Các Thuộc Tính, Chức Năng Và Vai Trò Của Pháp Luật - HILAW.VN
Có thể bạn quan tâm
Mục lục
1. Các thuộc tính của pháp luật
Là những tính chất, dấu hiệu, đặc trưng của pháp luật, pháp luật có những thuộc tính sau:
1.1. Tính quy phạm phổ biến
Tính phổ biến chứa đựng những nguyên tắc, khuôn mẫu, mô hình xử sự chung, phù hợp với đa số. Pháp luật đưa ra những giới hạn cần thiết mà nhà nước quy định để các chủ thể có thể xử sự một cách tự do trong khuôn khổ cho phép.
+ Pháp luật có thể điều chỉnh một phạm vi quan hệ xã hội bất kỳ
+ Được áp dụng nhiều lần trong không gian và thời gian . Việc áp dụng các quy phạm này chỉ bị đình chỉ khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền huỷ bỏ sửa đổi, bổ sung hoặc thời hạn đã hết.
1.2. Tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức
Nội dung của pháp luật được thể hiện trong những hình thức nhất định như tập quán pháp, tiền lệ pháp, văn bản pháp luật. Văn bản QPPL được xác định chặt chẽ về thủ tục, thẩm quyền ban hành.
Ngôn ngữ pháp lý rõ ràng, chính xác nhằm đảm bảo nguyên tắc: “Bất cứ ai khi ở vào điều kiện hoàn cảnh đã được dự kiến trước cũng không thể làm khác được”.
1.3. Tính được đảm bảo bởi nhà nước (tính cưỡng chế)
+ Khả năng tổ chức thực hiện pháp luật của nhà nước.
+ Pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận sự bảo đảm về nội dung của pháp luật).
+ Nhà nước đảm bảo cho pháp luật được thực hiện bằng các biện pháp: giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế.
2. Chức năng, vai trò của pháp luật
2.1. Chức năng của pháp luật
– Chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội
– Chức năng bảo vệ các quan hệ xã hội
– Chức năng giáo dục
2.2. Vai trò của pháp luật
Với bản chất những đặc điểm đặc thù của mình, pháp luật có nhiều vai trò trong đời sống nhà nước, đời sống xã hội, trong đó có những vai trò cơ bản là:
2.2.1. Pháp luật là cơ sở để thiết lập, củng cố và tăng cường quyền lực nhà nước
Một trong những nguyên lý đã được khẳng định là nhà nước không thể tồn tại thiếu pháp luật và pháp luật không thể phát huy hiệu lực của mình nếu không có sức mạnh của bộ máy nhà nước. Trong khoa học có những ý kiến nhấn mạnh ý nghĩa tuyệt đối của quyền lực nhà nước, coi đó là cái phát sinh cái thứ nhất, còn pháp luật chỉ là cái phái sinh (cái thứ hai); hoặc coi pháp luật đứng trên nhà nước, nhà nước phải tuyệt đối phục tùng pháp luật… là chưa có cơ sở xác đáng, bởi vì:
Thứ nhất, đúng là pháp luật do nhà nước ban hành, nhưng pháp luật không phải chỉ là kết quả của tư duy chủ quan một cách đơn thuần, mà nó còn xuất phát từ những nhu cầu khách quan của xã hội. Pháp luật chỉ có thể đi vào cuộc sống nếu như nó phù hợp với trình độ phát triển kinh tế – xã hội.
Thứ hai, pháp luật cũng còn cần có quyền lực nhà nước bảo đảm mới có thể phát huy tác dụng trong thực tế đời sống. Vì vậy nói pháp luật đứng trên nhà nước là không thực tiễn.
Thứ ba, nhu cầu về pháp luật còn là nhu cầu tự thân của bộ máy nhà nước. Bộ máy nhà nước là một thiết chế phức tạp bao gồm nhiều bộ phận nhiều loại cơ quan nhà nước). Để bộ máy đó hoạt động có hiệu quả đòi hỏi phải xác định đúng chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi loại cơ quân, mỗi cơ quan; phải xác lập mối quan hệ đúng đắn giữa chúng, phải có những phương pháp tổ chức và hoạt động phù hợp để tạo ra một cơ chế đồng bộ trong quá trình thiết lập và thực thi quyền lực nhà nước. Tất cả những điều đó chỉ Có thể thực hiện được khi dựa trên cơ sở vững chắc của những nguyên tắc và quy định cụ thể của pháp luật.
Thực tiễn cho thấy, khi chưa có một hệ thống quy phạm pháp luật về tổ chức đầy đủ, đồng bộ, phù hợp và chính xác để làm cơ sở cho việc củng cố và hoàn thiện bộ máy nhà nước thì dễ dẫn đến tình trạng trùng lặp, chồng chéo, thực hiện không đúng chức năng, thẩm quyền của một số cơ quan nhà nước, bộ máy sẽ sinh ra Cồng kềnh và kém hiệu quả.
Tương tự như trên, pháp luật có vai trò quan trọng trong việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mỗi loại cán bộ, mỗi cán bộ làm việc trong từng cơ quan cụ thể của bộ máy nhà nước. Nhờ có pháp luật, các hiện tượng lạm quyền, bao biện, vô trách nhiệm… của đội ngũ viên chức nhà nước dễ dàng được phát hiện và loại trừ.
2.2.2. Pháp luật là phương tiện để nhà nước quản lý kinh tế, xã hội
Nhà nước là đại diện chính thức của toàn thể xã hội, vì vậy, nhà nước có chức năng (nhiệm vụ) quản lý toàn xã hội.
Để quản lý toàn xã hội, nhà nước dùng nhiều phương tiện, nhiều biện pháp, nhưng pháp luật là phương tiện quan trọng nhất. Với những đặc điểm riêng của mình, pháp luật có khả năng triển khai những chủ trương, chính sách của nhà nước một cách nhanh nhất, đồng bộ và có hiệu quả nhất trên quy mô rộng lớn nhất. Cũng nhờ có pháp luật, nhà nước có cơ sở để phát huy quyền lực của mình và kiểm tra, kiểm soát các hoạt động của các tổ chức, các cơ quan, các nhân viên nhà nước và mọi công dân.
Trong tổ chức và quản lý kinh tế, pháp luật lại càng có vai trò lớn. Bởi vì, chức năng tổ chức và quản lý kinh tế của nhà nước có phạm vi rộng và phức tạp, bao gồm nhiều vấn để, nhiều mối quan hệ mà nhà nước cần xác lập, điều hành và kiểm soát như hoạch định chính sách kinh tế, xác định chỉ tiêu kế hoạch, quy định các chế độ tài chính, tiền tệ, giá… Toàn bộ quá trình tổ chức và quản lý đều đòi hỏi sự hoạt động tích cực của nhà nước nhằm tạo ra một cơ chế đồng bộ, thúc đẩy quá trình phát triển đúng hướng của nền kinh tế và mang lại hiệu quả thiết thực.
Do tính chất phức tạp và phạm vi rộng của chức năng quản lý kinh tế, nhà nước không thể trực tiếp tham gia vào các hoạt động kinh tế cụ thể mà chỉ thực hiện việc quản lý ở tầm vĩ mô và mang tính chất hành chính – kinh tế. Quá trình quản lý kinh tế không thể thực hiện được nếu không dựa vào pháp luật.
Chỉ trên cơ sở một hệ thống văn bản pháp luật kinh tế đầy đủ, đồng bộ, phù hợp với thực tiễn (điều kiện và trình độ phát triển của kinh tế xã hội) và kịp thời trong mỗi thời kỳ cụ thể, nhà nước mới có thể phát huy được hiệu lực của mình trong lĩnh vực tổ chức và quản lý kinh tế, xã hội.
2.2.3. Pháp luật góp phần tạo dựng những quan hệ mới
Bên cạnh chức năng phản ánh, pháp luật còn có tính tiên phong, định hướng cho sự phát triển của các quan hệ xã hội. Có thể nói, pháp luật có vai trò quan trọng trong việc tạo dựng (lập) ra những quan hệ mới.
Trên cơ sở xác định thực trạng xã hội với những tình huống (sự kiện) cụ thể, điển hình, tồn tại và tái diễn thường xuyên ở những thời điểm cụ thể trong xã hội, nhà nước đề ra pháp luật để điều chỉnh kịp thời và phù hợp. Nhưng cuộc sống vốn sống động và thực tiễn thường diễn ra với những thay đổi thường xuyên. Tuy nhiên, về căn bản những thay đổi đó vẫn diễn ra theo những quy luật nhất định mà con người có thể nhận thức được.
Dựa trên cơ sở của những kết quả và dự báo khoa học, người ta có thể dự kiến được những thay đổi có thể diễn ra với những tình huống (sự kiện) cụ thể, điển hình cần có sự điều chỉnh bằng pháp luật. Từ đó pháp luật được đặt ra để định hướng trước, xác lập những quy định và có thể thiết kế những mô hình tổ chức quy định chức năng nhiệm vụ và tổ chức thử nghiệm…
Tuy vậy, pháp luật bao giờ cũng có sự ổn định tương đối. Sự hình thành mới hoặc thay đổi thường chỉ diễn ra với từng bộ phận của hệ thống pháp luật, ít có những đột biến toàn phần trong một thời gian ngắn. Tính định hướng của pháp luật cũng theo quy luật đó. Hệ thống quy phạm định hướng chỉ là một bộ phận nhất định của hệ thống pháp luật thực định của mỗi quốc gia.
Sự kết hợp hài hòa giữa tính cụ thể của pháp luật với tính tiên phong. (định hướng) của nó có một ý nghĩa rất quan trọng là tạo ra được sự ổn định và phát triển, kế thừa và đổi mới thường xuyên, làm cho pháp luật năng động, phù hợp hơn, tiến bộ hơn.
2.2.4. Pháp luật tạo ra môi trường ổn định cho việc thiết lập các mối quan hệ bang giao giữa các quốc gia
Có một thực tế là, một thể chế chính trị có thể thay đổi, nghĩa là quyền lực của một bộ máy nhà nước trong một thời kỳ lịch sử nhất định có thể thay đổi, nhưng nhân dân và quyền lực nhân dân vẫn tồn tại và phát triển. Những quan hệ đa chiều trong xã hội vẫn phát triển và đòi hỏi phải được điều chỉnh bằng pháp luật để bảo đảm sự ổn định trật tự. Vì vậy, quyền lực nhân dân là vấn đề căn bản; trật tự xã hội là đòi hỏi khách quan và những nhu cầu về pháp luật là luôn luôn có.
Pháp luật và nhà nước luôn có quan hệ mật thiết với nhau “như hình với bóng”. Nhưng đó là nói ở góc độ chung. Khi tiếp cận ở góc độ cụ thể, pháp luật có những nét riêng căn bản. Đó là khi pháp luật phản ánh đúng những lợi ích của dân tộc, của nhân dân thì dù chế độ nhà nước nào cũng phải tôn trọng. Nếu đi ngược lại điều đó là ngược với lợi ích của dân tộc, của nhân dân và sẽ bị nhân dân phản đối, không tôn trọng, không chấp hành. Xét ở góc độ này, pháp luật luôn có vai trò giữ gìn sự ổn định và trật tự xã hội. . Sự ổn định của mỗi quốc gia là điều kiện quan trọng để tạo ra niềm tin, là cơ sở để mở rộng các mối bang giao với các nước khác. Trong thời đại ngày nay, phạm vi của các mối quan hệ bang giao giữa các nước ngày càng lớn và nội dung tính chất của các quan hệ đó ngày càng đa diện nhiều mặt). Cơ sở cho việc thiết lập và củng cố các mối quan hệ bang giao đó là pháp luật (pháp luật quốc tế và pháp luật nội quốc). Xuất phát từ nhu cầu đó, hệ thống pháp luật của mỗi nước cũng có bước phát triển mới. Bên cạnh những văn bản pháp luật quy định và điều chỉnh các quan hệ xã hội có liên quan đến các chủ thể pháp luật trong nước còn cần có đầy đủ các văn bản pháp luật quy định và điều chỉnh các quan hệ có liên quan đến các chủ thể là người (tổ chức) nước ngoài có quan hệ hợp tác với các chủ thể trong nước, ví dụ, luật đầu tư, luật về khoa học và Công nghệ…
Cũng cần nhấn mạnh rằng, muốn có môi trường xã hội ổn định để mở mang các mối bang giao và hợp tác thì không thể chỉ chú ý “một mảng” của hệ thống pháp luật của một quốc gia, mà phải chú ý tới sự đồng bộ của cả hệ thống pháp luật của quốc gia đó. Bởi vì, hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia là một chỉnh thể, mỗi bộ phận (mỗi mảng) trong hệ thống pháp luật đó không thể tồn tại và phát triển biệt lập, cục bộ được mà luôn có quan hệ và tác động qua lại với các bộ phận khác.
Như vậy, muốn thực hiện tốt sự quản lý nhà nước, đẩy nhanh sự phát triển của xã hội, mở rộng quan hệ và hợp tác với các nước thì phải chú trọng phát huy vai trò của pháp luật, phải nhanh chóng xây dựng một hệ thống pháp luật toàn diện, đầy đủ và đồng bộ, phù hợp với những điều kiện và hoàn cảnh trong nước, đồng thời phù hợp với xu hướng phát triển chung với tình hình quốc tế và khu vực.
Xem thêm: Hành vi pháp luật là gì? Phân loại hành vi pháp luật
Từ khóa » đâu Là Thuộc Tính đặc Trưng Của Pháp Luật
-
Thuộc Tính Của Pháp Luật Là Gì?
-
Phân Tích Các Thuộc Tính Của Pháp Luật
-
Pháp Luật Là Gì ? Đặc điểm, đặc Trưng Cơ Bản Của Pháp Luật ?
-
Các Thuộc Tính Của Pháp Luật - Giáo Trình Pháp Luật Việt Nam đại ...
-
Thuộc Tính (đặc Trưng) Nào Sau đây Là Của Pháp Luật: - Hoc247
-
Bài 1: Khái Niệm, Thuộc Tính, Hình Thức Pháp Luật
-
Pháp Luật Là Gì? Phân Tích Các Thuộc Tính Của Pháp Luật? - PLĐC
-
Thuộc Tính Cơ Bản Của Pháp Luật Là Gì? - Top Lời Giải
-
Top 15 đâu Là Tính đặc Trưng Của Pháp Luật
-
Các Thuộc Tính Cơ Bản Của Pháp Luật - Cố Vấn Pháp Lý
-
Nguồn Gốc Của Pháp Luật Là Gì? Nguồn Gốc, Bản Chất Và Thuộc Tính ...
-
Bản Chất Của Pháp Luật Là Gì? Phân Tích Bản Chất Và Thuộc Tính Của ...
-
Tìm Hiểu Pháp Luật
-
[PDF] Chuyên đề 3: SOẠN THẢO VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA
-
Đặc Trưng Của Pháp Luật Là Gì?
-
Nhà Nước – Wikipedia Tiếng Việt
-
Pháp Luật Là Gì? Nguồn Gốc, Bản Chất Và Các đặc Trưng Của Pháp Luật