Biện Di Luận | HOA TIÊN QUÁN

Niên hiệu Minh Mệnh thứ 12 (1831), có chừng hơn 40 người Trung Châu đi biển gặp bão, thuyền phải dạt vào hải phận An Nam trú nhờ, triều đình bèn sai quan đại thần Khắc Trai Lý Văn Phức (李文馥, 1785 – 1849) đưa những người này hồi hương. Khi đến cảng thị Phúc Kiến, ông Khắc Trai thấy trước cửa công quán có cái biển đề An Nam quốc di sứ công quán (安南國夷使公館), ông dùng dằng không chịu vào và đòi huyện doãn gỡ tấm biển mới được. Sau rốt, viên quan này phải sửa thành An Nam quốc sứ quan công quán (安南國使官公館). Ấy việc chỉ có thế, nhưng liền sau đó, ông Khắc Trai lại viết một bài Biện di luận (辯夷論) dán trước cửa quán, khiến đông người xúm đến xem. Như ông Trần Ai Nguyễn Đổng Chi nhận xét : “So với bài Biện di thuyết của Nguyễn Tư Giản sau này (1868), tác phẩm của ông Phức có sức tác động mạnh hơn, nhất là đoạn cuối”. Ngẫm, người nay tự hào huyễn kể thì nhiều lắm, nhưng không hiểu đến căn cơ để biết kẻ khác khinh hay khen mình, lại còn cái thói ruồng rẫy di sản tổ tông và bưng văn hiến xứ người về rồi mạo nhận là của mình. Cái thứ ấy ngày một ngày hai không bỏ, nhưng mãi mãi không bỏ, xem là hỏng vài thế hệ. Thậm nguy !

鄧輝著1

Minh họa : Bức chân dung quan đại thần Tỉnh Trai Đặng Huy Trứ (鄧輝著, 1825 – 1874) do họa sĩ Lý Thụy Nham người Thanh vẽ năm 1865, khi ông Đặng đi công cán tại Quảng Đông.

BIỆN DI LUẬN

「Một trong nhiều trứ tác của Khắc Trai Lý Văn Phức trong tập Chu Nguyên tạp vịnh thảo (周原雜詠草) ; bản dịch từ Hán văn của Vân Trai Trần Quang Đức, đã in trong sách Ngàn năm áo mũ (千古衣冠)」

Từ xưa, có Trung Hoa thì có di địch, ấy là sự ngăn cách tự nhiên của trời đất. Hoa là Hoa mà di là di, cũng là sự phân biệt nghiêm minh của thánh hiền. Hoa là Hoa, bất kể bản thân văn minh không man mọi, hay không man mọi nhưng lại bị coi là man mọi, đều không thể không biện luận cho rõ ràng được. Xét, di được gọi là di, kinh truyện thánh hiền coi là kẻ khác (không phải giống nòi ta – Vân Trai chú) nên Chu công phải thảo phạt. Cớ sao vậy ? Có bọn chuyên làm việc bạo ngược không biết lễ nghĩa danh phận, như Kinh Sở thời xưa ; cũng lại có bọn đem cả nước ra làm trò dị hợm, bất chấp cương thường đạo nghĩa của người ta, như bọn man di giảo quyệt Đông Tây Dương thời nay vậy ; gọi chúng là di vì cách làm của chúng.

Nước Việt ta là phường ấy chăng ? Nước Việt ta không phải chúng vậy, mà là hậu duệ của Viêm Đế, họ Thần Nông, bậc thánh Trung Quốc thời cổ vậy. Thời cổ là vùng hoang viễn, chưa khai hóa, bấy giờ coi là di thì được. Nhưng đến thời Chu đã là Việt Thường, coi là thị tộc, các đời sau là Giao Chỉ, coi là quận huyện, chưa bao giờ gọi là di cả. Huống hồ, từ thời Trần Lê, quốc thổ An Nam ngày càng mở rộng, đến nay đã gấp bội lần, phía Bắc giáp ba tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam của Trung Châu ; phía Tây khống chế các tộc man di, tiếp với các nước Nam Chưởng, Miến Điện ; phía Đông trông ra bể lớn, ôm bọc các đảo ; phía Nam cũng chạm tới biển, vòng qua phía Tây Nam sát vách Xiêm La, các thuộc quốc còn lại và tộc man di khác nhau nội phụ đều đủ cả, thật là một đại quốc sừng sững giữa trời đất. [Lúc này] coi là thị tộc cũng không được, coi là quận huyện càng không được, huống hồ có thể coi là di sao ? Song ở đây tạm có vài lời nông cạn như vậy đã.

Bàn về phép trị nước thì noi nhị đế tam vương, bàn về đạo thống thì noi lục kinh tứ sử, coi Khổng Mạnh là nhà, coi Chu Trình là cửa. Về học vấn thì coi Tả Quốc là nguồn, coi Ban Mã là nhánh. Về văn chương thì thơ phú noi Chiêu Minh, Văn Tuyển, xem Lý Đỗ là tấm gương ; thư họa theo Chu lễ, Lục thư, coi Chung Vương là mô phạm. Chiêu hiền đãi sĩ, ấy khoa cử Hán Đường vậy. Đai rộng mũ cao, ấy y phục Tống Minh vậy. Cứ vậy mà suy, đại để như thế. Xét, đến vậy mà vẫn gọi là di thì ta cũng chẳng biết thế nào mới là Hoa vậy. Có kẻ nghị luận cao minh nói rằng : Thuấn là người Đông di, Văn vương là người Tây di, trong kinh truyện có nói đến, nhưng di ấy tổn hại gì ? Há không biết đó chỉ là lời nói chỉ nơi các ngài sinh ra thôi. Thuấn vẫn là Thuấn, Văn vương vẫn là Văn vương, từ khi có thư tịch đến giờ có thư tịch nào gọi Thuấn là di đế chăng, gọi Văn vương là di vương chăng ? Cũng có kẻ luận bàn thô thiển rằng : Chắc là do tiếng nói, trang phục khác lạ nên coi là di đó thôi. Như vậy càng không đúng. Cứ nói chuyện trước mắt, như một tỉnh Phúc Kiến, là nơi còn di giáo của thày Chu Khảo Đình, riêng ở vùng Tuyền Chương, người ở đây thường đội khăn thay mũ, vậy là trang phục khác lạ chăng, có thể vì thế mà coi là di chăng ? Lại như mười tám tỉnh ngôn ngữ khác nhau, tiếng nhà quê và tiếng nhà quan cũng khác nhau, vậy là tiếng nói khác lạ chăng, có thể vì thế mà coi là di chăng ?

Để thấu hiểu cái nghĩa Hoa di, nên tìm trong văn chương lễ nghĩa, vậy thì lời luận biện của tôi cũng chẳng cần viết ra, tôi đâu có ưa biện luận, là do tôi bất đắc dĩ mà thôi.

Lời bàn luận này sau khi viết ra, đến tay Tôn tổng đốc, ông tuyên bố tại chỗ : Quý sứ lần này đến đây, bản đốc tự dùng lễ sứ thần để đối đãi, không dám coi là ngoại di nữa. Sau đó sĩ phu Trung Châu nối nhau sao chép, có nhiều người viết thêm lời bình phẩm ngợi ca. Có ông Lý Chấn Nhân là nho học huấn đạo, tính cực khẳng khái, sau khi thấy áo mũ nước ta liền ném mũ của mình xuống đất nói rằng : Ta là di rồi, sao lại coi người ta là di đây ?

Partager :

  • Facebook
  • X
Thích Đang tải...

Có liên quan

Từ khóa » Di Luân Là Gì