Các Loại Bệnh ở Vú Lành Tính Thường Gặp
Có thể bạn quan tâm
Khi có dấu hiệu nghi ngờ, cần đi khám bệnh sớm để xác định bệnh lý cụ thể các bệnh vú lành tính thường gặp nhằm có biện pháp can thiệp đúng, chủ động ngăn ngừa biến chứng xấu.
Theo các nhà khoa học, bệnh vú lành tính là tất cả các bệnh lý của vú trừ ung thư vú và các bệnh lý nhiễm trùng vú. Bệnh lý này thường gặp ở phần biểu mô của ống dẫn sữa hoặc ở mô liên kết và mô mỡ. Bệnh vú lành tính thường gặp là xơ nang tuyến vú, u xơ tuyến vú, u diệp thể, nang tuyến vú, hoại tử mô mỡ, các bệnh có tiết dịch núm vú, viêm tuyến vú và ápxe vú, vú bất thường...
Xơ nang tuyến vú
Bệnh lý xơ nang tuyến vú có thể có hoặc không có những biểu hiện triệu chứng lâm sàng như: đau hoặc khó chịu. Đây là một tổn thương lan tỏa bao gồm nhiều sự bất thường phối hợp bao gồm các yếu tố chính như: các ống dẫn sữa tăng sinh và hình thành các nang; u nang do các phần của ống dẫn sữa ít nhiều bị giãn ra và chế tiết thanh dịch, số lượng và kích thước của các u nang này thay đổi tùy theo từng trường hợp; các phân thuỳ tăng sinh tuyến còn gọi là tăng sinh phân thùy và tăng sinh tuyến xơ cứng; mô đệm bị xơ hoá. Các thương tổn tăng sinh gồm tăng sinh các tế bào biểu mô, tăng sinh tuyến xơ cứng và u nhú sẽ làm tăng nguy cơ ung thư vú. Sự tăng sinh kết hợp với loạn sản làm tăng nguy cơ bị ung thư vú tới 4 - 5 lần. Những thay đổi không tăng sinh như tăng sinh tuyến, nang, giãn ống dẫn sữa sẽ không làm tăng nguy cơ ung thư vú.
Về lâm sàng, phụ nữ mắc bệnh thường bắt đầu sau tuổi 30, hay gặp ở giữa lứa tuổi 40 - 50 và các triệu chứng bệnh lý có thể mất đi sau tuổi mãn kinh. Dấu hiệu cơ năng biểu hiện triệu chứng đau vú theo chu kỳ, thường xuất hiện khoảng 8 ngày trước khi hành kinh và mất đi sau khi hành kinh, cơn đau xảy ra tự nhiên, lan ra hai tay. Dấu hiệu thực thể được ghi nhận với các u nang đặc trưng có đặc điểm khối u tròn, giới hạn rõ, hơi cứng, thường đau, vị trí hay gặp ở 1/4 trên ngoài, kích thước và số lượng thay đổi. Có thể gặp các mảng cứng, lâm sàng thường thấy những mảng cứng trên vú giới hạn không rõ, vị trí hay gặp là 1/4 trên ngoài và mất đi sau khi hành kinh. Vú có thể tăng thể tích.
Về cận lâm sàng, chụp phim X-quang vú (mammagraphy) cho thấy vú tăng mật độ, có hình ảnh cản quang mờ tương ứng với các vùng bị phù nề, hình ảnh cản quang tròn tương ứng với u nang; có những vết canxi hóa to, nhỏ rải rác, không tập trung thành nhóm. Siêu âm có thể giúp phân biệt giữa các nang và các tổn thương cứng. Chọc hút làm xét nghiệm tế bào ở các nang cho phép đánh giá màu sắc của dịch, khi chọc hút thấy có dịch lẫn máu phải nghĩ tới ung thư dạng nang; tuy nhiên, nếu dịch trong, vẩn đục, có màu vàng hoặc xanh thì trường hợp này thường là nang lành tính. Sau chọc hút nang, cần khám lại vú nhằm đảm bảo khối u đã hoàn toàn loại bỏ; nếu khối u còn sót, cần tiến hành sinh thiết để xét nghiệp tế bào.
Trong chẩn đoán, cần phân biệt các trường hợp bệnh lý sau đây để tránh nhầm lẫn như: triệu chứng đau trong hội chứng tiền kinh là đau ít và đau bắt đầu khoảng 2 - 3 ngày trước khi có kinh nguyệt, không tăng thể tích vú rõ rệt, khám thấy vú mềm và đều đặn. Đau thần kinh liên sườn với dấu hiệu đau thường chỉ ở 1 bên, đau thoáng qua ở một điểm xác định, không liên qua đến chu kỳ kinh. U nang có thể nhầm với u xơ tuyến vú, việc xác định phân biệt giữa nang với khối u rắn qua khám thực thể sẽ không cho kết quả tin cậy; trong trường hợp này cần tiến hành siêu âm hoặc chọc hút hay sinh thiết. Mảng cứng có thể khó phân biệt với trường hợp ung thư vú, các mảng cứng này thường biến mất sau khi hành kinh và được cải thiện với điều trị bằng progesterone; các mảng cứng liên quan tới u xơ nang thường ở cả hai bên và có cảm giác một mảng dày khác với một khối cứng; cần lưu ý bất kể một khối cứng nào tồn tại trong hơn 2 chu kỳ kinh nguyệt cần phải được sinh thiết để xét nghiệm.
Việc điều trị có thể bắt đầu thực hiện nếu bệnh nhân cảm thấy khó chịu và mong muốn được điều trị. Cảm giác đau thường biến mất một cách tự nhiên và trong trường hợp này thường chỉ cần trấn an người bệnh là đủ. Về chế độ ăn, nên tránh ăn các thực phẩm có chứa methylxanthines có trong cà phê, trà, cocacola, socola; tuy nhiên theo các nhà khoa học chưa có bằng chứng rõ ràng rằng đây là một biện pháp hiệu quả. Trong điều trị nội tiết, giai đoạn hoàng thể đơn thuần từ ngày 15 - 25 của chu kỳ kinh nguyệt dùng 5mg medroxy-progesteron acetate (MPA); đồng vận dopamin để ức chế prolactin dùng bromocriptine 2,5mg và tăng dần liều lên, khởi đầu với 0,5mg, 1mg và 2,5mg, các tác dụng phụ có thể gặp như buồn nôn, chóng mặt; dùng thuốc kháng estrogen, danazol 100 - 200mg mỗi ngày từ ngày 15 - 25 của chu kỳ kinh nguyệt, do các thuốc này có tác dụng androgen nên việc sử dụng hoóc-môn này bị hạn chế; dùng thuốc Tamoxifen có tên biệt dược là Nolvadex với liều 10mg mỗi ngày từ ngày thứ 5 đến thứ 25 của vòng kinh nguyệt. Ngoài ra, có thể dùng thêm thuốc kháng viêm không steroid; phẫu thuật cắt bỏ nang trong các trường hợp chọc dò thấy dịch có lẫn máu, có u nhú trong nang, xét nghiệm tế bào cho kết quả nghi ngờ; có thể thực hiện dẫn lưu đơn thuần đối với nang có đau. Kỹ thuật sinh thiết giải phẫu bệnh được thực hiện trong trường hợp tồn tại mảng cứng sau dẫn lưu nang hoặc sau 2 chu kỳ kinh nguyệt và có thể nghi ngờ ung thư nếu thấy có các tế bào loạn sản khi sinh thiết.
U xơ tuyến vú
U xơ tuyến vú xảy ra khi khối u phát triển từ mô liên kết giữa các tiểu thùy có vỏ bọc, có thể gặp ở một hoặc hai bên vú và thường xảy ra trước tuổi 35. Khối u chắc, đều, tròn hoặc hình trứng, di động dưới da, không đau, không liên quan với chu kỳ kinh nguyệt; kích thước thay đổi khoảng 2 - 3cm; thông thường chỉ có một khối u, đôi khi có nhiều khối u và xuất hiện kế tiếp theo thời gian.
Chẩn đoán xác định bệnh lý được thực hiện bằng siêu âm và chọc hút tế bào với loại kim nhỏ để loại trừ tổn thương ác tính. Việc điều trị nên được tiến hành trước 35 tuổi và theo dõi định kỳ 6 tháng một lần; phẫu thuật khi khối u to và phát triển nhanh; sau 35 tuổi cần phẫu thuật cắt bỏ khối u và làm xét nghiệm mô bệnh học để xác định.
U diệp thể
U diệp thể hình thành xuất phát từ cấu trúc cơ biểu mô chung quanh tiểu thùy, lớp đệm phát triển nhanh, dễ tái phát, có khoảng 20% trường hợp là khối u ác tính. Khám lâm sàng thấy thường có nhiều khối u ở cả 2 bên vú, khối u đặc và chắc, tròn, di động, làm thay đổi hình dạng của vú, có nhiều tĩnh mạch tăng sinh trên bề mặt vú. Về xử trí điều trị, do u diệp thể lành tính có nguy cơ tái phát tại chỗ cao nên cần cắt rộng khối u tại chỗ mà không làm tổn thương khối u, không được cặp u bằng kềm, không sinh thiết lõi vì có thể gây tái phát tại chỗ, nếu tái phát nhiều lần nên cắt bỏ vú. Nếu chẩn đoán sau mổ là u diệp thể ác tính cần cắt bỏ rộng các mô lân cận ở cuộc mổ sau.
Nang tuyến vú
Nang tuyến vú thường gặp ở phụ nữ khoảng 35 - 50 tuổi, rất hiếm gặp ở phụ nữ trẻ dưới 25 tuổi. Nang tuyến vú thường là những khối riêng rẽ, di động, mật độ căng. Chọc hút dịch nang thấy có màu vàng chanh hoặc nâu, nếu dịch hút ra là máu thì phải sinh thiết sau hút dịch để xét nghiệm loại trừ khả năng ung thư. Sau chọc hút nếu nang tái phát thì phải hút lại và phẫu thuật bóc nang.
Hoại tử mô mỡ
Hoại tử mô mỡ thường gặp sau chấn thương hoặc tổn thương do sinh thiết, có thể gặp khối u cứng, co kéo núm vú; phải sinh thiết xét nghiệm để loại trừ ung thư vú. Điều trị bằng cách chích lấy khối hoại tử, có thể kết hợp với các thuốc nội tiết như Danazol 200mg uống 2 viên mỗi ngày, Tamoxifen 100mg uống 2 viên mỗi ngày, dùng thuốc mỡ Progestogel bôi lên vú từ ngày 12 đến ngày 25 của chu kỳ kinh nguyệt.
Cần được chủ động phát hiện sớm
Các bệnh có tiết dịch núm vú
Bệnh lý tiết dịch núm vú ngoài thời kỳ nuôi con bú có thể do các nguyên nhân như: giãn hoặc xơ nang ống tuyến; tăng tiết sữa kết hợp với vô kinh, vô sinh; bị u papilloma ống tuyến, ung thư vú. Khám lâm sàng cần lưu ý màu sắc dịch tiết với đặc điểm trong, lẫn máu, hoặc có màu khác có kèm theo khối u, có nhiều tia hay một tia, dịch ra liên tục hay từng đợt, ra tự nhiên hay vắt, dịch ra có liên quan với kỳ kinh nguyệt, có uống thuốc tránh thai hay uống estrogen hay không. Việc xử trí điều trị được can thiệp tùy theo từng trường hợp bị tổn thương.
Viêm tuyến vú và ápxe vú
Viêm tuyến vú là bệnh hay xảy ra ở phụ nữ mang thai và cho con bú, nhất là phụ nữ sinh con lần đầu chưa có kinh nghiệm cho con bú và chưa biết cách vệ sinh đầu vú. Nguyên nhân gây bệnh thường do vi khuẩn ngoài da như liên cầu khuẩn, tụ cầu khuẩn xâm nhập vào mô vú qua vết xây xước hoặc do tắc tia sữa không được xử trí đúng cách. Khi tuyến vú bị viêm, vú có triệu chứng sưng đau, sữa ra không đều, không thông, sắc da đỏ nhẹ hoặc không đỏ, có hòn cục nhỏ, kèm theo sốt, sợ lạnh, đau đầu, đau thân mình, ngực tức, rêu lưỡi trắng mỏng hoặc hơi vàng. Khi đến giai đoạn làm mủ, bầu vú sưng to, da đỏ nóng từng đám hoặc cả vú, đau tăng, sốt cao và nung mủ cục bộ, người bứt rứt khó chịu, miệng khát muốn uống nước, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng.
Ápxe vú là ổ viêm ở sâu trong tuyến vú khi tuyến vú bị viêm không được phát hiện, chẩn đoán, điều trị kịp thời và đúng cách. Phụ nữ mang thai sau khi sinh và cho con bú hay bị viêm tuyến vú vì thời gian này tuyến sữa phát triển, nếu không vệ sinh đầu vú tốt sẽ dễ bị viêm nhiễm. Từ viêm nhiễm đầu vú, vi khuẩn sẽ đi vào ống tuyến vú gây viêm tuyến vú; nếu được khám và điều trị sớm có thể viêm sẽ thuyên giảm và khỏi hoàn toàn; nếu điều trị muộn nơi viêm nhiễm sẽ tạo nên ổ ápxe thì việc điều trị sẽ khó khăn hơn. Thường áp xe vú hay gặp ở người sau khi sinh và đang cho con bú chứ ít khi gặp ở thời kỳ mang thai trừ trường hợp bị xây xước hay tổn thương núm vú. Khi có triệu chứng nghi ngờ viêm tuyến vú hay áp xe vú cần đi khám để được chẩn đoán xác định và điều trị tích cực, tránh ảnh hưởng tới sức khỏe của mẹ và thai nhi.
Vú bất thường
Thực tế có thể gặp những trường hợp vú bất thường như vú teo, vú kém phát triển hoặc phì đại tuyến vú... Những trường hợp này cần được thực hiện phẫu thuật tạo hình để giúp người phụ nữ có được đôi vú bình thường về mặt thẩm mỹ.
Lời khuyên của thầy thuốcVú là một bộ phận quan trọng của người phụ nữ góp phần trong việc đảm nhận thiên chức làm mẹ và thường rất dễ mắc các loại bệnh khác nhau, trong đó ung thư vú là bệnh lý ác tính rất được mọi người quan tâm vì khá phổ biến. Bên cạnh bệnh ung thư vú, phụ nữ còn gặp các loại bệnh lành tính thông thường ở vú cần được chủ động phát hiện sớm để khám chẩn đoán xác định và điều trị kịp thời mới có hiệu quả tốt; nếu không thì một số bệnh vú lành tính này rất dễ dẫn đến những biến chứng, trong đó có cả ung thư.
Từ khóa » Thuỳ Tuyến Vú Cứng Hay Mềm
-
Nhận Biết Các Bệnh Lành Tính Phổ Biến ở Tuyến Vú | Vinmec
-
Sờ Thấy Khối ở Vú Và 7 Nguyên Nhân Thường Gặp - YouMed
-
Phát Hiện Cục Cứng ở Vú | TCI Hospital
-
Mảng U Vú (Breast Lumps) - Phiên Bản Dành Cho Chuyên Gia
-
Ung Thư Vú: Dấu Hiệu, Nguyên Nhân Và Cách Phòng Ngừa
-
U Vú – Phân Loại, Nguyên Nhân Và Lý Do Quan Ngại | Health Plus
-
CÁC TỔN THƯƠNG VÚ - Health Việt Nam
-
Giải Phẫu Bệnh Học: Bệnh Lý Tuyến Vú - Health Việt Nam
-
Bài Giảng Bệnh Vú Lành Tính
-
Điều Trị Ngoại Khoa Một Số Bệnh Tuyến Vú | BvNTP
-
Một Số Bệnh Tuyến Vú Lành Tính
-
[PDF] 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Bệnh Tuyến Vú Là Một Trong Những Bệnh Có Tỉ Lệ Mắc ...
-
UNG THƯ TIỂU THÙY VÚ XÂM LẤN - OncoCare Cancer Centre