Bible In 90 Days - BPT - July 19, 2022

13 Người Giu-đa đáp, “Đồng ý. Chúng tôi chỉ muốn trói anh giải cho người Phi-li-tin thôi. Chúng tôi sẽ không giết anh.” Vậy họ trói Sam-sôn bằng hai sợi dây thừng mới và dắt ông ra khỏi hang đá.

14 Khi Sam-sôn đi đến nơi gọi là Lê-hi thì người Phi-li-tin reo hò hớn hở. Lúc đó Thần linh của Thượng Đế nhập vào Sam-sôn, ban cho ông sức mạnh phi thường. Các sợi dây thừng trói ông trở thành yếu ớt như sợi chỉ bị đốt và rớt khỏi tay ông! 15 Sam-sôn tìm được một cái hàm lừa của một con lừa chết, cầm lên và dùng nó đánh giết một ngàn người!

16 Rồi Sam-sôn ca,

“Dùng một hàm lừa,ta biến chúng nó ra lũ lừa.Dùng một hàm lừa thôi,ta giết một ngàn người!”

17 Sau khi nói xong, ông ném cái hàm lừa đi. Vì thế chỗ đó gọi là Ra-mát Lê-hi [a].

18 Sam-sôn khát nước hết sức cho nên ông kêu xin CHÚA, “Ngài đã ban cho tôi, kẻ tôi tớ Ngài, chiến thắng lớn. Chẳng lẽ bây giờ tôi phải chết khát sao? Tại sao tôi phải rơi vào tay của những kẻ không chịu cắt dương bì?”

19 CHÚA liền khơi một lỗ dưới đất tại Lê-hi, nước phun ra. Sau khi Sam-sôn uống, cảm thấy thoải mái và phục hồi lại sức mạnh. Cho nên ông gọi suối đó là Suối Khẩn cầu [b], ngày nay vẫn còn ở Lê-hi.

20 Sam-sôn xét xử dân Ít-ra-en trong hai mươi năm vào thời dân Phi-li-tin thống trị.

Sam-sôn xuống Ga-xa

16 Một hôm Sam-sôn xuống Ga-xa thấy một cô gái điếm. Ông vào ngủ với nàng. 2 Khi người Ga-xa nghe biết, “Sam-sôn có mặt ở đây!” họ liền bao vây nơi đó và rình ông gần cửa thành suốt đêm. Họ thì thầm bảo nhau, “Sáng mai chúng ta sẽ giết hắn!”

3 Nhưng Sam-sôn chỉ ngủ với cô gái điếm đến nửa đêm thôi. Rồi ông thức dậy và nắm các cánh cửa và hai cây cột cửa của thành nhổ lên cùng với thanh gài, xong vác chúng lên vai mang lên đỉnh đồi đối diện thành Hếp-rôn.

Sam-sôn và Đa-li-la

4 Sau đó Sam-sôn yêu một thiếu nữ tên Đa-li-la, trong thung lũng Sô-réc.

5 Các quan trưởng Phi-li-tin đến bảo Đa-li-la, “Hãy tìm xem tại sao Sam-sôn mạnh như thế. Dụ hắn để hắn cho chị biết làm sao chúng tôi có thể đè hắn xuống, bắt và trói hắn lại. Nếu chị làm được thì mỗi chúng tôi sẽ cho chị hai mươi tám cân bạc.”

6 Vì thế Đa-li-la liền hỏi Sam-sôn, “Anh hãy cho em biết tại sao anh mạnh như vậy. Làm sao người ta có thể trói bắt anh được?”

7 Sam-sôn đáp, “Nếu ai lấy bảy dây cung mới chưa dùng mà trói anh thì anh sẽ trở thành yếu ớt như mọi người.”

8 Các quan Phi-li-tin liền mang cho Đa-li-la bảy sợi dây cung mới tinh chưa dùng, rồi nàng dùng chúng trói Sam-sôn lại. 9 Lúc đó có mấy người đang núp trong một phòng khác. Đa-li-la liền kêu, “Sam-sôn ơi, người Phi-li-tin đến kìa!” Nhưng Sam-sôn bứt đứt các dây cung như dây bị lửa cháy. Người Phi-li-tin không tìm được bí quyết về sức mạnh phi thường của Sam-sôn.

10 Đa-li-la liền bảo Sam-sôn, “Anh gạt em. Anh nói dối với em. Thôi bây giờ anh hãy cho em biết làm sao người ta trói anh được.”

11 Sam-sôn trả lời, “Người ta phải dùng dây thừng mới chưa dùng trói anh mới được. Lúc đó anh sẽ trở nên yếu ớt như những người khác.”

12 Vậy Đa-li-la dùng các dây thừng mới trói Sam-sôn. Lúc đó có người núp trong một phòng kế cận. Nàng liền kêu, “Sam-sôn ơi, người Phi-li-tin đây rồi!” Nhưng Sam-sôn bứt đứt các dây thừng như những sợi chỉ vậy.

13 Đa-li-la liền nói với Sam-sôn, “Anh lại gạt em nữa. Anh nói dối với em. Bây giờ anh hãy cho em biết làm sao người ta trói anh được.”

Ông bảo, “Hãy lấy khung cửi, dệt bảy lọn tóc của anh vào trong khung vải, rồi siết lại bằng một cái kẹp thì anh sẽ yếu ớt như những người khác.” Trong khi Sam-sôn đang ngủ, Đa-li-la dệt bảy lọn tóc của ông vào khung vải.

14 Rồi lấy cái kẹp giữ chặt lại. Xong nàng kêu Sam-sôn, “Sam-sôn ơi, người Phi-li-tin đây rồi!” Sam-sôn thức dậy giật cái kẹp, khung cửi và con thoi [c] ra cùng với vải.

15 Đa-li-la bảo ông, “Làm sao anh nói, ‘Anh yêu em’ mà anh không tin em? Đây là lần thứ ba anh gạt em. Anh chưa cho em biết bí quyết sức mạnh phi thường của anh.” 16 Ngày nầy sang ngày khác nàng làm Sam-sôn bực mình về bí quyết sức mạnh của mình đến nỗi ông muốn chết phứt cho rồi! 17 Nên ông cho nàng biết hết sự thật. Ông bảo, “Anh chưa bao giờ hớt tóc vì anh đã được biệt riêng cho Thượng Đế làm người Na-xi-rê từ lúc mới sinh. Nếu ai cạo đầu anh, anh sẽ không còn sức mạnh và rồi sẽ yếu ớt như những ngươi khác.”

18 Khi Đa-li-la thấy Sam-sôn khai thật hết với mình thì nàng nhắn các quan Phi-li-tin. Nàng bảo, “Hãy xuống đây lần nữa vì hắn đã khai thật hết với tôi.” Vậy người Phi-li-tin đến cùng Đa-li-la mang bạc theo.

19 Đa-li-la dụ cho Sam-sôn ngủ tựa đầu trên lòng nàng. Rồi nàng bảo một người cắt hết bảy lọn tóc Sam-sôn. Vậy Sam-sôn trở thành yếu ớt, sức mạnh không còn. 20 Rồi nàng kêu, “Sam-sôn ơi, người Phi-li-tin đây rồi!” Sam-sôn thức giấc và tự nghĩ, “Ta sẽ ra đi như trước và giải thoát mình.” Nhưng ông không biết CHÚA đã lìa bỏ mình.

21 Người Phi-li-tin liền bắt Sam-sôn, móc hai con mắt ông, rồi mang ông xuống Ga-xa. Chúng lấy xiềng sắt trói ông lại và bắt ông xay cối trong ngục. 22 Nhưng tóc ông bắt đầu mọc lại.

Sam-sôn qua đời

23 Các lãnh tụ Phi-li-tin họp nhau lại ăn mừng và dâng một của lễ lớn cho Đa-gôn, thần của chúng. Chúng bảo, “Thần của chúng ta đã trao Sam-sôn kẻ thù chúng ta vào tay chúng ta.” 24 Khi dân chúng thấy Sam-sôn họ liền ca tụng thần mình và bảo,

“Người nầy đã phá hoại xứ chúng ta!Hắn đã giết nhiều người của dân ta!Nhưng thần chúng ta đã trao kẻ thù chúng ta vào tay chúng ta.”

25 Trong khi đang reo hò kỷ niệm vui vẻ, thì dân chúng bảo, “Hãy mang Sam-sôn ra làm trò vui cho chúng ta.” Vậy họ mang Sam-sôn ra khỏi ngục rồi ông làm trò cho họ xem. Họ cho ông đứng giữa hai cây cột. 26 Sam-sôn bảo người đầy tớ nắm tay mình, “Hãy để cho tôi sờ các cây cột giữ đền thờ để tôi dựa vào.”

27 Đền thờ lúc đó đông nghẹt đàn ông, đàn bà. Tất cả các lãnh tụ Phi-li-tin có mặt đông đủ ở đó, và trên nóc đền thờ có khoảng ba ngàn người đàn ông đàn bà xem Sam-sôn diễn trò. 28 Sam-sôn liền cầu nguyện cùng CHÚA, “Lạy CHÚA là Thượng Đế, xin nhớ đến tôi. Xin ban cho tôi sức mạnh lần nầy nữa thôi để tôi trả thù người Phi-li-tin về việc chúng móc hai con mắt tôi!” 29 Rồi Sam-sôn xoay về phía hai cây cột giữa đỡ nguyên cái đền. Ông gồng mình giữa hai cây cột, tay mặt chịu một cột, tay trái chịu cột kia. 30 Sam-sôn nói, “Nguyện tôi chết chung với bọn Phi-li-tin nầy!” Rồi ông ráng hết sức xô hai cây cột khiến cả đền thờ sập xuống đổ nhào trên các lãnh tụ và dân chúng trong đó. Như thế khi chết Sam-sôn giết nhiều người Phi-li-tin hơn khi còn sống.

31 Các anh em và cả gia đình Sam-sôn xuống lấy xác ông mang về chôn trong mộ của Ma-nô-a, cha ông, nằm giữa hai thành Xô-ra và Ếch-ta-ôn. Sam-sôn làm quan án trong Ít-ra-en hai mươi năm.

Các hình tượng của Mi-ca

17 Có một người tên Mi-ca sống trong vùng núi Ép-ra-im. 2 Ông nói với mẹ, “Con nghe mẹ nguyền rủa về hai mươi tám cân bạc mẹ bị mất. Bạc đó con lấy, bây giờ có đây.”

Mẹ ông bảo, “Con ơi, nguyện CHÚA ban phước cho con!”

3 Mi-ca trao trả lại hai mươi tám cân bạc cho mẹ. Bà nói, “Mẹ sẽ dâng số bạc nầy cho CHÚA. Mẹ sẽ trao số bạc nầy cho con để con làm một tượng chạm và tượng đúc tráng bạc. Bây giờ mẹ đưa bạc lại cho con.”

4 Nhưng Mi-ca trao trả bạc lại cho bà mẹ. Bà liền lấy năm cân trao cho thợ bạc. Thợ bạc dùng bạc đó làm một tượng chạm và tượng đúc để trong nhà Mi-ca. 5 Mi-ca lập một bàn thờ, may một cái áo ngắn thánh [d] và làm một vài tượng chạm cho gia đình. Rồi ông chọn một trong các con trai mình làm thầy tế lễ. 6 Lúc đó Ít-ra-en chưa có vua nên ai cũng làm theo điều mình cho là phải.

7 Có một thanh niên người Lê-vi gốc thành Bết-lê-hem xứ Giu-đa, thuộc chi tộc Giu-đa. 8 Anh rời Bết-lê-hem đi kiếm nơi khác định cư. Đang khi đi đường, anh ghé nhà Mi-ca trong vùng núi Ép-ra-im. 9 Mi-ca hỏi, “Anh từ đâu đến?”

Anh đáp, “Tôi là người Lê-vi từ Bết-lê-hem thuộc Giu-đa đến. Tôi đang đi tìm chỗ định cư.”

10 Mi-ca bảo anh, “Thôi anh hãy ở đây với tôi, làm cha và thầy tế lễ cho tôi. Mỗi năm tôi sẽ cấp cho anh bốn lượng bạc cùng quần áo và lương thực.”

Vậy người Lê-vi dọn vào. 11 Anh bằng lòng ở với Mi-ca và trở thành như con ruột Mi-ca vậy. 12 Mi-ca lập anh làm thầy tế lễ, còn anh thì cư ngụ luôn trong nhà Mi-ca. 13 Sau đó Mi-ca bảo, “Bây giờ tôi biết CHÚA sẽ ban phước cho tôi vì tôi có một thầy tế lễ là người Lê-vi.”

Dòng họ Đan chiếm thành La-ít

18 Lúc đó Ít-ra-en chưa có vua và chi tộc Đan đang đi tìm đất định cư để lập nghiệp, vì chi tộc Đan chưa được cấp đất trong các chi tộc Ít-ra-en.

2 Vậy họ chọn năm binh sĩ trong các họ hàng từ các thành Xô-ra và Ếch-ta-ôn để đi thám thính và thăm dò xứ. Họ được chỉ thị, “Hãy đi thăm dò xứ.”

Họ đến vùng núi Ép-ra-im, vào nhà Mi-ca nghỉ đêm. 3 Khi họ đến gần nhà Mi-ca thì họ nhận ra giọng nói của chàng thanh niên Lê-vi. Nên họ dừng lại nhà Mi-ca và hỏi anh, “Ai mang anh đến đây? Bây giờ anh làm gì ở đây?”

4 Anh kể lại cho họ nghe những gì Mi-ca đã làm cho mình. Anh bảo, “Ông ta mướn tôi. Tôi làm thầy tế lễ cho ông ấy.”

5 Họ bảo anh, “Làm ơn hỏi Thượng Đế xem chuyến đi nầy của chúng tôi có thành công hay không.”

6 Thầy tế lễ đáp, “Các anh em hãy đi bình yên. CHÚA bằng lòng chuyến đi của anh em.”

7 Vậy năm người đó lên đường. Khi họ đến thành La-ít thấy dân chúng ở đó sống yên lành giống như dân thành Xi-đôn. Họ nghĩ dân cư ở đó bình yên và có dư dật mọi thứ. Họ sống cách xa dân Xi-đôn và không giao dịch với ai [e].

8 Khi năm người trở về Xô-ra và Ếch-ta-ôn thì các thân nhân họ hỏi, “Mấy anh thấy đất đai ra sao?”

9 Họ đáp, “Chúng tôi thấy đất đó rất tốt. Chúng ta nên tấn công họ. Các anh em muốn ra tay không? Đừng chần chừ! Hãy đi chiếm đất đó! 10 Khi anh em đến nơi, anh em sẽ thấy đất đai rộng rãi, của cải dư dật! Dân chúng không ngờ bị tấn công đâu. CHÚA thật đã cấp đất đó cho chúng ta rồi!”

11 Vậy sáu trăm người Đan rời Xô-ra và Ếch-ta-ôn chuẩn bị ra trận. 12 Đang khi đi đường họ cắm trại gần thành Ki-ri-át Giê-a-rim thuộc Giu-đa. Vì thế mà địa điểm phía tây Ki-ri-át Giê-a-rim vẫn còn mang tên Ma-ha-nê Đan [f] cho đến nay. 13 Từ đó họ đi lên vùng núi Ép-ra-im rồi vào nhà Mi-ca.

14 Năm người đã đi thăm dò đất quanh La-ít bảo các thân thuộc mình rằng, “Anh em có biết một trong những nhà nầy có một cái áo ngắn thánh, có các thần gia đình, một tượng chạm và một tượng đúc không? Anh em biết phải làm gì rồi chứ gì?” 15 Vậy họ dừng lại nhà người Lê-vi, cũng là nhà của Mi-ca, và chào người Lê-vi. 16 Sáu trăm người Đan đứng nơi cổng, mang vũ khí sẵn sàng ra trận. 17 Năm người do thám đi vào nhà cướp hình tượng, áo ngắn thánh, các tượng chạm dùng trong nhà, và tượng đúc. Còn thầy tế lễ và sáu trăm người sẵn sàng ra trận đứng ngay nơi cửa. 18 Khi các người do thám vào nhà Mi-ca cướp hình tượng, áo ngắn thánh, các tượng chạm dùng trong nhà, và tượng đúc thì thầy tế lễ hỏi họ, “Mấy anh làm gì vậy?”

19 Họ đáp, “Im! Đừng nói gì cả. Hãy đi với chúng tôi và làm cha và thầy tế lễ cho chúng tôi. Làm thầy tế lễ cho một nhà hay làm thầy tế lễ cho cả chi tộc họ hàng trong Ít-ra-en cái nào tốt hơn?”

20 Thầy tế lễ nghe vậy mừng thầm. Vậy anh lấy cái áo ngắn thánh, tượng chạm dùng trong nhà, và tượng đúc rồi đi theo người Đan.

21 Họ rời nhà Mi-ca. Họ cho con nít, gia súc, và tài sản đi trước.

22 Khi họ đi cách nhà Mi-ca một khoảng xa xa, thì những người láng giềng của Mi-ca được huy động đuổi theo họ. 23 Người nhà của Mi-ca kêu la cùng người Đan. Người Đan quay lại hỏi Mi-ca, “Anh có chuyện gì vậy? Tại sao anh kêu la như muốn khiêu khích?”

24 Mi-ca đáp, “Các anh cướp các thần tôi làm ra rồi cướp luôn thầy tế lễ của tôi nữa. Bây giờ tôi còn gì đâu? Vậy mà mấy anh còn hỏi, ‘Có việc gì vậy?’”

25 Người Đan bảo, “Anh chớ có kiếm chuyện với chúng tôi. Lỡ có ai trong chúng tôi nổi giận tấn công anh, họ dám giết anh và cả gia đình đó.”

26 Rồi người Đan tiếp tục cuộc hành trình. Còn Mi-ca thấy họ quá mạnh cho nên quay trở về nhà.

27 Những người Đan cướp những đồ vật mà Mi-ca đã làm cùng thầy tế lễ và kéo đến La-ít. Họ tấn công dân cư hiếu hoà ở đó, dùng gươm giết tất cả rồi đốt thành. 28 Không ai đến cứu La-ít cả. Vì họ sống quá xa Xi-đôn và không giao dịch với ai. La-ít nằm trong thung lũng gần Bết-Rê-hốp. Người Đan xây lại thành và định cư tại đó. 29 Họ đổi tên La-ít ra Đan, theo tên tổ tiên mình, tức một trong các con trai Ít-ra-en.

30 Người Đan lập các tượng chạm trong thành Đan. Giô-na-than, con của Ghẹt-sôn, cháu Mô-se, và các con trai ông làm thầy tế lễ cho chi tộc Đan cho đến khi đất bị chiếm đoạt. 31 Người Đan dựng các hình tượng Mi-ca đã làm trong suốt thời gian Lều Thánh của Thượng Đế đặt ở Si-lô.

Người Lê-vi và cô vợ lẽ

19 Lúc đó dân Ít-ra-en không có vua.

Có một người Lê-vi sống ở một nơi hẻo lánh trong vùng núi Ép-ra-im. Ông lấy một cô vợ lẽ gốc thành Bết-lê-hem thuộc xứ Giu-đa về sống chung với mình, 2 Nhưng cô không chung tình với ông. Cô bỏ ông đi về nhà cha mình ở Bết-lê-hem thuộc xứ Giu-đa và ở đó bốn tháng. 3 Chồng cô đi năn nỉ cô về với mình, mang theo đứa đầy tớ và hai con lừa. Khi người Lê-vi đến nhà cha cô thì cô mời ông vào nhà. Còn cha cô mừng được gặp ông. 4 Ông cha vợ, tức cha người đàn bà, yêu cầu ông ở lại. Vậy ông ở lại ba ngày, ăn uống, ngủ lại đó.

5 Đến ngày thứ tư họ dậy sớm. Người Lê-vi chuẩn bị lên đường nhưng cha người đàn bà bảo con rể, “Hãy ăn uống cho thêm sức rồi hãy lên đường.” 6 Vậy người Lê-vi và ông cha vợ ngồi lại ăn uống với nhau. Sau đó, người cha bảo người Lê-vi, “Con hãy ở lại đây thêm một đêm nữa. Thoải mái và thong thả đã.” 7 Khi người đó đứng dậy lên đường, người cha nài nỉ cho nên người đó ở lại thêm một đêm nữa.

8 Đến ngày thứ năm khi người đó sắp sửa lên đường, người cha vợ nài ép người ở lại. Cha người đàn bà bảo, “Hãy lấy lại sức đã. Chờ đến chiều nay rồi tính.” Vậy hai người ngồi lại ăn uống.

9 Khi người Lê-vi, cô vợ lẽ và người đầy tớ đứng dậy lên đường thì ông cha vợ, tức cha người đàn bà bảo, “Trời gần tối, xế bóng rồi. Hãy nghỉ lại thêm đêm nữa để vui thú đã. Sáng mai dậy sớm đi về cũng được.”

10 Nhưng người Lê-vi không muốn ở nán thêm đêm nữa cho nên ông mang hai con lừa chuẩn bị yên cương và cùng cô vợ lẽ đi về phía thành Giê-bu cũng gọi là Giê-ru-sa-lem. 11 Khi gần đến thành Giê-bu thì trời tối rồi nên người đầy tớ thưa với chủ, “Thôi chúng ta hãy vào thành nầy của dân Giê-bu-sít để ngủ đêm.”

12 Nhưng người chủ nói, “Không. Chúng ta sẽ không vào thành ngoại quốc. Họ không phải dân Ít-ra-en. Chúng ta sẽ ráng đi đến thành Ghi-bê-a.” 13 Ông bảo, “Thôi hãy ráng đi đến Ghi-bê-a hay Ra-ma ngủ đêm ở một trong hai thành đó.”

14 Vậy họ tiếp tục đi. Khi đến gần Ghi-bê-a thuộc chi tộc Bên-gia-min thì mặt trời đã lặn. 15 Họ dừng lại đó nghỉ đêm. Họ đến chỗ công viên trong thành phố ngồi nghỉ nhưng không ai mời vào nhà nghỉ đêm cả.

16 Sau cùng đến chiều tối có một ông già đi làm việc từ ngoài đồng về. Nhà ông trước ở vùng núi Ép-ra-im nhưng bây giờ ông cư ngụ tại Ghi-bê-a. Dân Ghi-bê-a thuộc chi tộc Bên-gia-min. 17 Khi ông thấy có lữ khách nơi công viên liền hỏi, “Các anh đi đâu đây? Các anh ở đâu đến vậy?”

18 Người Lê-vi đáp, “Chúng tôi đi từ Bết-lê-hem thuộc Giu-đa về nhà tôi [g] ở trong vùng núi Ép-ra-im. Trước kia tôi ở Bết-lê-hem thuộc Giu-đa nhưng nay tôi đi đến Lều Thánh của CHÚA. Không ai mời chúng tôi vào nhà cả. 19 Chúng tôi có đủ rơm và thức ăn cho lừa của chúng tôi cùng bánh mì, rượu cho tôi, cô gái nầy và người đầy tớ. Chúng tôi không thiếu gì cả.”

20 Ông già nói, “Mời các ông bà vào nghỉ nhà tôi. Tôi sẽ cung cấp cho các ông bà đầy đủ mọi sự, đừng ngủ đêm nơi công viên.” 21 Vậy ông già đưa người Lê-vi vào nhà rồi cho lừa ăn. Họ rửa chân và ăn uống.

22 Trong khi họ đang ăn thì có mấy tên du đãng trong thành phố vây nhà và đập cửa. Họ kêu chủ nhà, “Mang anh chàng mới vào nhà ông ra đây. Chúng tôi muốn làm tình với nó.”

23 Ông chủ nhà đi ra bảo họ, “Các bạn ơi, đừng làm chuyện gian ác như thế. Người nầy là khách của tôi [h]. Chớ phạm điều nhơ nhuốc nầy! 24 Đây, tôi có đứa con gái chưa hề giao hợp với ai và cô vợ lẽ của người nầy. Tôi sẽ mang họ ra cho các bạn rồi các bạn muốn làm gì mặc ý, nhưng đừng làm điều nhơ nhuốc đối với người nầy.”

25 Nhưng bọn đó không thèm nghe ông già. Nên người Lê-vi bắt cô vợ lẽ mang ra cho họ. Chúng hiếp dâm và hành hạ nàng trọn đêm. Đến sáng chúng thả nàng về nhà. 26 Nàng về đến nhà nơi chồng mình ở rồi té gục nằm trước cửa.

27 Đến sáng khi người Lê-vi thức dậy, mở cửa nhà đi ra ngoài chuẩn bị lên đường thì thấy cô vợ lẽ nằm sóng sượt nơi cửa, hai tay đặt trên ngạch cửa. 28 Người Lê-vi bảo nàng, “Đứng dậy! Chúng ta hãy đi.” Nhưng nàng chẳng trả lời.

Vì thế người Lê-vi đặt nàng lên lưng lừa chở về nhà. 29 Khi về đến nhà, người Lê-vi lấy con dao chặt thây cô vợ lẽ ra làm mười hai khúc gởi đi khắp xứ Ít-ra-en. 30 Ai thấy chuyện nầy cũng bàn tán, “Từ khi dân Ít-ra-en ra khỏi Ai cập chưa bao giờ xảy ra chuyện như thế nầy cả. Hãy suy nghĩ đi rồi tìm cách hành động.”

Chiến tranh giữa Ít-ra-en và chi tộc Bên-gia-min

20 Toàn dân Ít-ra-en từ Đan cho đến Bê-e-sê-ba [i], gồm luôn đất Ghi-lê-át, họp lại trước mặt CHÚA trong thành Mích-ba. 2 Các lãnh tụ của các chi tộc Ít-ra-en ngồi vào chỗ trong phiên họp của dân CHÚA. Có 400.000 ngàn binh sĩ cầm gươm. 3 (Người Bên-gia-min nghe rằng dân Ít-ra-en đã tập họp tại Mích-ba.) Dân Ít-ra-en hỏi người Lê-vi, “Anh hãy thuật lại cho chúng tôi nghe chuyện đại ác nầy xảy ra như thế nào.”

4 Chồng của người đàn bà bị giết đáp, “Vợ lẽ của tôi và tôi đến Ghi-bê-a thuộc Bên-gia-min để ngủ đêm. 5 Đang đêm những người đàn ông ở Ghi-bê-a muốn bắt tôi. Họ vây nhà và hăm giết tôi. Họ hiếp dâm vợ lẽ tôi đến nỗi nàng phải chết. 6 Tôi chặt nàng ra từng phần gởi đi khắp xứ Ít-ra-en vì người Bên-gia-min đã làm chuyện ác độc gớm ghiếc nầy trong Ít-ra-en. 7 Bây giờ, toàn dân Ít-ra-en hãy lên tiếng. Các bạn quyết định ra sao?”

8 Mọi người đồng đứng lên nói, “Không ai được phép về nhà. Không một người nào về nhà cả! 9 Bây giờ chúng ta sẽ xử Ghi-bê-a như sau. Chúng ta sẽ bắt thăm. 10 Rồi chúng ta sẽ chọn mười người trong số một trăm, trăm người trong số một ngàn, và một ngàn người trong số mười ngàn người. Những người đó sẽ đi lo tiếp liệu cho đạo quân. Rồi đạo quân sẽ đi đến thành Ghi-bê-a thuộc Bên-gia-min để trả thù họ về chuyện nhuốc nhơ họ làm trong Ít-ra-en.”

11 Thế là toàn dân Ít-ra-en nhất trí đoàn kết đánh thành đó. 12 Các chi tộc Ít-ra-en gởi các sứ giả đi đến toàn thể chi tộc Bên-gia-min hạch hỏi, “Việc ác độc mà một số người trong các anh làm nghĩa là gì? 13 Hãy giao mấy người gian ác ở Ghi-bê-a cho chúng ta xử tử. Chúng ta phải trừ khử chuyện xấu xa nầy ra khỏi Ít-ra-en.”

Nhưng người Bên-gia-min không đếm xỉa đến lời yêu cầu của đồng bào mình. 14 Người Bên-gia-min ra khỏi các thành mình và tập họp ở Ghi-bê-a để đánh người Ít-ra-en. 15 Chỉ trong vòng một ngày người Bên-gia-min tập họp được 26.000 lính thiện chiến có tài sử dụng gươm giáo. Họ cũng có 700 người được tuyển chọn từ Ghi-bê-a. 16 Bảy trăm lính thiện chiến nầy thuận tay trái, mỗi người đều có thể bắn viên đá bằng ná trúng ngay một sợi tóc mà không sai lệch.

17 Phần người Ít-ra-en, ngoại trừ người Bên-gia-min ra, tập họp được 400.000 lính cầm gươm. 18 Người Ít-ra-en đi lên thành Bê-tên và cầu hỏi Thượng Đế, “Chi tộc nào phải lên đánh người Bên-gia-min trước?” CHÚA đáp, “Giu-đa sẽ đi đánh trước.”

19 Sáng hôm sau người Ít-ra-en thức dậy và đóng trại gần Ghi-bê-a. 20 Người Ít-ra-en đi ra đánh người Bên-gia-min và dàn trận ở Ghi-bê-a. 21 Người Bên-gia-min đổ ra khỏi Ghi-bê-a và giết 22.000 người Ít-ra-en trong trận đánh hôm đó.

22-23 Người Ít-ra-en ra trước mặt CHÚA và khóc lóc cho đến chiều tối. Họ hỏi CHÚA, “Chúng tôi có nên đi đánh anh em chúng tôi là người Bên-gia-min nữa không?”

CHÚA đáp, “Hãy đi đánh chúng nó.”

Người Ít-ra-en giục giã lẫn nhau. Họ giàn thế trận giống như ngày đầu.

24 Người Ít-ra-en ra đánh người Bên-gia-min ngày thứ nhì. 25 Người Bên-gia-min từ Ghi-bê-a đổ ra tấn công người Ít-ra-en. Lần nầy người Bên-gia-min giết 18.000 người Ít-ra-en, tất cả đều có tài cầm gươm.

26 Người Ít-ra-en liền đi lên Bê-tên. Họ ngồi xuống đó than khóc cùng CHÚA và cữ ăn suốt ngày cho đến chiều tối. Họ cũng mang theo của lễ thiêu và của lễ thân hữu cho CHÚA. 27 Người Ít-ra-en hỏi CHÚA một câu. Trong lúc đó Rương Giao Ước của Thượng Đế đặt tại Bê-tên. 28 Có một thầy tế lễ tên Phi-nê-ha, con trai Ê-lê-a-sa, cháu A-rôn, phục vụ trước Rương Giao Ước. Họ hỏi, “Chúng tôi có nên lên đánh anh em chúng tôi là người Bên-gia-min lần nữa hay thôi?”

CHÚA đáp, “Hãy đi đánh vì ngày mai ta sẽ trao chúng nó vào tay các ngươi.”

29 Người Ít-ra-en liền đặt phục kích quanh Ghi-bê-a. 30 Vào ngày thứ ba họ lên đánh người Bên-gia-min ở Ghi-bô-a, giàn trận như mấy lần trước. 31 Khi người Bên-gia-min đổ ra đánh họ thì người Ít-ra-en rút lui và dụ người Bên-gia-min chạy ra khỏi thành. Người Bên-gia-min bắt đầu giết một số người Ít-ra-en như lần trước.

Có khoảng ba mươi người Ít-ra-en bị giết, một số bị giết trong ruộng và một số bị giết trên các con đường dẫn tới Bê-tên và Ghi-bê-a. 32 Người Bên-gia-min bảo nhau, “Chúng ta chiến thắng như lần trước!”

Nhưng người Ít-ra-en bảo, “Chúng ta hãy bỏ chạy. Hãy dụ chúng ra xa khỏi thành và chạy ra đường cái.” 33 Tất cả người Ít-ra-en ra khỏi vị trí và giàn trận tại một nơi gọi là Ba-anh Ta-ma. Rồi quân Ít-ra-en ra khỏi nơi phục kích ở phía tây Ghi-bê-a. 34 Mười ngàn quân thiện chiến nhất của toàn dân Ít-ra-en tấn công Ghi-bê-a. Trận chiến vô cùng khốc liệt. Người Bên-gia-min không biết thảm hoạ sắp xảy đến cho mình.

35 CHÚA dùng người Ít-ra-en đánh bại người Bên-gia-min. Trong ngày đó người Ít-ra-en giết 25.100 người Bên-gia-min, tất cả đều có tài cầm gươm. 36 Bấy giờ người Bên-gia-min mới thấy mình thua trận.

Người Ít-ra-en quay trở lại vì họ tin tưởng vào cuộc tấn kích bất ngờ vì họ đã mai phục gần Ghi-bê-a. 37 Những quân phục kích xông vào Ghi-bê-a, phân tán ra và dùng gươm giết sạch mọi người trong thành. 38 Người Ít-ra-en đã ra một dấu hiệu với quân phục kích. Toán phục kích trong cuộc tấn công bất ngờ phải đốt cột khói bay lên khỏi thành.

39 Lúc đó quân Ít-ra-en đổi thế trận. Người Bên-gia-min đã giết khoảng ba mươi người Ít-ra-en. Họ bảo nhau, “Chúng ta thắng như lần trước!” 40 Nhưng lúc đó cột khói bốc lên khỏi thành. Người Bên-gia-min quay lại thì thấy cả thành đang bị bốc cháy. 41 Lúc đó người Ít-ra-en quay lại bắt đầu đánh. Người Bên-gia-min đâm ra hốt hoảng vì họ biết thảm họa đang xảy đến cho mình.

42 Vì thế người Bên-gia-min chạy trốn khỏi người Ít-ra-en về phía sa mạc nhưng không thoát khỏi được mặt trận. Người Ít-ra-en từ các thành đổ ra đánh giết họ. 43 Họ bao vây người Bên-gia-min, rượt theo và bắt được họ nơi vùng phía Đông Ghi-bê-a. 44 Như thế có 18.000 chiến sĩ anh dũng của người Bên-gia-min bị giết.

45 Người Bên-gia-min chạy về phía sa mạc đến tảng đá Rim-môn nhưng dọc đường người Ít-ra-en giết thêm 5.000 người Bên-gia-min nữa. Họ rượt người Bên-gia-min chạy cho đến Ghi-đôm, rồi giết thêm 2.000 người Bên-gia-min nữa tại đó.

46 Trong ngày đó 25.000 người Bên-gia-min bị giết, tất cả đều đã chiến đấu anh dũng bằng gươm giáo. 47 Nhưng 600 người Bên-gia-min chạy thoát đến tảng đá Rim-môn trong sa mạc và trốn ở đó bốn tháng. 48 Rồi người Ít-ra-en trở lại đất Bên-gia-min giết tất cả mọi người trong các thành cùng gia súc hay bất cứ thứ gì họ thấy. Họ cũng thiêu đốt tất cả thành phố nào họ gặp.

Kiếm vợ cho người Bên-gia-min

21 Tại Mích-ba toàn dân Ít-ra-en thề, “Không ai trong chúng ta được phép gả con gái mình cho một người đàn ông Bên-gia-min nào.”

2 Toàn thể dân chúng đi đến thành Bê-tên ngồi trước mặt Thượng Đế khóc lóc thảm thiết cho đến chiều tối. 3 Họ than, “Chúa là Thượng Đế của Ít-ra-en ôi, tại sao chuyện bi thảm nầy xảy ra đến nỗi bây giờ thiếu mất một chi tộc trong Ít-ra-en?”

4 Sáng sớm hôm sau dân chúng xây một bàn thờ rồi dâng của lễ thiêu và của lễ thân hữu cho Thượng Đế lên đó. 5 Rồi dân Ít-ra-en hỏi nhau, “Có chi tộc nào hôm nay không đến đây ra mắt CHÚA với chúng ta hay không?” Sở dĩ họ hỏi như vậy là vì họ đã thề rằng ai không đến họp mặt tại Mích-ba sẽ bị xử tử.

6 Dân Ít-ra-en cảm thấy đau lòng cho anh em mình là người Bên-gia-min. Họ than, “Hôm nay có một chi tộc đã bị cắt đứt khỏi Ít-ra-en. 7 Chúng ta đã thề trước mặt CHÚA là chúng ta sẽ không gả con gái chúng ta cho người Bên-gia-min. Làm sao chúng ta giúp kiếm vợ cho những người đàn ông Bên-gia-min còn lại.”

8 Sau đó họ hỏi nhau, “Có ai trong vòng các chi tộc Ít-ra-en không đến đây ở Mích-ba không?” Rồi họ nhận thấy không có ai từ thành Gia-be Ghi-lê-át đến cả. 9 Dân Ít-ra-en kiểm điểm mọi người thì không thấy có ai từ Gia-be Ghi-lê-át cả. 10 Cho nên tập thể dân Ít-ra-en phái mười hai ngàn binh sĩ đến Gia-be Ghi-lê-át. Họ bảo các binh sĩ “Hãy đi đến Gia-be Ghi-lê-át. Dùng gươm giết hết mọi dân cư ở đó kể cả đàn bà trẻ con. 11 Các ngươi phải làm như sau: Giết tất cả những đàn ông và đàn bà có chồng ở Gia-be Ghi-lê-át. Nhưng đừng giết các thiếu nữ chưa ăn nằm với đàn ông.” Cho nên họ làm đúng như thế. [j] 12 Các binh sĩ tìm được bốn trăm thiếu nữ chưa có chồng ở Gia-be Ghi-lê-át mang về doanh trại tại Si-lô trong Ca-na-an.

13 Rồi toàn dân Ít-ra-en sai nhắn với những người đàn ông Bên-gia-min đang trốn ở tảng đá Rim-môn, tìm cách giải hoà với họ. 14 Các người Bên-gia-min liền trở về. Người Ít-ra-en cho họ những người đàn bà ở Gia-be Ghi-lê-át không bị giết, nhưng không đủ đàn bà cho mỗi người.

15 Người Ít-ra-en thương hại người Bên-gia-min vì CHÚA đã tách họ ra khỏi các chi tộc Ít-ra-en. 16 Các bô lão trong Ít-ra-en bảo, “Tất cả các người đàn bà Bên-gia-min đã bị giết. Bây giờ chúng ta kiếm đâu ra vợ cho những người đàn ông Bên-gia-min còn sống đây? 17 Những người nầy phải có con cái nối dõi để trong Ít-ra-en không mất một chi tộc. 18 Nhưng chúng ta không thể gả con gái chúng ta cho họ vì chúng ta đã thề, ‘Ai gả con gái cho người Bên-gia-min làm vợ sẽ bị nguyền rủa.’” 19 Vậy bây giờ có ý kiến nầy! Hằng năm có một đại lễ cho CHÚA tại Si-lô nằm về phía bắc thành Bê-tên, phía đông con đường đi từ Bê-tên đến Sê-chem, và phía nam thành Lê-bô-na.

20 Cho nên các bô lão bảo mấy người Bên-gia-min, “Hãy đi núp trong vườn nho. 21 Rình xem các cô gái trẻ đi ra nhảy múa. Rồi xông ra khỏi vườn nho bắt một trong các cô đó mang về xứ Bên-gia-min. 22 Nếu cha mẹ hoặc anh em họ đến khiếu nại chúng ta sẽ bảo, ‘Xin các ông hãy tử tế với người Bên-gia-min một tí. Chúng tôi không cướp vợ cho người Bên-gia-min trong chiến tranh, các ông cũng không có gả đàn bà cho các người Bên-gia-min. Cho nên các ông không có lỗi gì hết.’”

23 Vậy người Bên-gia-min làm theo cách ấy. Trong khi các cô gái đi ra nhảy múa thì mỗi người đàn ông bắt một cô mang về làm vợ. Rồi họ trở về đất mà Thượng Đế cấp cho họ, xây thành và định cư ở đó. 24 Các người Ít-ra-en trở về với chi tộc và họ hàng, với đất đai Thượng Đế cấp cho mình.

25 Trong thời đó Ít-ra-en không có vua. Ai nấy cứ tự do làm điều gì mà mình cho là đúng.

Nạn đói kém trong xứ Giu-đa

Xưa kia vào thời kỳ các quan án cai trị Ít-ra-en, trong xứ gặp nạn đói kém. 2 Có một người tên Ê-li-mê-léc ở Bết-lê-hem và vợ cùng hai con trai đi sang xứ Mô-áp sinh sống. Vợ ông tên Na-ô-mi, còn hai con trai tên Ma-lôn và Ki-li-ôn. Họ là dân Ép-ra-tha thuộc Bết-lê-hem, xứ Giu-đa. Họ xuống xứ Mô-áp định cư.

3 Ê-li-mê-léc, chồng của Na-ô-mi qua đời tại đó, để lại vợ và hai con trai. 4 Hai cậu con cưới vợ người Mô-áp. Một cô tên Ọt-ba, cô kia tên Ru-tơ. Sau khi Na-ô-mi và hai con trai cư ngụ ở xứ Mô-áp khoảng mười năm, 5 thì Ma-lôn và Ki-li-ôn cũng qua đời. Na-ô-mi rốt cuộc còn lại một mình, không chồng không con.

Na-ô-mi trở về quê quán

6 Đang khi ở Mô-áp thì Na-ô-mi nghe rằng CHÚA đã đến cứu giúp dân Ngài và ban thực phẩm cho họ trở lại nên bà cùng hai con dâu chuẩn bị lên đường về quê hương. 7 Na-ô-mi cùng hai con dâu rời nơi ở lên đường trở về xứ Giu-đa.

8 Nhưng Na-ô-mi bảo hai nàng dâu rằng, “Các con hãy trở về nhà mẹ mình đi. Nguyện CHÚA tỏ lòng nhân từ Ngài cho các con như các con đã tỏ lòng nhân từ cùng mẹ và các con trai đã qua đời của mẹ. 9 Nguyện CHÚA ban cho các con hạnh phúc nơi nhà chồng mới.” Khi Na-ô-mi hôn từ giã hai nàng thì cả ba đều oà lên khóc.

10 Hai nàng thưa với Na-ô-mi, “Không, chúng con muốn đi với mẹ đến cùng dân tộc mẹ.”

11 Nhưng Na-ô-mi bảo, “Các con gái ta ơi, hãy trở về nhà mình đi. Sao các con muốn theo mẹ làm gì? Mẹ đâu có còn sinh con trai nữa để làm chồng các con; 12 các con gái của mẹ ơi, hãy trở về nhà mình đi. Mẹ già rồi đâu còn lấy chồng được nữa. Dù mẹ tự nhủ, ‘Ta vẫn còn hi vọng,’ dù đêm nay mẹ lấy chồng, và dù mẹ sinh thêm con trai nữa, 13 chẳng lẽ các con sẽ chờ cho đến khi chúng nó khôn lớn sao? Các con chịu ở bao nhiêu năm như thế mà không lấy chồng khác sao? Không nên, các con gái của mẹ ơi. Các con không thể nào thông cảm nỗi sầu khổ của mẹ được vì CHÚA đã nghịch lại mẹ!”

14 Họ lại cùng oà khóc. Rồi Ọt-ba hôn và từ giã Na-ô-mi, mẹ chồng mình, nhưng Ru-tơ vẫn khăng khăng không chịu rời Na-ô-mi.

15 Na-ô-mi bảo Ru-tơ, “Kìa, chị em bạn dâu của con đã trở về với dân tộc và thần của nó. Con hãy theo nó đi.”

16 Nhưng Ru-tơ thưa, “Xin đừng ép con rời mẹ hay xa mẹ. Mẹ đi đâu, con sẽ theo đó. Mẹ sống nơi nào, con muốn sống nơi đó. Dân tộc của mẹ là dân tộc của con, Thượng Đế mẹ sẽ là Thượng Đế của con. 17 Mẹ chết ở đâu, con cũng muốn chết và được chôn nơi đó. Nếu không phải vì cái chết phân rẽ mẹ và con thì cầu CHÚA phạt con thật nặng.”

18 Thấy Ru-tơ nhất quyết theo mình, Na-ô-mi không khuyên nữa. 19 Na-ô-mi và Ru-tơ tiếp tục đi cho đến khi tới thành Bết-lê-hem. Vào thành thì mọi người trong thành đều xúc động. Các người đàn bà hỏi, “Đây có phải thật là Na-ô-mi không?”

20 Na-ô-mi đáp, “Đừng gọi tôi là Na-ô-mi [k] nữa mà gọi là Ma-ra [l] vì Đấng Toàn Năng khiến đời tôi bi thảm lắm. 21 Khi ra đi tôi có đủ thứ, mà bây giờ CHÚA dẫn tôi về tay không. Vậy thì gọi tôi là Na-ô-mi làm gì khi CHÚA đã hại tôi và Đấng Toàn Năng đã gây cho tôi bao nhiêu khốn khổ?”

22 Na-ô-mi và Ru-tơ, người Mô-áp, con dâu mình, từ xứ Mô-áp trở về Bết-lê-hem nhằm lúc đầu mùa gặt lúa mạch.

Ru-tơ gặp Bô-ô

Na-ô-mi có một người bà con gần [m] và giàu có tên Bô-ô, thuộc dòng họ Ê-li-mê-léc.

2 Một hôm, Ru-tơ, người Mô-áp xin phép Na-ô-mi rằng, “Con sẽ đi ra đồng. Hi vọng có ai tử tế cho con mót lúa rơi vãi đằng sau các thợ gặt.”

Na-ô-mi đáp, “Đi đi con.”

3 Vậy Ru-tơ đi vào ruộng và mót lúa [n] mà con gặt làm rớt. Vô tình nàng lại gặp đúng thửa ruộng của Bô-ô, thuộc dòng họ Ê-li-mê-léc.

4 Tình cờ Bô-ô từ Bết-lê-hem đi lên chào hỏi các người làm công, “Cầu CHÚA ban phước cho các anh chị em!”

Họ đồng trả lời, “Nguyện CHÚA cũng ban phước cho ông!”

5 Sau đó Bô-ô hỏi người đầy tớ coi các thợ gặt, “Cô ấy là con ai vậy?”

6 Kẻ tôi tớ đáp, “Cô ta là thiếu nữ Mô-áp từ xứ Mô-áp trở về cùng với Na-ô-mi. 7 Cô ta xin, ‘Làm ơn cho tôi đi theo các thợ gặt để mót lúa rơi rớt sau lưng họ.’ Cô đến đây làm từ sáng tới giờ và chỉ mới nghỉ ngơi chốc lát dưới chòi [o] mà thôi.”

8 Bô-ô liền bảo Ru-tơ, “Nầy con gái ta, nghe đây. Đừng đi mót lúa nơi ruộng khác. Đừng ra khỏi ruộng nầy nhưng hãy cứ đi theo sát các chị thợ gặt. 9 Hãy xem họ gặt ở đâu thì đi theo. Tôi đã dặn các chàng thanh niên không được chọc ghẹo chị. Khi nào khát nước thì cứ việc đi đến uống nơi bình mà các thanh niên đã rót đầy.”

10 Ru-tơ liền cúi sấp mặt xuống đất thưa cùng Bô-ô rằng, “Tôi không phải là người Ít-ra-en. Tại sao ông tử tế với tôi như thế?”

11 Bô-ô trả lời, “Tôi có nghe thuật lại những điều chị làm cho mẹ chồng chị sau khi chồng chị qua đời. Chị rời cha mẹ quê hương đi đến một xứ mà chị không quen biết ai. 12 Cầu CHÚA ban thưởng cho chị về những điều chị làm. Nguyện CHÚA là Thượng Đế của Ít-ra-en, Đấng mà chị đến núp dưới cánh thưởng công cho chị [p].”

13 Ru-tơ tiếp, “Thưa ông, tôi mong tiếp tục làm ông hài lòng. Ông đã nói những lời lẽ nhân từ cùng tôi, kẻ tôi tớ ông, mặc dù tôi không phải là tôi tớ của ông.”

14 Đến bữa ăn, Bô-ô bảo Ru-tơ, “Chị hãy đến ngồi đây.

Hãy dùng ít bánh mì của chúng tôi và nhúng vào trong nước chấm.” Bô-ô đưa cho cô gạo rang, cô ăn cho đến khi no mà vẫn còn thừa. 15 Khi Ru-tơ đứng dậy trở lại làm việc thì Bô-ô dặn các người làm công rằng, “Hãy để cho cô ta lượm giữa các bó lúa đã gặt. Đừng đuổi nàng đi.

16 Thỉnh thoảng hãy bỏ rơi một vài gié lúa trong tay các ngươi cho nàng lượm. Cứ bảo nàng tiếp tục lượm.”

17 Vì thế Ru-tơ mót lúa trong ruộng cho đến chiều. Rồi cô đập lúa ra thì được khoảng nửa thùng [q] lúa mạch. 18 Ru-tơ mang lúa vào thành. Mẹ chồng cô thấy số lúa cô đã mót được. Ru-tơ cũng lấy ra thức ăn còn dư lại lúc trưa trao cho Na-ô-mi.

19 Na-ô-mi hỏi cô, “Hôm nay con mót được số lúa nầy ở đâu vậy? Con làm việc ở chỗ nào? Phúc cho ai đã lưu ý đến con!”

Ru-tơ thuật lại cho mẹ chồng biết mình làm việc ở ruộng của ai. Cô nói, “Người mà con mót lúa tên Bô-ô.”

20 Na-ô-mi bảo, “Nguyện CHÚA ban phúc lành cho ông ta! Ngài vẫn tiếp tục tỏ lòng nhân từ đối cùng chúng ta, cả người sống lẫn người chết!” Rồi Na-ô-mi nói với Ru-tơ, “Bô-ô là một trong những bà con gần của chúng ta, người có thể lo cho chúng ta được [r].”

21 Rồi Ru-tơ, người Mô-áp kể tiếp, “Ông Bô-ô cũng dặn con, ‘Hãy đi theo sát các thợ gặt cho đến khi họ gặt xong mùa lúa của tôi.’”

22 Na-ô-mi bảo Ru-tơ, con dâu mình, “Con nên tiếp tục làm chung với các chị thợ gặt của ông ta. Nếu con làm ở ruộng khác con có thể gặp rắc rối đó.” 23 Vì thế Ru-tơ theo sát các thợ gặt của Bô-ô và mót lúa cho đến khi xong vụ gặt lúa mạch và lúa mì. Cô vẫn tiếp tục ở chung với Na-ô-mi, mẹ chồng mình.

Ru-tơ đi gặp Bô-ô nơi sân đập lúa

Sau đó Na-ô-mi, mẹ chồng của Ru-tơ bảo, “Con ơi, mẹ phải tìm nơi cho con nương thân, người xứng đáng với con. 2 Bô-ô, người chủ những chị thợ gặt mà con làm việc chung là bà con gần [s] của mình. Tối nay ông ta sẽ làm việc nơi sân đập lúa. 3 Con hãy tắm rửa sạch sẽ, xức dầu thơm, thay quần áo mới và đi xuống sân đập lúa. Nhưng đừng cho ông ta biết con có mặt ở đó cho đến khi ông ta ăn tối xong. 4 Hãy để ý xem ông nằm ngủ ở đâu rồi đi đến nhè nhẹ giở mền che chân ông [t] và nằm xuống. Ông sẽ bảo con biết con phải làm gì.”

5 Ru-tơ đáp, “Con sẽ làm mọi điều mẹ dặn.”

6 Vậy Ru-tơ đi xuống sàn đập lúa và làm y như điều mẹ chồng mình dặn. 7 Sau bữa ăn chiều, Bô-ô cảm thấy khoan khoái trong lòng và đi nằm ngủ kế bên đống lúa. Ru-tơ lặng lẽ đến bên ông giở mền che chân ông và nằm xuống.

8 Khoảng nửa đêm Bô-ô giật mình thức giấc lăn qua một bên thì thấy có một người đàn bà nằm dưới chân mình! 9 Bô-ô hỏi, “Chị là ai vậy?”

Ru-tơ đáp, “Tôi là Ru-tơ, kẻ tôi tớ gái của ông. Xin hãy bảo hộ cho tôi [u] vì ông là bà con gần có thể lo cho tôi được.”

10 Rồi Bô-ô tiếp, “Con gái ơi, nguyện CHÚA ban phúc cho con. Hành vi nhân từ nầy của con còn lớn hơn hành vi nhân từ con làm cho Na-ô-mi lúc đầu nữa. Con không chạy theo các chàng trai trẻ để kết hôn, bất luận giàu nghèo. 11 Bây giờ, hỡi con gái tôi, đừng sợ. Tôi sẽ làm mọi điều con yêu cầu vì ai nấy trong thành đều biết con là người đàn bà hiền đức. 12 Đúng, tôi là bà con gần có thể lo cho con nhưng con có một người bà con khác gần hơn tôi nữa. 13 Hãy ở lại đây đêm nay, rồi đến sáng tôi sẽ xem người đó có lo cho con được không. Nếu được thì tốt. Còn nếu người không chịu làm chuyện đó thì tôi chỉ CHÚA hằng sống mà cam kết, tôi sẽ lo cho con [v]. Hãy ở đây đến sáng mai.”

14 Vậy Ru-tơ nằm gần chân Bô-ô cho đến sáng sớm nhưng đến tờ mờ sáng lúc không ai nhận dạng ra ai thì cô dậy.

Bô-ô thầm nghĩ, “Người trong thành không nên biết có một người đàn bà đã đến đây trong sân đập lúa.” 15 Vì thế Bô-ô bảo Ru-tơ, “Hãy mang khăn choàng của cô đến đây rồi trải ra.”

Ru-tơ trải khăn choàng ra, Bô-ô đổ vào đó sáu phần lúa mạch. Rồi Bô-ô đặt số lúa đó trên đầu Ru-tơ rồi trở vào thành.

16 Khi Ru-tơ trở về cùng mẹ chồng thì Na-ô-mi hỏi, “Hôm nay công việc ra sao, con gái của mẹ?”

Ru-tơ thuật lại cho Na-ô-mi mọi điều Bô-ô làm cho mình. 17 Cô kể, “Bô-ô cho con sáu phần lúa mạch nầy và bảo, ‘Chị không nên đi về với mẹ chồng mà không có quà cáp gì.’”

18 Na-ô-mi đáp, “Ru-tơ, con gái của mẹ ơi, con hãy chờ đây xem sự việc diễn tiến ra sao. Bô-ô sẽ không nghỉ ngơi cho đến khi ông lo xong công việc hôm nay.”

Bô-ô kết hôn cùng Ru-tơ

Bô-ô đi đến cửa thành và ngồi đó. Tình cờ có một người bà con gần mà ông nói đến đi ngang qua. Bô-ô kêu ông ta, “Bạn ơi, hãy đến ngồi xuống đây.” Vậy người ấy đến ngồi xuống.

2 Bô-ô tập họp mười bô lão trong thành và bảo họ, “Các anh hãy ngồi xuống đây!” Vậy họ đều ngồi xuống.

3 Rồi Bô-ô nói với người bà con gần rằng, “Na-ô-mi mới về từ xứ Mô-áp muốn bán miếng đất trước kia thuộc về Ê-li-mê-léc, bà con chúng ta. 4 Nên tôi muốn anh biết việc đó: Nếu anh muốn chuộc miếng đất đó thì hãy làm đi trước mặt dân chúng đang ngồi đây và trước mặt các bô lão trong dân chúng. Còn nếu anh không muốn mua thì cho tôi biết, vì chỉ có một mình anh có quyền chuộc được thôi, rồi mới đến tôi.” Người bà con gần đáp, “Tôi sẽ mua miếng đất ấy.”

5 Bô-ô giải thích thêm, “Khi anh mua miếng đất đó của Na-ô-mi, anh cũng phải lấy luôn Ru-tơ, người Mô-áp, vợ của người chết. Như thế đất sẽ lưu truyền tên của người chết.”

6 Người bà con gần bảo, “Nếu vậy thì tôi không thể mua miếng đất đó được đâu; vì làm như thế là tôi có thể mất phần tài sản tôi truyền lại cho các con trai tôi. Tôi không thể mua miếng đất đó được cho nên anh mua đi.” 7 Xưa kia trong Ít-ra-en có tục lệ là khi ai mua bán vật gì thì người nầy cởi dép ra trao cho người kia để làm bằng chứng về chủ quyền trong Ít-ra-en. 8 Vì thế người bà con gần bảo Bô-ô, “Anh hãy mua miếng đất đó đi,” rồi người cởi dép ra và trao cho Bô-ô.

9 Bô-ô nói cùng các bô lão và toàn thể dân chúng rằng, “Xin các anh em làm chứng hôm nay. Tôi mua từ tay Na-ô-mi mọi thứ thuộc về Ê-li-mê-léc, Ki-li-ôn, và Ma-lôn. 10 Tôi cũng lấy Ru-tơ, người Mô-áp, trước là vợ của Ma-lôn, làm vợ tôi. Tôi làm thế nầy để tài sản của người chồng quá cố của cô ta sẽ mang tên tuổi người ấy và để cho tên người không bị xóa bỏ khỏi gia tộc và quê quán mình. Hôm nay xin các anh em hãy làm nhân chứng việc nầy.”

11 Toàn dân và các bô lão có mặt ở cửa thành nói, “Chúng tôi xin làm nhân chứng. Nguyện CHÚA khiến cho người đàn bà sẽ vào nhà ông được như Ra-chên và Lê-a, có đông con và gây dựng dân Ít-ra-en. Nguyện ông trở nên hùng mạnh trong hạt Ép-ra-tha [w] và nổi danh trong Bết-lê-hem. 12 Như Ta-ma đã sinh Phê-rê [x], con trai của Giu-đa ra sao, thì nguyện CHÚA ban cho ông nhiều con qua Ru-tơ như thế. Nguyện gia đình ông đông đảo như gia đình Giu-đa vậy.”

Dòng dõi của Đa-vít

13 Vậy Bô-ô lấy Ru-tơ làm vợ và ăn nằm cùng cô. CHÚA cho cô thụ thai và sinh một trai. 14 Các người đàn bà bảo Na-ô-mi, “Đáng chúc tụng CHÚA đã ban cho chị cháu trai nầy. Nguyện nó sẽ nổi danh trong Ít-ra-en. 15 Nó sẽ ban sức sống mới cho chị, lo cho chị trong tuổi già vì con dâu chị yêu mến chị. Con dâu chị còn hơn bảy đứa con trai vì đã sinh cho chị cháu trai nầy.”

16 Na-ô-mi bồng đứa bé trong tay và chăm sóc nó. 17 Các láng giềng đến thăm nói rằng, “Na-ô-mi bây giờ đã có con trai.” Họ đặt tên nó là Ô-bết. Ô-bết là cha Gie-xê, Gie-xê là cha Đa-vít.

18 Sau đây là gia phổ của Phê-rê, cha Hết-rôn.

19 Hết-rôn sinh Ram,

Ram sinh Am-mi-na-đáp.

20 Am-mi-na-đáp sinh Na-sôn,

Na-sôn sinh Xanh-môn.

21 Xanh-môn sinh Bô-ô,

Bô-ô sinh Ô-bết.

22 Ô-bết sinh Gie-xê, và Gie-xê sinh Đa-vít.

Sa-mu-ên ra đời

Trong thành Ra-ma-tha-in thuộc vùng núi Ép-ra-im có một người tên Ên-ca-na, con Giê-hô-ram. Ên-ca-na thuộc gia đình Xu-phơ. Giê-hô-ram là con Ê-li-hu. Ê-li-hu, con Tô-hu, còn Tô-hu là con Xu-phơ thuộc họ Ép-ra-im.

2 Ên-ca-na có hai vợ, một người tên là An-na, người kia tên Phê-ni-na. Phê-ni-na có con còn An-na thì không.

3 Mỗi năm Ên-ca-na từ thị trấn Ra-ma đi lên Si-lô thờ lạy CHÚA Toàn Năng và dâng của lễ cho Ngài. Tại đó có Hóp-ni và Phi-nê-a, hai con trai Hê-li làm thầy tế lễ cho CHÚA. 4 Khi nào dâng của lễ thì Ên-ca-na luôn luôn chia phần thịt với Phê-ni-na, vợ mình cùng các con trai và con gái. 5 Nhưng Ên-ca-na bao giờ cũng cho An-na một phần đặc biệt [y] hơn vì Ên-ca-na yêu An-na mặc dù CHÚA không cho nàng có con.

Phê-ni-na trêu chọc An-na

6 Phê-ni-na hay trêu chọc An-na khiến nàng bực tức vì CHÚA không cho nàng có con. 7 Việc đó diễn ra hằng năm khi họ lên nhà của CHÚA ở Si-lô. Phê-ni-na chọc An-na tức đến nỗi phát khóc và không chịu ăn. 8 Ên-ca-na, chồng nàng hỏi, “An-na, sao em khóc và không chịu ăn? Sao em buồn? Anh không đáng cho em hơn mười đứa con trai sao?”

Lời cầu nguyện của An-na

9 Một lần nọ sau khi ăn uống xong, An-na đứng dậy [z]. Lúc đó thầy tế lễ Hê-li đang ngồi trên ghế nơi cửa ra vào nhà của CHÚA [aa]. 10 An-na buồn bực đến phát khóc và nàng cầu nguyện cùng CHÚA. 11 Nàng hứa nguyện như sau, “Lạy CHÚA Toàn Năng, Ngài biết con rất buồn bực. Xin hãy nhớ đến con. Nếu Ngài cho con một con trai, con sẽ dâng nó lại cho Ngài trọn đời, nó sẽ không uống rượu hay đồ uống say [ab], sẽ không có dao cạo nào cắt tóc nó.”

12 Trong khi An-na đang cầu nguyện thì Hê-li nhìn chăm miệng nàng. 13 Nàng thầm nguyện trong lòng, chỉ mấp máy đôi môi, không ai nghe tiếng cả. Hê-li tưởng nàng say rượu 14 nên bảo nàng, “Đừng say rượu nữa! Bỏ rượu đi!”

15 An-na đáp, “Dạ không phải vậy thưa thầy. Con đâu bao giờ uống rượu. Con buồn bực trong lòng cho nên con thưa chuyện cùng CHÚA. 16 Đừng nghĩ lầm con là người đàn bà hư hỏng. Con cầu nguyện vì con có nhiều điều buồn bực trong lòng.”

17 Hê-li bảo, “Thôi con đi đi. Ta chúc con vạn sự như ý. Cầu Thượng Đế của Ít-ra-en ban cho con điều con cầu xin Ngài.”

18 An-na thưa, “Dạ con mong được phước trước mặt thầy.” Rồi nàng ăn, vẻ mặt không còn buồn thảm nữa.

19 Sáng sớm hôm sau gia đình Ên-ca-na dậy và thờ lạy CHÚA rồi lên đường trở về nhà ở Ra-ma.

Sa-mu-ên ra đời

Ên-ca-na ăn nằm với vợ mình là An-na; CHÚA đoái thương An-na. 20 Nàng thụ thai rồi đúng kỳ thì nàng sinh được một con trai. Nàng đặt tên nó là Sa-mu-ên vì nàng bảo rằng, “Tôi đặt tên nó là Sa-mu-ên vì tôi dã cầu xin CHÚA ban nó cho tôi.”

An-na dâng Sa-mu-ên cho Thượng Đế

21 Mỗi năm cả gia đình Ên-ca-na lên Si-lô để dâng của lễ và giữ lời khấn hứa với Thượng Đế. 22 Nhưng lần đó An-na không đi. Nàng bảo chồng, “Khi nó đủ lớn có thể ăn thức ăn thường thì em sẽ mang nó lên Si-lô. Rồi em sẽ dâng nó cho CHÚA. Nó sẽ trở thành người Na-xi-rê [ac] và sẽ sống ở Si-lô suốt đời.”

23 Ên-ca-na, chồng nàng bảo, “Sao cũng được. Em cứ ở nhà cho đến khi đứa nhỏ đủ lớn biết ăn. Cầu CHÚA làm trọn điều em vừa nói.” Vậy An-na ở nhà nuôi con cho đến khi nó đủ lớn biết ăn.

24 Khi Sa-mu-ên đủ lớn biết ăn thì An-na mang cậu bé lên nhà CHÚA ở Si-lô. Nàng cũng mang theo một con bò đực một tuổi, hai mươi hai lít bột mì, và một bầu rượu.

25 Sau khi giết con bò làm của lễ như thường lệ [ad], An-na mang Sa-mu-ên đến trình diện Hê-li. 26 Nàng bảo Hê-li, “Thưa ông, tôi là người đàn bà lúc trước đứng gần ông mà cầu nguyện. 27 Nó là đứa con mà tôi cầu khẩn, CHÚA nghe lời khẩn nguyện của tôi, ban nó cho tôi. 28 Bây giờ tôi dâng nó lại cho CHÚA. Nó sẽ thuộc về CHÚA [ae] trọn đời nó.” Rồi cả hai thờ lạy CHÚA và để đứa trẻ lại đó [af].

Bài cảm tạ của An-na

An-na cầu nguyện rằng:

“CHÚA ban cho lòng tôi đầy niềm hân hoan;Tôi cảm thấy mạnh mẽ [ag] trong Ngài.Tôi dám cười kẻ thù tôi [ah];Tôi hớn hở vì Ngài giúp tôi!2 Không có ai thánh thiện như CHÚA,Không có thần nào ngoài Thượng Đế;Không có Khối Đá nào như Thượng Đế chúng ta.3 Đừng mãi khoác lác,chớ nên nói những lời tự phụ.CHÚA là Thượng Đế, Đấng biết mọi điều,Ngài cân nhắc từng hành vi con người.4 Cung của chiến sĩ có thể gãy,nhưng kẻ yếu lại trở nên mạnh.5 Những kẻ trước kia no đủnay phải làm lụng mới có ăn,nhưng người trước kia bị đói khổnay lại được no đủ.Người đàn bà trước kia không connay sinh bảy,Còn người đàn bà có đông connay trở nên buồn thảm.6 CHÚA sai sự chết,và mang sự sống đến.Ngài đưa người ta xuống huyệt,Rồi khiến họ sống dậy.7 CHÚA làm cho một số người trở nên nghèo khó,và kẻ khác được giàu có.Ngài hạ một số người xuốngvà nâng kẻ khác lên.8 CHÚA nhấc kẻ nghèo dậy khỏi bụi đất,và nâng người khốn cùng lên từ đống tro [ai].Ngài để kẻ nghèo ngồi chung với quan trưởngvà nhận ngôi vinh dự.Nền trái đất thuộc về CHÚA,Ngài đặt thế giới trên nền đó.9 Ngài bảo vệ những kẻ trung tín với Ngài,nhưng kẻ ác phải nín lặng trong bóng tối.Quyền hành không phải là bí quyết của thành công.10 CHÚA tiêu diệt kẻ thù mình;Từ trời Ngài làm sấm rền nghịch lại chúng.CHÚA sẽ phân xử cả đất.Ngài sẽ ban quyền lực cho vua Ngàivà khiến vua mà Ngài bổ nhiệm [aj] được vững mạnh.”

Các con trai gian ác của Hê-li

11 Rồi Ên-ca-na trở về nhà ở Ra-ma còn cậu bé Sa-mu-ên ở lại phục vụ CHÚA dưới quyền của thầy tế lễ Hê-li.

12 Các con Hê-li rất gian ác; chúng nó chẳng hề biết CHÚA. 13 Chúng thường làm như sau: Mỗi khi có ai mang của lễ đến thì thịt thường được nấu trong nồi. Một đứa đầy tớ của thầy tế lễ đến cầm cái chĩa ba. 14 Nó thọc cái chĩa vào trong nồi. Hễ móc lên được miếng thịt nào thì thầy tế lễ lấy miếng đó. Họ đối xử với dân chúng đi đến Si-lô dâng của lễ như thế. 15 Có khi ngay cả trước khi thiêu mỡ, đầy tớ của thầy tế lễ đến bảo người dâng của lễ rằng, “Đưa cho thầy tế lễ một miếng thịt để nướng. Ông ta không chịu lấy thịt chín đâu, chỉ muốn thịt sống thôi.”

16 Nếu người dâng của lễ bảo, “Đợi thiêu mỡ [ak] trước rồi sau đó anh muốn lấy gì thì lấy,” thì đầy tớ bảo, “Không, đưa tôi thịt sống ngay bây giờ, bằng không tôi giật đó.”

17 CHÚA thấy tội lỗi của các tên đầy tớ thật quá lắm vì chúng không kính trọng của lễ dâng lên cho Ngài.

Sa-mu-ên khôn lớn

18 Nhưng Sa-mu-ên vâng lời CHÚA. Lúc còn nhỏ, Sa-mu-ên mặc một áo cánh bằng vải. 19 Mỗi năm mẹ Sa-mu-ên may cho cậu một cái áo choàng nhỏ lúc nàng đi lên Si-lô với chồng để dâng của lễ. 20 Khi Hê-li chúc phước cho Ên-ca-na và vợ, ông nói, “Cầu CHÚA đền đáp lại cho ngươi, ban cho ngươi nhiều con qua An-na để thay thế cho đứa trẻ mà nàng đã cầu xin và dâng cho CHÚA.” 21 CHÚA tỏ lòng nhân từ với An-na, cho nên nàng sinh thêm ba con trai và hai con gái nữa, còn cậu bé Sa-mu-ên lớn lên phục vụ CHÚA.

Ê-li không kiểm soát được hai con của mình

22 Lúc đó Hê-li đã già lắm. Ông nghe biết hết những chuyện các con mình làm cho toàn dân Ít-ra-en cùng chuyện chúng nó ăn nằm với các phụ nữ phục vụ nơi cửa Lều Họp. 23 Hê-li hỏi các con, “Tại sao chúng bay làm chuyện bậy bạ mà người ta kể cho tao nghe vậy? 24 Không được đâu, các con! Dân sự CHÚA đã đồn tiếng xấu về các con. 25 Nếu các con phạm tội cùng người khác, CHÚA có thể tha thứ được. Còn nếu các con phạm tội cùng CHÚA, thì sẽ không ai tha thứ được đâu!” Nhưng các con Hê-li không thèm nghe cha mình vì CHÚA nhất định giết chúng nó.

26 Cậu bé Sa-mu-ên khôn lớn. Cậu làm vui lòng CHÚA và dân chúng.

Lời tiên tri đáng sợ về gia đình Hê-li

27 Có một người của Thượng Đế đến bảo Hê-li, “CHÚA phán như sau: Ta hiện ra cùng gia đình của tổ tiên [al] ngươi là A-rôn khi họ còn là nô lệ cho vua Ai-cập. 28 Ta đã chọn họ từ trong các chi tộc Ít-ra-en để làm thầy tế lễ cho ta. Ta muốn họ đi đến bàn thờ ta, dâng hương, và mặc áo ngắn thánh. Ta cũng để cho gia đình tổ tiên ngươi có phần trong các của lễ do dân Ít-ra-en cung hiến. 29 Sao ngươi khinh thường các của lễ dân chúng mang đến cho ta mà trọng các con mình hơn ta? Ngươi hành động như thế khi chiếm lấy cho mình những phần tốt nhất trong số thịt dân Ít-ra-en đem đến cho ta.

Footnotes

  1. Các Thủ Lãnh 15:17 Ra-mát Lê-hi Nghĩa là “Đồi hàm lừa.”
  2. Các Thủ Lãnh 15:19 Suối Khẩn cầu Nguyên văn, “Ên-Ha-co-rê.”
  3. Các Thủ Lãnh 16:14 con thoi Dụng cụ để kéo chỉ dệt vải trên khung cửi.
  4. Các Thủ Lãnh 17:5 áo ngắn thánh Nguyên văn, “ê-phót.” Đây có thể là loại áo ngắn mà thầy tế lễ tối cao mặc (xem Xuất 28:2-14) hoặc có thể là một hình tượng. Xem thêm 18:14.
  5. Các Thủ Lãnh 18:7 không giao dịch với ai Nguyên văn, “không kết ước với người A-ram.”
  6. Các Thủ Lãnh 18:12 Ma-ha-nê Đan Nghĩa là “Trại quân của người Đan.”
  7. Các Thủ Lãnh 19:18 nhà tôi Câu nầy dựa theo bản cổ Hi-lạp. Bản Hê-bơ-rơ ghi “nhà của CHÚA.”
  8. Các Thủ Lãnh 19:23 Người nầy là khách của tôi Vào thời bấy giờ nếu ai mời người nào làm khách của mình thì người ấy phải bảo vệ và chăm sóc người khách đó.
  9. Các Thủ Lãnh 20:1 từ Đan cho đến Bê-e-sê-ba Nghĩa là toàn quốc hay khắp cả xứ.
  10. Các Thủ Lãnh 21:11 Nhưng đừng … như thế Câu nầy dựa theo bản cổ Hi-lạp.
  11. Ru-tơ 1:20 Na-ô-mi Nghĩa là “vui mừng hay ngon ngọt.”
  12. Ru-tơ 1:20 Ma-ra Nghĩa là “cay đắng” hay “buồn thảm.”
  13. Ru-tơ 2:1 bà con gần Vào thời xưa bên nước Do-thái, khi đàn ông nào chết không con thì một trong những thân nhân gần sẽ lấy vợ goá của người ấy để nối dòng cho người chết. Tài sản và con cái của thân nhân sẽ thuộc về người chết để lưu danh cho người ấy.
  14. Ru-tơ 2:3 mót lúa Người Do-thái có luật là nông gia phải chừa lại một ít lúa trong ruộng sau khi gặt để những người nghèo hay lữ khách sinh sống. Xem Lê-vi 19:9; 23:22.
  15. Ru-tơ 2:7 Cô ta … dưới chòi Hay “chòi ấy là nơi cô ta nghỉ ngơi.”
  16. Ru-tơ 2:12 Đấng … cho chị Nguyên văn, “Chị đã đến núp dưới cánh của Ngài để được an toàn.”
  17. Ru-tơ 2:17 nửa thùng Nguyên văn, “một ê-pha” (khoảng 22 lít.)
  18. Ru-tơ 2:20 người có thể … được Hay “ông ấy là người bảo vệ chúng ta.” Theo tục lệ Do-thái xưa, thân nhân nầy gọi là “người chuộc lại” nghĩa là người bảo vệ cho thân nhân của kẻ chết, trả tiền chuộc lại cho thân nhân nghèo nếu họ đã bị bán làm tôi mọi, do đó giải phóng họ.
  19. Ru-tơ 3:2 bà con gần Tức một người bà con có thể kết hôn với Ru-tơ để nàng có thể sinh con. Người nầy sẽ chăm sóc gia đình mình nhưng gia đình và tài sản ấy không thuộc về người đó nhưng thuộc về người chết, tức thuộc về chồng đã qua đời của Ru-tơ. Xem thêm 3:9, 12; 4:1, 3, 6.
  20. Ru-tơ 3:4 giở mền che chân ông Hành động nầy là một cách yêu cầu Bô-ô lấy nàng và bảo vệ cho nàng.
  21. Ru-tơ 3:9 bảo hộ cho tôi Hay “lấy mền ông đắp cho tôi.” Nói như thế có nghĩa là Ru-tơ yêu cầu Bô-ô lấy mình và bảo vệ cho mình. Xem 2:12.
  22. Ru-tơ 3:13 lo cho con Hay “chuộc con.” Nghĩa là “ta sẽ lấy con.”
  23. Ru-tơ 4:11 Ép-ra-tha Một tên khác của Bết-lê-hem.
  24. Ru-tơ 4:12 Phê-rê Một trong những tổ tiên của Bô-ô.
  25. I Sa-mu-ên 1:5 một phần đặc biệt Hay “gấp đôi.”
  26. I Sa-mu-ên 1:9 đứng dậy Bản cổ Hi-lạp ghi “đứng dậy và cầu nguyện.”
  27. I Sa-mu-ên 1:9 nhà của CHÚA Đây có thể là Lều Thánh ở Si-lô, nơi dân chúng đến để thờ phụng CHÚA hay là một khu vực rộng mà người ta dựng Lều Thánh.
  28. I Sa-mu-ên 1:11 nó sẽ … đồ uống say Câu nầy có trong bản cổ Hi-lạp và bản Hê-bơ-rơ của Cuộn Sách Biển Chết nhưng không có trong bản Hê-bơ-rơ căn bản.
  29. I Sa-mu-ên 1:22 Nó sẽ … Na-xi-rê Câu nầy có trong bản cổ Hi-lạp và bản Hê-bơ-rơ của Cuộn Sách Biển Chết nhưng không có trong bản Hê-bơ-rơ căn bản.
  30. I Sa-mu-ên 1:25 Sau khi … thường lệ Câu nầy có trong bản cổ Hi-lạp và bản Hê-bơ-rơ của Cuộn Sách Biển Chết nhưng không có trong bản Hê-bơ-rơ căn bản.
  31. I Sa-mu-ên 1:28 thuộc về CHÚA Hay “phục vụ CHÚA.”
  32. I Sa-mu-ên 1:28 và để … lại đó Câu nầy có trong bản cổ Hi-lạp và bản Hê-bơ-rơ của Cuộn Sách Biển Chết nhưng không có trong bản Hê-bơ-rơ căn bản.
  33. I Sa-mu-ên 2:1 Tôi cảm thấy mạnh mẽ Nguyên văn, “sừng tôi ngước cao trong CHÚA.” Sừng là biểu hiệu của sức mạnh.
  34. I Sa-mu-ên 2:1 Tôi dám cười kẻ thù tôi Nguyên văn, “Miệng tôi hả ra đối với kẻ thù.”
  35. I Sa-mu-ên 2:8 nâng người … đống tro Nghĩa là “Ngài cất lấy sự buồn thảm của họ đi.”
  36. I Sa-mu-ên 2:10 vua mà Ngài bổ nhiệm Nguyên văn, “Đấng chịu xức dầu của Ngài.”
  37. I Sa-mu-ên 2:16 thiêu mỡ Mỡ là phần của con thú dâng lên và thuộc về Thượng Đế. Phải thiêu phần mỡ trước để làm của lễ cho Ngài.
  38. I Sa-mu-ên 2:27 tổ tiên Nguyên văn, “nhà cha ngươi.”

Từ khóa » Bực Tức Vì ông Q Chồng Mình Vẫn Thỉnh Thoảng