chất, đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên làm cho bộ máy đảng và nhà nước suy yếu, lòng tin của nhân dân đối với Đảng, đối với chế độ bị xói mòn, các chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước bị thi hành sai lệch dẫn tới chệch hướng đó là mảnh đất thuận lợi cho diễn biến hòa bình...”(1) .

Từ những nhận định trên, Đảng ta đã chủ trương đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng: “... Tiến hành đấu tranh kiên quyết, thường xuyên và có hiệu quả chống tệ tham nhũng trong bộ máy nhà nước, trong các ngành, các cấp từ trung ương đến cơ sở. Kết hợp những biện pháp cấp bách với những giải pháp có tầm chiến lược nhằm vừa hoàn thiện cơ chế, chính sách, kiện toàn tổ chức, chấn chỉnh công tác quản lý, khắc phục sơ hở vừa xử lý nghiêm, kịp thời mọi vi phạm, tội phạm, huy động và phối hợp chặt chẽ mọi lực lượng đấu tranh nhằm ngăn chặn, đẩy lùi và loại trừ tệ tham nhũng. Đấu tranh chống tham nhũng phải gắn với đấu tranh chống buôn lậu, lãng phí, quan liêu; tập trung vào các hành vi lợi dụng chức quyền tham ô, làm thất thoát tài sản nhà nước, nhận hối lộ; chú ý những lĩnh vực trọng điểm như đất đai, nhà ở, xây dựng cơ bản, hợp tác đầu tư, tài chính, ngân hàng, xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh, hải quan, hoạt động tư pháp, quản lý tài sản công, quản lý vốn trong các doanh nghiệp nhà nước...”.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX cũng chỉ ra: “Tăng cường về tổ chức và cơ chế, tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng trong bộ máy nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị, ở các cấp, các ngành, từ trung ương đến cơ sở. Gắn chống tham nhũng với chống lãng phí, quan liêu, buôn lậu, đặc biệt chống các hành vi lợi dụng chức quyền để làm giàu bất chính”(2) .

Trong những năm qua, quan liêu, tham nhũng là vấn đề lớn, được sự quan tâm của toàn Đảng, toàn dân. Đây cũng là nội dung quan trọng trong các Hội nghị Trung ương các nhiệm kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng gần đây. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 9, khóa X đã chỉ ra nhiệm vụ, giải pháp khắc phục tình trạng này là: “Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, quan liêu… Tập trung rà soát, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách; thực hiện nghiêm các quy định của Đảng, Nhà nước về phòng, chống tham nhũng, lãng phí…(3).

Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4, khóa XI cũng đã chỉ rõ: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...”(4) .

Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 7 khóa XII khẳng định quan điểm: “ Chuẩn hóa, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với xây dựng thể chế, tạo môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, phát huy sáng tạo và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung. Phân công, phân cấp gắn với giao quyền, ràng buộc trách nhiệm, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực và xử lý nghiêm minh sai phạm”(5).

Công tác tổ chức - cán bộ cũng là một trong những lĩnh vực biểu hiện rõ nhất đặc trưng của bệnh quan liêu:

Thứ nhất, vừa thiếu dân chủ, độc đoán chuyên quyền, vừa tùy tiện vô trách nhiệm; vừa tập trung quan liêu, vừa phân tán tự do vô tổ chức, vô kỷ luật.

Bên cạnh những mặt tích cực trong việc phát huy dân chủ, thực hiện dân chủ, trong thời gian qua, ở nước ta, một số nơi, dân chủ đã bị biến dạng trở thành sự tùy tiện tự do vô tổ chức, vô kỷ luật, quyền lực nhà nước bị một số người lợi dụng vào mục đích cá nhân. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý không còn là những người đầy tớ trung thành của nhân dân mà trở thành những người hách dịch, cửa quyền độc đoán. Trong việc điều hành, quản lý, một số cán bộ trong bộ máy nhà nước thay vì phải đi sâu, đi sát cơ sở, gắn bó với thực tiễn, với nhân dân thì họ quản lý chủ yếu qua chỉ thị, mệnh lệnh, xa rời thực tế. Phương thức quản lý này không hẳn do năng lực yếu kém mà còn là hậu quả của mẫu hình tư duy theo cơ chế kế hoạch tập trung trước đây để lại đã dẫn họ tới việc quản lý xã hội một cách độc đoán, chủ quan mệnh lệnh, áp đặt cản trở quá trình phát triển dân chủ.

Thứ hai, bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều tầng nấc trung gian chồng chéo, tệ giấy tờ, hình thức, trọng đẳng cấp và địa vị, xa rời thực tế.

Ngay từ những năm đầu của chính quyền Xô viết, V.I.Lênin đã chỉ ra rằng: “Bộ máy của chúng ta còn nhiều thiếu sót, nhiều hiện tượng xấu vì nó đã bị tệ quan liêu tiêm nhiễm nhiều, rất nhiều”(6). Khi bị nhiễm bệnh quan liêu thì rất thích tổ chức ra một bộ máy nhiều phòng, ban. Vì theo họ có nhiều phòng, ban mới thêm tai, thêm mắt để không cần đi xuống cơ sở, chỉ ngồi ở phòng cũng “nắm” được tình hình, “hiểu” được tình hình và do đó các ban, phòng cứ mọc ra như nấm. Việc hình thành thêm các phòng, ban để tạo ra bộ máy khổng lồ không phải vì công việc mà theo ý chủ quan của một số người. Bởi vậy, bộ máy của các ngành, các địa phương còn cồng kềnh, quyền hạn và trách nhiệm nhiều khi không rành mạch, lề lối làm việc thiếu khoa học, tình trạng phân tán cục bộ, bản vị địa phương là không tránh khỏi.

Một bộ máy khổng lồ chồng chéo nhau, nhiều đầu mối trung gian ắt phải tạo ra nhiều thủ tục phiền hà. Nếu ví đất nước như chiếc xe đi lên chủ nghĩa xã hội, thì V.I.Lênin đã có nhận xét khi đó rằng, chiếc xe không tuân theo người lái, tuy có người lái thật đấy, có vẻ như đang điều khiển nó, nhưng xe không chạy theo hướng đã định.

Những cán bộ, đảng viên mắc bệnh quan liêu thường biến những mục đích thành nội dung. Một khi bộ máy đã trở thành bộ máy khổng lồ, bị quan liêu hóa thì nó sẽ có khuynh hướng biến thành bộ máy thoát ly xã hội, tách ly mối quan hệ với nhân dân, đứng trên nhân dân. Không lấy lợi ích của nhân dân mà lấy lợi ích của mình làm mục đích, không lấy nhân dân mà lấy bản thân mình làm quyền lực thì chính bộ máy đó lại ngăn cản việc tiếp cận với thực tiễn, thoát ly thực tiễn.

Trong công tác tổ chức xây dựng bộ máy, có khi biên chế trong cơ quan vượt quá mức cần thiết. Các phòng, ban được thành lập không trên cơ sở của yêu cầu phát triển sản xuất hoặc quản lý xã hội. Sự điều hành, phân bổ nhiệm vụ cho mỗi chuyên viên trong phòng, ban... có tính chất thời vụ, không căn cứ vào việc để phân công người phụ trách, cho nên hiện nay bộ máy còn cồng kềnh, nhất là những đơn vị hành chính sự nghiệp, những đơn vị ít nhiều còn được hưởng chế độ bao cấp thì đâu đâu cũng thấy những “công chức” ngồi không. Hiện tượng nhàn rỗi, ngồi chơi xơi nước vẫn đang là hiện thực.

Do bộ máy còn cồng kềnh quan liêu kém hiệu lực, một số cán bộ lại kiêm quá nhiều công việc, vì thế một số nơi bệnh họp hành vẫn nhiều mà hiệu quả chỉ đạo vẫn thấp, thậm chí một số vấn đề không kết luận được. Tình trạng đó, một mặt do trình độ khả năng của người chủ trì còn hạn chế; thêm nữa đó là “sự chờ đợi” ý kiến của nhau, dẫn đến tình trạng một số nơi làm việc theo ý hiểu, cách hiểu của mình.

Thứ ba, cán bộ, công chức làm công tác tổ chức cán bộ mắc bệnh quan liêu.

Một khi cán bộ, công chức mắc bệnh quan liêu thì hình thức biểu hiện khá nhiều, tác hại không nhỏ. Một số hình thức biểu hiện có tính phổ biến nhất phản ánh thực trạng của bệnh quan liêu là:

Một là, những cán bộ, công chức mắc bệnh quan liêu không có quan điểm phục vụ nhân dân mà đứng trên nhân dân.

Khách quan mà nói, trong xã hội có giai cấp, khi nào vẫn còn tồn tại hệ thống chức vụ trong hệ thống nhà nước từ Trung ương đến địa phương, cơ sở thì khi đó vẫn còn hệ thống quyền bính đối với nhân dân. Trong hoàn cảnh đó nếu cán bộ, công chức nào trở thành người lãnh đạo hay quản lý dù ở phạm vi hẹp thì người ấy sẽ có cách nghĩ, cử chỉ của người điều hành. Tự họ sẽ có ý thức và trách nhiệm với công việc, xác định quyền lực ấy là do Đảng và Nhân dân trao cho thì họ sẽ được Nhân dân tin tưởng, kính trọng. Ngược lại, với quan điểm không đúng, coi mình là người “thay trời trị dân” thì quan liêu, hách dịch là điều không tránh khỏi.

Bệnh quan liêu làm cho người ta quen cách làm việc theo kiểu mệnh lệnh, độc đoán. Cứ tưởng mình biết tất cả vì mình là cán bộ, hoặc biết một chút cũng đủ rồi. Việc gì cũng làm ra vẻ quan trọng, tự kiêu, tự mãn. Khi xuống cơ sở tự cho mình là kẻ bề trên, chỉ biết truyền lệnh không quan tâm đến tâm trạng của dân chúng, lúc nào cũng coi mình là kẻ ban ơn. Là những người lãnh đạo khi bị mắc bệnh quan liêu tới mức nghiêm trọng thì về thực chất họ lại bị kẻ xu nịnh, cơ hội lãnh đạo. Khi bị tiêm nhiễm bệnh quan liêu người ta thường tự kiêu, tự mãn với những hiểu biết của mình, thiếu trách nhiệm với dân, tùy tiện trước pháp luật; trong chỉ đạo thì lộng quyền bất chấp dư luận; thích địa vị, đẳng cấp, kèn cựa để giữ được vị trí “an nhàn hưởng lợi”. Theo V.I.Lênin, vì bị bệnh quan liêu nên nó làm cho đầu óc anh ta lúc nào cũng bám đầy bụi bẩn; nó gây nên tình trạng bùng nhùng, hỗn tạp, lộn xộn; nó đưa anh ta đến trì trệ; nó làm chúng ta phải não lòng.

Hai là, trong cách tổ chức, quản lý thường thoát ly thực tiễn.

Thoát ly thực tiễn, chỉ coi trọng hình thức giấy tờ, báo cáo, công văn; chú ý đến việc ban hành quyết định thuần túy hơn là nghiên cứu tình hình, kinh nghiệm sáng kiến của quần chúng, của địa phương là đặc trưng của phương pháp tổ chức và quản lý kiểu quan liêu.

V.I.Lênin đã từng phê phán việc xây dựng kế hoạch kiểu quan liêu hóa, không có căn cứ thực tế, không căn cứ vào những thông số khoa học đã được xác định. Người cho rằng: thực chất của vấn đề là ở chỗ chúng ta không biết đặt vấn đề và chúng ta lấy kế hoạch viển vông kiểu trí thức thay cho thực tế sinh động. Do mắc bệnh quan liêu cho nên một số cán bộ, công chức có chức, có quyền thích đưa ra những khẩu hiệu chung chung, thiếu cụ thể và hoàn toàn mang dụng ý chủ quan khi triển khai công việc thường theo lối áp đặt. Nếu xét về mục đích thì những người mắc bệnh quan liêu coi việc ra quyết định là tất cả, không cần tính đến hiệu quả của việc ra quyết định. Có thể nói đó là một thứ chủ nghĩa hình thức điển hình. Chỉ biết lấy hình thức thay cho nội dung, lấy kết quả trung gian, vụn vặt thay cho mục tiêu cuối cùng; coi việc xử lý vẫn nằm trong văn bản, giấy tờ thay cho kết quả hiện thực. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng yêu cầu: “các vị Bộ trưởng nên luyện cho mình có đôi chân hay đi, đôi mắt hay nhìn, cái óc hay nghĩ, không nên chỉ ngồi ở bàn giấy theo kiểu đạo nhân phòng thủ...”(6) , “Cán bộ quyết định mọi việc. Các đồng chí đều là cán bộ cao cấp, đều giữ những trách nhiệm quan trọng. Công việc thành hay là bại một phần lớn là do nơi tư tưởng đạo đức, thái độ và lề lối làm việc của các đồng chí”(7), “Các đồng chí phụ trách ở các bộ, các ban, các ngành ở trung ương cần thường xuyên đi kiểm tra và giải quyết công việc tại chỗ, phải chống bệnh giấy tờ, hội họp nhiều, đi kiểm tra giúp đỡ ít”(8).

Trong công tác cán bộ, những người mắc bệnh quan liêu thường lấy ý kiến chủ quan “óc bè phái” thay cho phương pháp làm việc khoa học. Trong công tác cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường dạy chúng ta là phải “hiểu biết cán bộ”, “khéo dùng cán bộ”, “cất nhắc cán bộ”, “thương yêu cán bộ”. Nhưng đối với họ thì ngược lại, không cần thiết công việc đó giao cho ai là phù hợp, dùng người thế nào cho đúng chỗ, đúng việc hiệu quả của công việc đến đâu tốt hay xấu, không phải là mối quan tâm hàng đầu của họ.

Thứ tư, bệnh quan liêu thể hiện ở tác phong công tác.

Bệnh quan liêu không chỉ có khả năng làm tê liệt các hoạt động của bộ máy mà còn có khả năng chi phối tác phong công tác, lề lối làm việc của một số cán bộ, công chức. Đối với cán bộ, công chức mắc bệnh quan liêu khi họ ở cương vị lãnh đạo nhất định nào đó, thì chỉ đạo và quản lý thường không gắn với trách nhiệm của mình, với quyền lợi của tập thể, làm việc nhiều khi mang tính tùy tiện, không theo nguyên tắc, quy chế. Họ thường say sưa với cái cũ thích bộ máy nhiều tầng, nhiều nấc, nhiều khâu trung gian. Nếu có đề cập đến đổi mới thì cũng chỉ dừng lại ở chỉ thị, nghị quyết không đưa ra biện pháp cụ thể để thực hiện, với họ “chủ nghĩa kinh nghiệm” là tất cả, coi kinh nghiệm của mình là chân lý, ít quan tâm đến những thay đổi hằng ngày. Từ đó họ coi thường việc tổng kết thực tiễn, coi thường công tác nghiên cứu cái gì cũng tỏ ra “biết rồi”. Ngược lại, để phục vụ cho lợi ích của bản thân, họ lại “quan tâm” khác thường, lẫn lộn trắng đen, lấy đổi mới làm cái bình phong. Loại quan liêu mới này làm cho chúng ta khó chống vì họ lấy danh hiệu cộng sản, chức quyền, mối quan hệ thân thuộc, ê kíp... để che đậy và bảo vệ cho bệnh quan liêu. Trong công tác xây dựng đảng và xác lập vai trò lãnh đạo của đảng họ đưa ra sự độc quyền lãnh đạo của đảng đến mức phi lý, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, xây dựng ê kíp “hẩu” để duy trì cục bộ, địa phương trong công tác cán bộ; thủ tiêu dân chủ nội bộ.

Thêm nữa, trong chỉ đạo, họ thường dập khuôn máy móc, thiếu sâu sát, thiếu kiểm tra thực tế. Đối với họ lời nói thường không đi đôi với việc làm. Họ lãng quên lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “lời nói và việc làm của đảng viên rất quan hệ đến sự nghiệp cách mạng, vì nó ảnh hưởng lớn đến quần chúng” (9).

Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chân lý đó đã được thực tiễn của cách mạng nước ta và nhiều nước trên thế giới khẳng định. Lênin đã dạy người cộng sản phải học quần chúng, giáo dục quần chúng. Nhưng thực tế thì sao? Vì mắc bệnh quan liêu nên họ không cần biết quần chúng nghĩ gì, cần gì ở từng con người đảng viên? Quan liêu thoái hóa dẫn đến tham nhũng thì dù ở cương vị nhỏ họ cũng tìm mọi cách để biến quyền đảng trao cho, dân trao cho thành quyền lực riêng của mình.

2. Giải pháp ngăn ngừa, khắc phục bệnh quan liêu trong công tác tổ chức cán bộ

Thứ nhất, giáo dục, nâng cao nhận thức về đấu tranh chống bệnh quan liêu.

Tăng cường công tác giáo dục bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, đề cao liêm khiết, tự giữ mình. Đây là giải pháp tăng sức miễn dịch với quan liêu tham nhũng, bảo đảm cho cán bộ, công chức vững vàng trước những cám dỗ của tiền tài, vật chất, góp phần ngăn ngừa lợi dụng chức vụ, quyền lực vào mục đích bất chính, phi pháp.

Đề cao tinh thần trách nhiệm và quyền hạn được giao phó, cán bộ, công chức chỉ được làm những gì pháp luật cho phép, tích cực đấu tranh phòng chống quan liêu, tham nhũng là việc làm quan trọng phải được pháp chế hoá bằng văn bản. Bên cạnh đó, nghiêm cấm cán bộ, công chức làm ăn phi pháp như dùng quyền lực, vị trí công tác của mình hách dịch, nhũng nhiễu, gây phiền hà cho nhân dân và cho cấp dưới để có lợi cho cá nhân, nhận hối lộ, nhận tiền, quà biếu có giá trị khi thi hành công vụ. Nghiêm cấm việc tự ý dùng tài sản, vật tư, tiền của của nhà nước để phục vụ mục đích cá nhân như xây dựng, sửa chữa, nâng cấp nhà cửa, dùng ôtô, dùng công quỹ mua sắm cho cá nhân, chi tiêu tùy tiện, bừa bãi vào hội hè, tổng kết, sơ kết, đi công tác, đi du lịch nước ngoài... Nghiêm cấm cán bộ, công chức dùng ảnh hưởng của mình nhằm khống chế, chèn ép các cá nhân và tổ chức bên ngoài để tạo điều kiện thuận lợi cho vợ con, gia đình, người thân trong gia đình ký kết hợp đồng, giao ước kinh tế.

Để làm tốt hơn những việc đó, trong công tác tư tưởng phải chú ý làm tốt các bước:

Một là, phải “đánh thông tư tưởng”. Bởi vì, trong nhận thức tư tưởng của mỗi cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên và quần chúng có thông suốt thì mới có thể tiến hành đấu tranh chống quan liêu thắng lợi. Để làm tốt bước đầu này, theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể, cơ quan đơn vị... phải tổ chức đại hội đủ mặt mọi người để giải thích rõ ràng và “nói đi nói lại” cho mọi người đều hiểu: quan liêu, tham ô, lãng phí có hại cho dân, cho nước như thế nào? Vì sao phải chống nó?

Hai là, khi mọi người đã hiểu đại thể, muốn hiểu cụ thể và sâu sắc hơn phải tăng cường việc nghiên cứu. Trong thực hiện bước này, các tiểu tổ vừa nghiên cứu, vừa thật thà tự phê bình và phê bình. Nên nhằm vào mấy điểm chính và thiết thực như: có quan liêu, xa cách quần chúng không? Có tham ô không? Có ăn bớt của công cho đơn vị riêng của mình không? Có lười biếng không, có kém trách nhiệm không?... Trong khi tự phê bình và phê bình phải thật thà, trung thực, đấu tranh có lý, có tình.

Ba là, tổ chức kiểm thảo chung trong toàn cơ quan, đơn vị để giải quyết các vấn đề, giải thích các thắc mắc, sửa chữa những khuyết điểm, biểu dương những tập thể, cá nhân làm tốt... Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: cán bộ cao cấp, chủ chốt phải thật thà tự kiểm điểm để làm gương, thật thà báo cáo tình hình của đơn vị, cơ quan mình. Trong đấu tranh chống quan liêu, tham ô lãng phí phải lấy giáo dục là chính, trừng phạt cũng nhằm mục đích giáo dục.

Thứ hai, tổ chức, điều chỉnh, sắp xếp cơ cấu tổ chức, cơ chế và phương thức hoạt động của bộ máy theo hướng tinh giảm, hợp lý và hiệu quả.

Đi đôi với việc lựa chọn và cải tiến bộ máy là việc lựa chọn và sử dụng cán bộ. Vì cán bộ có quan hệ rất lớn đến đường lối, đến tổ chức và phong trào cách mạng của quần chúng. Theo V.I.Lênin, ở từng giai đoạn cách mạng phải có được đội ngũ cán bộ tương ứng. Người đòi hỏi cán bộ phải là người “trung thực”, “tận tụy”, “kiên trì, am hiểu công việc” và có lập trường vững vàng, có khả năng tổ chức và quản lý. Ở mỗi cương vị khác nhau phải có tiêu chuẩn riêng cho từng loại cán bộ. Phải sàng lọc một cách chính xác những người cộng sản phụ trách các cơ quan, nhất là cơ quan kinh tế. Chúng ta phải tìm ra và thử thách hết sức nhẫn nại, hết sức thận trọng những người thật sự có tài tổ chức, những cán bộ có óc sáng suốt, có bản lĩnh và tháo vát trong thực tiễn. Những người vừa trung thành với chủ nghĩa xã hội, vừa là có năng lực lặng lẽ (bất chấp sự hỗn loạn và ồn ào, tổ chức công tác chung vững chắc và nhịp nhàng... chỉ có con người như thế chúng ta mới đề bạt lên chức vụ lãnh đạo của nhân dân; lên chức vụ lãnh đạo quản lý.

Ở nước ta, để khắc phục bệnh quan liêu trong một số cán bộ, đảng viên hiện nay, công tác lựa chọn cán bộ và bố trí cán bộ phải thật sự đáp ứng được sự nghiệp đổi mới. Đó là những cán bộ có phẩm chất chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức trong sáng, có năng lực tổ chức thực tiễn.

Xây dựng và hoàn thiện chức danh cho từng loại cán bộ và kết hợp với dân chủ hóa trong công tác cán bộ. Có như vậy, chúng ta mới tìm được những cán bộ giỏi, có trí tuệ, có bản lĩnh cho Đảng và Nhà nước, loại trừ được những phần tử cơ hội chui vào tổ chức của Đảng ta.

Thực hiện chế độ trách nhiệm cá nhân, chế độ công tác ở mỗi cơ quan, đơn vị; làm tốt công tác kiểm tra công việc thực tế là thiết thực chống chủ nghĩa quan liêu, giấy tờ loại trừ “bệnh bàn giấy”.

Thứ ba, phát huy dân chủ, tổ chức cho quần chúng tham gia vào công tác tổ chức cán bộ.

Dân chủ phải gắn với công khai và công bằng xã hội đó là yêu cầu cao nhất của dân chủ. Tính công khai hoàn toàn khác với sự kiêu ngạo cộng sản, khác với sự thờ ơ, vô trách nhiệm, nó loại trừ bệnh quan liêu ra khỏi tình trạng hành chính giấy tờ. Chỉ có thể có được một nền dân chủ thực sự khi mọi hoạt động của cơ quan Đảng, Nhà nước đã được công khai hóa để nhân dân phán xét, ủng hộ; khi nào nhân dân lao động chưa có khả năng nhận biết, hoặc chưa được nghe thông tin từ trên xuống, từ dưới lên, nghĩa là thông tin nhiều chiều với nội dung và hình thức khác nhau thì khi đó không thể đấu tranh chống quan liêu triệt để. Hiện nay ở nước ta đang thực hiện xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Giá trị của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân là ở chỗ: nó khẳng định nguồn gốc quyền lực nhà nước là ở nhân dân, muốn vậy, một mặt trên cơ sở phát triển kinh tế - xã hội, công dân “được làm tất cả những gì pháp luật không cấm”.

Mặt khác Nhà nước và cơ quan nhà nước phải hoạt động trong khung khổ của Hiến pháp và pháp luật, có như vậy mới bảo đảm sự ràng buộc của pháp luật đối với các hoạt động của các tổ chức xã hội và các thành viên trong tổ chức xã hội; vì thế việc tổ chức cho nhân dân tham gia vào việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội là biện pháp chống quan liêu có hiệu quả. Một trong những hình thức biểu hiện của biện pháp trên là: tạo điều kiện cho nhân dân tham gia giới thiệu bầu cử các đại biểu của mình vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Thông qua việc bầu cử để nhân dân tự chọn đại biểu đại diện cho mình; ngược lại những đại biểu của nhân dân, do nhân dân bầu ra cũng ý thức được bản thân mình và nhiệm vụ của mình trước nhân dân, trước Đảng. Việc xây dựng và phát huy hệ thống thanh tra nhân dân, trên cơ sở những quy định chung, tổ chức hướng dẫn giáo dục và lắng nghe ý kiến quần chúng mới có thể phát hiện được những trường hợp lạm dụng chức quyền, truy chụp, ức hiếp quần chúng.

Thứ tư, giáo dục quan điểm quần chúng, xây dựng tác phong: làm việc khoa học, sâu sát thực tế cho cán bộ, đảng viên.

Xây dựng tác phong công tác và phương pháp làm việc khoa học, có quan điểm quần chúng, chống tác phong làm việc kiểu quan liêu, giấy tờ, phô trương hình thức là một yêu cầu đặt ra hiện nay. Để xây dựng tác phong làm việc khoa học, có quan điểm quần chúng trước hết, Đảng cần giáo dục cho đội ngũ cán bộ, đảng viên lòng trung thành với lý tưởng cộng sản, đức tính hy sinh, tận tụy vì công việc, vì hạnh phúc của nhân dân. Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” . Nêu cao tinh thần trách nhiệm trước đảng, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, tôn trọng dân, kính trọng dân, học hỏi kinh nghiệm quý của dân là đức tính khiêm nhường của người cán bộ, đảng viên.

Đất nước ta vẫn còn nhiều khó khăn trên lĩnh vực kinh tế - xã hội. Để khắc phục những nguy cơ tụt hậu, hơn lúc nào hết chúng ta phải thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dân rất tốt. Lúc họ đã hiểu thì việc gì khó khăn mấy họ cũng làm được, hy sinh mấy họ cũng không sợ… Những việc đó là vì lợi ích của họ mà phải làm”(10).

Để khắc phục bệnh quan liêu trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, phong cách làm việc khoa học cần phải có sự thống nhất giữa tính đảng và tính khoa học. Phong cách làm việc khoa học trước hết phải là sản phẩm của tư duy, được xây dựng và hình thành cả một quá trình và cuối cùng phải được thực tiễn kiểm nghiệm. Tuy vậy, mỗi cán bộ, đảng viên hoạt động ở các môi trường khác nhau nên phong cách làm việc có thể có sắc thái riêng. Song có thể thấy sự thống nhất giữa tính đảng và tính khoa học vẫn là biện pháp chống quan liêu có hiệu quả.

Thứ năm, tăng cường công tác kiểm tra.

Kiểm tra là một hoạt động thiết yếu của Đảng, Nhà nước và các tổ chức xã hội, thông qua công tác kiểm tra nhằm phát hiện những khuyết điểm sai lầm trong tổ chức, chỉ đạo, trong việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn... V.I. Lênin cho rằng: “Chúng ta sẽ hết sức chú ý đến vấn đề đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu; chúng ta sẽ khắc phục một cách hết sức cẩn thận mọi hành vi cực đoan quan liêu chủ nghĩa, vô ích và có hại, không kể những hành vi đó là do ai vạch ra”(11).

Trong công tác lãnh đạo và chỉ đạo do mắc bệnh quan liêu nên một số cán bộ, đảng viên chỉ nhấn mạnh, thậm chí tuyệt đối hóa vai trò của cán bộ, không quan tâm đúng mức đến công tác kiểm tra. Thực tiễn cũng đã để lại cho chúng ta bài học là do thiếu kiểm tra nên có nhiều ý kiến khác nhau trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện.

Ở nước ta, việc kiểm tra, thanh tra từ nhân dân tuy đã được chế định bằng pháp luật, được thể hiện ở tư tưởng, quan điểm của Đảng nhưng một số nơi mới chỉ dừng lại ở nhận thức, chưa thật sự đi vào cuộc sống, chưa trở thành việc làm thường xuyên của nhân dân.

Kiểm tra là một hoạt động quan trọng, thông qua công tác kiểm tra để phát hiện và xử lý những vấn đề thực tiễn đặt ra. Từ đó bổ sung, hoàn chỉnh đường lối, chủ trương, chính sách do cán bộ là người soạn thảo.

Thực tiễn chứng minh rằng ở lĩnh vực nào, địa bàn nào cũng có cán bộ, đảng viên tham gia hoạt động. Họ là những người tổ chức, giáo dục, vận động quần chúng thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhằm biến đường lối của Đảng thành hiện thực. Vì thế, nếu không làm tốt công tác kiểm tra, thanh tra sẽ không phát hiện được những trường hợp lợi dụng chức quyền vi phạm pháp luật, vi phạm quyền dân chủ của nhân dân. Vì vậy, “muốn chống bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy; muốn biết các nghị quyết có được thi hành không, thi hành có đúng hay không; muốn biết ai ra sức làm, ai làm qua chuyện, chỉ có một cách, là khéo kiểm soát”(12) .

Công tác kiểm tra hiện nay ngoài việc kiểm tra việc chấp hành đường lối chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước là việc kiểm tra để phát hiện những cán bộ, đảng viên lợi dụng chức vụ, quyền vi phạm nguyên tắc tổ chức của Đảng, lợi dụng sơ hở của Nhà nước để rút tiền của Nhà nước sử dụng cho mục đích cá nhân, hoặc biến thành hình thức “quà biếu”, “quà tặng” để làm lợi cho bản thân.

Hiện nay quan liêu, cửa quyền, ức hiếp, trù dập quần chúng vẫn đang là những trở lực lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta. Quan liêu đang tạo ra những khoảng cách lớn, tổn thương lớn mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân lao động; mối quan hệ đó đã được Đảng ta xây dựng, tạo lập và được khẳng định từ khi Đảng ra đời đến nay.

Có thể nói bệnh quan liêu là một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến mọi sai lầm. Bệnh quan liêu không dừng lại ở chỗ làm cho một số cán bộ, đảng viên đi đến thoái hóa, biến chất, mà còn làm cho bộ máy của Đảng, Nhà nước, các tổ chức xã hội kém hiệu lực, thậm chí có lúc bị tê liệt, trong đó công tác tổ chức - cán bộ không là một ngoại lệ. Một khi đã tẩy trừ được bệnh quan liêu là chúng ta khôi phục tính trong sáng, lòng trung thực của người cộng sản, là góp phần làm cho Đảng ta thật sự là “lương tâm trí tuệ - niềm tin” của nhân dân.

Vì vậy việc tìm ra những biện pháp hữu hiệu để chống bệnh quan liêu trong đội ngũ cán bộ, trong công tác tổ chức - cán bộ hiện nay là yêu cầu cấp bách, là trách nhiệm của toàn Đảng, của các cấp, các ngành, của những người có lương tri. Điều đó càng trở nên thiết thực đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược theo tinh thần Nghị quyết số 26-NQ/TW Hội nghị Trung ương lần thứ 7, khóa XII./.

---------------------

Ghi chú:

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, Hà nội, 1996, tr.79, 133.

(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà nội, 2001, tr.135-136.

(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb. Chính trị quốc gia, 2009, tr.190.

(4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2012, tr.22.

(5) Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng: Tài liệu nghiên cứu các văn kiện hội nghị lần thứ bảy BCHTW khóa XII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2018, tr121

(6) V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcova, 1977, t.42, tr.456.

(7) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tr.139.

(8) Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB CTQG, H.2000, tập 6, tr.480

(9) Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB CTQG, H.2000, tập 12, tr.20

(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.606.

(11) V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.42, tr.377.

(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.327.

PGS.TS Vũ Văn Phúc

Nguyên Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản

Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng Trung ương

tcnn.vn

Từ khóa » Khái Niệm Bệnh Quan Liêu