CÁCH PHIÊN CHUYỂN địa DANH Từ TIẾNG PA Cô TA ôi ở THỪA ...
Có thể bạn quan tâm
- Trang chủ >>
- Giáo Dục - Đào Tạo >>
- Cao đẳng - Đại học
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.29 KB, 16 trang )
CÁCH PHIÊN CHUYỂN ĐỊA DANHTỪ TIẾNG PA CÔ TA ÔI Ở THỪA THIÊN HUẾ SANG TIẾNG VIỆTTrần Văn Sáng(ThS. Trường Đại học Phú Xuân, TP.HuếNghiên cứu sinh Viện Ngôn ngữ học)1. Dẫn nhập1.1. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa ngôn ngữ và văn hoá. Trong đó,người Kinh chiếm đại đa số nên tiếng Việt được xem là tiếng phổ thông, ngôn ngữgiao tiếp chung giữa các cộng đồng tộc người trong quốc gia đa dân tộc thống nhất.Vì vậy, vấn đề tiếp xúc và vay mượn giữa tiếng Việt và các ngôn ngữ dân tộc thiểu sốlà phổ biến và tất yếu, hay nói cách khác, là một hiện tượng ngôn ngữ học-xã hội đặcbiệt quan trọng. Các từ mượn là nguồn bổ sung quan trọng cho vốn từ tiếng Việt cảvề số lượng lẫn chất lượng. Nhưng, điều này không đồng nghĩa với sự tuỳ tiện. Vaymượn từ vựng có nguyên tắc chung, phổ quát cho mọi ngôn ngữ và có nguyên tắcriêng gắn với đặc thù ngôn ngữ-xã hội của từng ngôn ngữ. Các dân tộc và ngôn ngữthường có những quy tắc vay mượn, du nhập các từ ngoại lai cho phù hợp với nhữngquy tắc ngữ âm-âm vị học, ngữ nghĩa, ngữ pháp và các quy tắc chữ viết, cũng nhưcác quy tắc hình âm vị học của tiếng mẹ đẻ để những từ “phi bản địa” ấy vừa khônglàm xáo trộn hệ thống ngôn ngữ vốn có của dân tộc, vừa đảm bảo nhu cầu thông tinnhanh chóng, chính xác, phù hợp với tập quán, thói quen tri nhận ngôn ngữ của dântộc mình. Vấn đề vay mượn tên riêng trong tiếng Việt, trong đó có địa danh, khôngnằm ngoài quy luật phổ biến nói trên.1.2. Có thể tiếp cận và xử lí hiện tượng vay mượn giữa tiếng Việt và các ngônngữ dân tộc thiểu số trên nhiều phương diện khác nhau. Trong bài viết này, chúng tôichỉ xem xét, đặt vấn đề phiên chuyển1 các địa danh dân tộc sang tiếng Việt, cụ thểlà các địa danh từ tiếng Pa cô (Pc), Ta ôi (To), ngôn ngữ của một trong những dân tộcsinh sống lâu đời nhất trên miền đất A Lưới, dân tộc Ta ôi, cư dân nói ngôn ngữ dòngMôn Khơ me, thuộc ngữ hệ Nam Á. Qua hệ thống địa danh dân tộc ghi ở dạngnguyên ngữ, chúng tôi tiến hành phiên chuyển và bước đầu rút ra một số đề xuất cótính giải pháp, giúp cho việc giao tiếp, tiếp nhận thông tin cũng như tri nhận mọi loạihình văn bản tiếng Việt một cách chuẩn xác.1Vấn đề viết và đọc tên riêng tiếng dân tộc ở trong tiếng Việt liên quan trực tiếp đến các qui tắc ngữ âm cũng như cácqui tắc chính tả của chữ quốc ngữ. Trong bài viết này, chúng tôi sử dụng khái niệm “phiên chuyển” địa danh dân tộcsanng tiếng Việt với nghĩa: kết hợp phiên âm (transcription) lẫn chuyển tự (transliteration). Khái niệm “chuyển tự” đượcchúng tôi sử dụng cho các loại chữ viết cùng hệ La-tinh và khác hệ La-tinh.12. Thực trạng vấn đề phiên chuyển địa danh từ tiếng dân tộc sang tiếngViệt ở nước ta hiện nayVấn đề phiên chuyển tên riêng nói chung, địa danh nói riêng, từ tiếng dân tộcthiểu số sang tiếng Việt đã được các nhà nghiên cứu đề cập từ lâu. Đáng chú ý lànhững đề xuất của các tác giả Hoàng Thị Châu, Tạ Văn Thông, Võ Xuân Quế, ĐoànVăn Phúc, Nguyễn Văn Khang, Lê Trung Hoa, … Tuy nhiên, ở những tác giả khácnhau và vào những thời kì khác nhau, cách phiên chuyển các địa danh dân tộc sangtiếng Việt lại không giống nhau1. Điều này cho thấy sự không thống nhất trong cáchghi các địa danh dân tộc trên bản đồ và các văn bản tiếng Việt. Đây là một thực trạngđáng lo ngại cho việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, đòi hỏi một giải phápthống nhất trong việc chuẩn hoá chính tả địa danh dân tộc trong văn bản tiếng Việt.Qua việc tiến hành thống kê, khảo sát 345 địa danh trên các ấn phẩm đã xuấtbản (Bản đồ Quân sự 1982, Bản đồ Quân sự 2007, Bản đồ Địa lí tổng hợp ThừaThiên Huế 2009 và một sô sách báo địa phương) và trực tiếp ghi âm nguyên ngữcũng như truy tìm ý nghĩa của các địa danh dân tộc, chúng tôi nhận thấy tình hìnhphiên chuyển địa danh Pc, To sang chữ quốc ngữ đang có một thực trạng không thốngnhất và tuỳ tiện cao:- Cùng một địa danh dân tộc nhưng được viết bằng nhiều kiểu khác nhau trongtiếng Việt: Ta Lou- Talu- Tà Lu- TALU; Atine- Atin- A Tin; Ta Lồ- Ta Lo; Ta Rây- TaRâu- Tà Râu- Tà Rầu; A roằng- A Roàng; A Rom- A Rọm; A Pung- A Bung; A Ko- ACo; A Rum Cà Lưng- A Rum Ca Lưng- A Rum Lùng,…- Viết hoa tuỳ tiện và không thống nhất, không theo một chuẩn tắc chính tả nàotrong khi phiên chuyển các địa danh dân tộc như: viết liền các âm tiết trong từ đa tiết,viết rời có gạch nối hay không có gạch nối,… Chẳng hạn: Ta Lu- TALU- Talu; HaCọp- HACOP; A sáp- A SÁP- Asap; ….- Có nhiều địa danh dân tộc được ghi theo cách Pháp hoá, Hán Việt hoá khôngthống nhất, tạo nên những cách ghi sai lệch và không đúng chính tả chữ quốc ngữ:núi Atine, núi Ta lou, động Hagier, động Diuon, núi Vi Xi Na, núi MaiBar, đồi AShau,…1Về qui định chính tả tên riêng tiếng nước ngoài và dân tộc thiểu số, cho đến nay, có ba văn bản đáng chú ý: a) “Một sốqui định về chính tả trong sách giáo khoa cải cách giáo dục” của Bộ Giáo dục kí ngày 30-11-1980; b) “Qui định vềchính tả tiếng Việt và về thuật ngữ tiếng Việt” (ban hành kèm theo quyết định số 240/QĐ ngày 5-3-1984 của Bộ Giáodục); c) “Quy tắc chính tả tiếng Việt và phiên chuyển tiếng nước ngoài”, 7/2000 của Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biênsoạn Từ điển Bách khoa Việt Nam. Ngoài ra, còn có đề tài “Tiến tới chuẩn hoá cách viết tên riêng tiếng dân tộc thiểusố trong văn bản tiếng Việt” của Hội Ngôn ngữ học thuộc Hội Liên hiệp Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam(2001). Đángchú ý là, những đề xuất về chính tả tên riêng nước ngoài, trong đó có tên riêng dân tộc, của những qui định trên vẫnkhông đạt được sự thống nhất chung.2Như vậy, sự đa dạng và không thống nhất trong cách phiên chuyển các địadanh Pc, To sang tiếng Việt nói trên có thể qui về các kiểu dạng thường gặp nhất sauđây:2.1. Phiên âm không thống nhấtPhiên âm là cách ghi các địa danh dân tộc sang tiếng Việt được nhiều nhà xuấtbản, các cơ quan thông tấn báo chí và các loại văn bản hành chính, bản đồ trong nướcáp dụng. Họ nghe được âm thanh của địa danh dân tộc như thế nào thì dùng chữ quốcngữ ghi chép, phiên âm lại như vậy theo đúng qui tắc chính tả chữ viết hiện hành.Điều đáng nói ở đây là, không phải ai cũng có những hiểu biết sâu sắc về tiếng dântộc và có khả năng nghe, thẩm âm chính xác ngữ âm địa danh nguyên ngữ để lựachọn những kí tự thống nhất cho việc phiên âm sang chữ quốc ngữ nên mới xảy ratrường hợp cùng một địa danh dân tộc nhưng lại được phiên bằng nhiều dạng khácnhau trong tiếng Việt, dẫn đến tình trạng không nhất quán trong cách phiên chuyển.a) Phiên âm không thống nhất “a” hay “à”địa danh Pc, Tonghĩa gốcđịa danh ViệtTahamlàm cho chảy máuTa Ham, Tà HàmArum klưngđông, nhiềuA Rum Ca Lưng,A Rum Cà Lưng,A Rum LùngPrangđến tận nơi, tận đíchBa Ràng, Bà Ràng, Ba Ranb)Phiên âm không thống nhất “k” hay “c”Kakuqgù (lưng)Ka Cú- Ca Cú- Ca CútKavarang, chiênKa Va- Ca Vac) Phiên âm không thống nhất “d” hay “đ”Duttắc nghẽnĐụt- Dut- DútPatdúhlối gặp nhauPa Đu- Pa Du- Pa Đụtd) Phiên âm không thống nhất “p” hay “b”Abungcây lồ ôA Bung- A PungKapúngôm ấp, che đậyCô Pung- Cô BungPlengthiêng liêngPa Leng- Pơ leng- Ba Lenge) Phiên âm không thống nhất “a” hay “â”Pi-ăitên dòng họ kiêng thịt chóPi Ây, Pi Ay, Phi ÂyTa-ăilàm cho đauTà Ay, Ta Ay, Tà Âyg) Ghi thanh điệu không thống nhấtRloóklàm cho tháo rờiA Lê Lộc, A Lê Lốc, Lê lộc3Atúngmột loại mía ngon ngọt A Tùng- A Túng- A TủngNhư vậy, việc phiên âm địa danh từ tiếng Pc, To sang tiếng Việt hiện nay cònnhiều kiểu dạng khác nhau. Sự thiếu nhất quán này có thể giải thích được từ cáchthẩm âm địa danh tiếng dân tộc để ghi bằng chữ quốc ngữ thiếu chuẩn xác, do kiếnthức ngôn ngữ dân tộc của những người tạo lập văn bản tiếng Việt khác nhau.2.2. Chuyển tự không thống nhấtCả chữ viết Pc - To lẫn chữ quốc ngữ đều thuộc hệ chữ La-tinh. Song có sựkhác nhau về đặc điểm ngữ âm của hai ngôn ngữ nên giá trị của các con chữ cũngkhác nhau. Trong quá trình Việt hoá (quốc ngữ hoá) các địa danh tiếng Pc - To đã xảyra tình trạng chuyển tự không thống nhất. Có thể qui về hai dạng chính:2.2.1. Chuyển tự nguyên ngữChữ viết La-tinh của địa danh tiếng Pc - To như thế nào thì được viết như vậytrong tiếng Việt. Đây là trường hợp chuyển hoàn toàn chữ dân tộc sang tiếng Việt.Chẳng hạn:- suối Ta-ăi– núi Mpao- khe Prok- Đầm Aroi- sông Alim– sông Aló– đèo Anăm– thôn Atia- Thác Anôr– đèo Ako- suối Achia– thôn Pa-e ...Rõ ràng, với cách ghi nguyên dạng này sẽ tạo nên những con chữ xa lạ và tráivới quy tắc chính tả chữ quốc ngữ, thậm chí còn gây khó khăn cho việc phát âm đúngcác địa danh dân tộc trên các phương tiện thông tin đại chúng.2.2.2. Chuyển một phần chữ viết Pc - To sang chữ quốc ngữ có bớt đi nhữngdấu phụ vốn có trong chữ viết dân tộc. Ví dụ:- đồi Prokchuyển thànhPơ Rok- khe Tu Parleechchuyển thànhTu Ba Lệch- cầu Kruôihchuyển thànhCruôi- thôn Apíqchuyển thànhA Pi- thôn Aróhchuyển thànhA RohCách chuyển tự trên có ưu điểm là giữ được gần đúng ngữ âm tiếng dân tộc,nhưng lại không đúng chính tả chữ quốc ngữ vì có quá nhiều con chữ “chưa nhậphệ”, đặc biệt là các con chữ ghi tổ hợp phụ âm lạ - một thói quen phát âm không cóđối với người Việt.2.3. Phiên âm kết hợp với sự chuyển dịch “trùng lặp về nghĩa” đối với cácyếu tố tạo địa danh4Trường hợp “dịch thừa” trong khi phiên âm các địa danh dân tộc sang tiếngViệt không phải là trường hợp hiếm thấy trên các văn bản tiếng Việt 1. Sự “cố ý” tạonên những kết hợp địa danh có các yếu tố trùng lặp, đồng nghĩa trong phiên chuyểncó lí do khách quan từ chính năng lực và kiến thức ngôn ngữ dân tộc của người ghiđịa danh. Do vậy, để tránh những cách viết địa danh sai lệch này, ngay từ đầu chúngtôi đã rất xem trọng việc tìm hiểu nguồn gốc và ý nghĩa các địa danh để ghi âm vàviết các địa danh dân tộc một cách chính xác nhất. Ví dụ:- sông Đắc Krông chỉ nên viết là sông Krông vì Đắc(Dak) nghĩa là nước, sông, suối.- núi Cô Ta Koong chỉ nên viết là núi Ta koong vì Cô(koóh) nghĩa là núi.Tương tự, các kiểu ghi địa danh “núi Cô Ca Va”, “núi Cô Va La Đụt”,… đềubị xem là những kiểu “dịch thừa” kết hợp với phiên âm các địa danh tiếng Pc - Tosang tiếng Việt thường thấy trên bản đồ và sách báo hiện nay.3. Vài nét tương đồng và khác biệt về ngữ âm và chữ viết giữa tiếng Pa côTa ôi với tiếng Việt dùng trong phiên chuyểnMỗi ngôn ngữ có một hệ thống kí hiệu riêng biệt, thống nhất trong hệ thốngcấu trúc. Do vậy, các ngôn ngữ sẽ dùng những hệ thống chữ viết khác nhau để ghi cácâm trong các ngôn ngữ khác nhau. Sự tương đồng và dị biệt giữa hệ thống ngữ âm vàchữ viết giữa tiếng Việt với tiếng Pc - To, nếu có, cũng là điều dễ hiểu và có thể lí giảiđược. Để có được những nguyên tắc phiên chuyển địa danh từ tiếng Pc - To sangtiếng Việt cũng như viết và đọc các địa danh bằng tiếng Việt, chúng ta cần có nhữnghiểu biết nhất định về ngữ âm và chữ viết giữa hai ngôn ngữ. Đó sẽ là cơ sở giúpchúng ta nắm vững được những nguyên tắc phiên chuyển phù hợp với những đặcđiểm ngữ âm và chữ viết được phiên chuyển, giúp viết và đọc đúng chữ quốc ngữnhưng không quá xa lạ với ngôn ngữ dân tộc, giúp tránh được những sai lầm đángtiếc trong quá trình phiên chuyển địa danh từ tiếng dân tộc sang tiếng Việt.3.1. Những tương đồng và khác biệt về ngữ âm3.1.1. Tiếng Tà ôi là một ngôn ngữ thuộc tiểu loại hình cổ, ngành Môn-Khơme, ngữ hệ Nam Á, được xác định có những đặc điểm ngữ âm chính sau:- Là ngôn ngữ chưa có thanh điệu, giống các ngôn ngữ thuộc nhóm Katuic ởViệt Nam nói chung.1Vấn đề “dịch thừa” kết hợp với phiên âm các địa danh dân tộc thiểu số sang tiếng Việt là hiện tượng phổ biến, có thểgặp ở nhiều vùng địa danh tiếng dân tộc khác nhau. Chẳng hạn, các địa danh “sông Krông Knô, sông Krông Ana, sôngKrông Pôkô, sông Krông Hnang, ..”(Krông=sông) ở Tây Nguyên; “suối Nậm Ban, núi Phu Nậm Cấu, ..”(nậm=suối,phu=núi ) ở vùng Tây Bắc. Kể cả địa danh tiếng Việt: sông Hương Giang, sông Cửu Long Giang, sông Ngự Hà, sôngTrường Giang, sông Hồng Hà, núi Hoành Sơn, núi Trường Sơn,… Xem thêm: Hoàng Thị Châu(2001), Tiến tới chuẩnhoá cách viết tên riêng tiếng dân tộc thiểu số trong văn bản tiếng Việt(đề tài của Hội Ngôn ngữ học Việt Nam thuộcLiên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam).5- Trong vỏ ngữ âm của từ (từ ngữ âm-âm vị học) còn tồn tại nhiều cấu trúc đatiết, trong đó âm tiết cuối từ (còn gọi là âm tiết chính) là âm tiết mang trọng âm từ.Đặc điểm này chúng ta cũng có thể nhận thấy ở các ngôn ngữ tiểu nhóm Katuic hayBahnaric ở Việt Nam.- Tồn tại khá nhiều các kiểu dạng khác nhau của tiền âm tiết. Các âm cuốitrong tiền âm tiết phần lớn là các âm nước, lỏng / l, r / hoặc âm mũi / m, n, , /; mộtsố tiền âm tiết có âm cuối là phụ âm tắc (do hiện tượng đồng hóa ngược ?).- Có khá nhiều từ có vỏ ngữ âm lớn hơn hai âm tiết. Mô hình từ ngữ âm củatiếng Pc - To có thể có tới ba tiền âm tiết.- Đảm nhận chức năng âm đầu của âm tiết chính có thể là phụ âm đơn hoặc tổhợp phụ âm.- Các nguyên âm đơn có sự đối lập đều đặn về trường độ. Các nguyên âm hơithấp ở vị trí trước và giữa thực chất là các phụ âm căng khi cấu âm.- Hệ thống âm cuối trong âm tiết chính khá phức tạp. Ngoài các phụ âm tắc, vôthanh /-p, -t, -c, -k/ và các âm mũi tương ứng /m, n, , /, bán nguyên âm /-j, -w/, phụâm nước, lỏng /-l, -r/ có chức năng âm cuối giống nhiều ngôn ngữ dân tộc khác, hệthống âm cuối trong tiếng Pc - To còn có các phụ âm thanh hầu /- , -h/, cùng với cáctổ hợp bán nguyên âm + phụ âm thanh hầu /- , -w/.3.1.2. Tiếng Việt, một ngôn ngữ đơn lập điển hình, thuộc tiểu loại hình trung,nhóm Việt-Mường, ngữ hệ Nam Á được xác định có đặc điểm ngữ âm chính sau:- Là một ngôn ngữ có thanh điệu (huyền, ngã, nặng, sắc, hỏi, không) với nhữngđặc trưng khu biệt về âm vực và âm điệu.- Các âm tiết có thực ở trong tiếng Việt đều là những âm tiết có nghĩa và các từđơn chỉ có vỏ ngữ âm là một âm tiết vì đầu mỗi âm tiết đã mất hết các tổ hợp phụ âm.- Đảm nhận chức năng âm đầu của âm tiết tiếng Việt là các phụ âm đơn, khôngcó tổ hợp phụ âm. Trong tiếng Việt ở phương ngữ Bắc Bộ có 19 phụ âm, kể cả phụâm tắc thanh hầu / /, ở vị trí đầu âm tiết.- Trong tiếng Việt ở miền Bắc, hệ thống âm cuối thường chỉ có 6 phụ âm: /-p,-t, -k, -m, -n, - / và 2 bán nguyên âm /w, j/.- Hệ thống nguyên âm tiếng Việt gồm 9 nguyên âm cơ bản được sắp xếp theohai hàng cân đối: trước / i, e, , a / và sau / , u, , o, /; với 4 độ năng cơ bản: cao/i,, u /, trung bình / e, o /, hơi thấp / , , / và thấp / a /. Ngoài ra, trong tiếng Việtcòn có 3 nguyên âm đôi: / ie,, uo /. ????63.1.3. Với những đặc điểm nêu trên, có thể thấy sự khác biệt cơ bản nhất về hệthống âm vị và phẩm chất ngữ âm của tiếng Pc - To với tiếng Việt như sau:- Một bên là tiếng (Pc - To) không có thanh điệu, một bên là ngôn ngữ (tiếngViệt) có thanh điệu.- Trong tiếng Pc - To, số lượng từ đa tiết chiếm đa số; trong khi đó, từ đơn tiếtchiếm đa số trong tiếng Việt.- Một bên là ngôn ngữ có tổ hợp phụ âm (PC - To), một bên đã không còn tổhợp phụ âm(tiếng Việt).- Có thể nói, hệ thống phụ âm đầu, hệ thống âm cuối, hệ thống nguyên âmtrong tiếng Pc - To có số lượng lớn hơn trong tiếng Việt và chúng bao trùm lên hệthống các âm vị trong tiếng Việt.Có thể nhận thấy, vấn đề tổ hợp phụ âm là vấn đề gây nên nhiều điểm thiếunhất quán nhất trong cách phiên chuyển địa danh tiếng Pc - To sang tiếng Việt.3.2. Những tương đồng và khác biệt về chữ viết3. 2.1. Chúng ta dễ nhận thấy sự tương đồng giữa hai bộ chữ viết là cả chữviết Pc - To lẫn chữ quốc đều thuộc hệ chữ viết La-tinh. Đó là các loại chữ viết ghiâm vị. Cách ghi các từ theo nguyên tắc ngữ âm học. Loại chữ này phản ánh tương đốiđúng ngữ âm, phần lớn mỗi chữ tương ứng với một âm, có giá trị khoa học cao và rấtgần với bộ chữ ngữ âm quốc tế (kí hiệu phiên âm quốc tế). Đặc điểm cùng tự dạngLa-tinh giữa hai loại chữ viết sẽ giúp cho quá trình phiên chuyển tên riêng nói chung,địa danh nói riêng, từ tiếng Pc - To sang tiếng Việt được dễ dàng hơn rất nhiều so vớiphiên chuyển các ngôn ngữ có chữ viết không cùng hệ La-tinh.3.2.2. Tuy cùng hệ chữ viết La-tinh nhưng giữa chữ viết Pc - To với chữ quốcngữ vẫn tồn tại những khác biệt cơ bản do có sự khác biệt về đặc điểm ngữ âm giữahai ngôn ngữ: cùng một con chữ (kí tự) được dùng để biểu thị các giá trị ngữ âmkhông giống nhau trong hai ngôn ngữ. Chẳng hạn:- Để phân biệt sự khu biệt/đối lập âm vị học 4 bậc của các nguyên âm trongtiếng Pc - To nên bộ chữ viết này đã dùng “dấu móc ngược” để ghi đối lập giữa cácnguyên âm hơi cao với các nguyên âm hơi thấp; trong khi chữ quốc ngữ lại sử dụng“dấu á” làm dấu phụ để biểu thị nguyên âm ngắn. Ngược lại, để ghi nguyên âm ngắn,tiếng Pc - To sử dụng “dấu sắc” trên các nguyên âm, ngoại trừ chữ â, ă giống chữquốc ngữ (ư-ứ, ê-ế, u-ú, oo-oó, a-ă, ơ-â..).- Để ghi hiện tượng âm tắc thanh hầu ở cuối âm tiết, chữ viết Pc - To dùng conchữ “q” để biểu thị, còn chữ quốc ngữ không ghi.7- Do tiếng Pc - To là ngôn ngữ mang đặc điểm đa tiết và không thanh điệu, cóhệ thống phụ âm đầu và nguyên âm khá phức tạp, có rất nhiều tổ hợp phụ âm chonên, nhiều kí hiệu trong bộ chữ Pc - To không hề và/hoặc không tương ứng trong chữquốc ngữ. Chẳng hạn: nhân đôi nguyên âm để biểu thị các nguyên âm căng (ee, oo,ơơ); các kí hiệu phụ âm ghép (br, pl, kl); k thay cho c, k, q; g thay cho g, gh; ng thaycho ngh, ng trong chữ quốc ngữ. Ngoài ra, chữ viết Pc - To còn bổ sung thêm các conchữ j, y, iq, uq, ih để ghi những phụ âm không có trong chữ quốc ngữ.3.2.3. Rõ ràng, so với chữ quốc ngữ, bộ chữ Pc - To đã có nhiều cải tiến từchính những khuyết điểm của chữ quốc ngữ. Sự khác nhau về hệ thống âm vị vàphẩm chất ngữ âm của chúng trong hai ngôn ngữ tất yếu dẫn đến những khác biệttrong cách ghi âm vị của hai bộ chữ cùng hệ La-tinh. Sự khác biệt này xuất phát từnhiều nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân về mục đích chính trị, năng lựcvà giải pháp của cá nhân những người sáng tạo ra hai bộ chữ viết nói trên. Chínhnhững khác biệt về ngữ âm và chữ viết giữa hai ngôn ngữ nói trên đã làm nảy sinh sựkhông thống nhất trong cách phiên chuyển các địa danh từ tiếng Pc - To sang tiếngViệt hiện nay.4. Nguyên tắc phiên chuyển địa danh từ tiếng Pa-cô Tà-ôi sang tiếng ViệtCho đến nay, các nhà nghiên cứu đã đưa ra rất nhiều giải pháp phiên chuyểntên riêng dân tộc sang tiếng Việt, và quan trọng là vẫn chưa có được ý kiến thốngnhất. Để phiên chuyển các địa danh Pc - To sang tiếng Việt, chúng tôi đề xuất nhữngnguyên tắc chung và những nguyên tắc cụ thể, từ đó chỉ ra một số giải pháp phiênchuyển địa danh dân tộc thiểu số sang tiếng Việt.4.1. Nguyên tắc chunga) Phiên chuyển các địa danh dân tộc sang tiếng Việt, trước hết, phải ghi theocách viết và cách đọc của chữ quốc ngữ, phù hợp với chuẩn mực chính tả tiếng Việt,tạo điều kiện tốt nhất cho việc tiếp nhận thông tin trên các phương tiện truyền thôngđại chúng và các loại hình văn bản tiếng Việt.b) Mọi sự phiên chuyển đều phải căn cứ trên cơ sở ngữ âm của tiếng dân tộc.Trong trường hợp có sự chênh lệch và khác biệt nhất định về đặc điểm ngữ âm củanguyên ngữ với tiếng Việt thì cần chọn những đơn vị ngữ âm và âm học gần vớinguyên ngữ để tạo được cách đọc gần nhất với nguyên ngữ tiếng dân tộc.c) Một từ trong tiếng dân tộc phải được viết rời từng âm tiết, có dấu chữ, dấuthanh và viết hoa chữ cái đầu từ, giữa các âm tiết có dấu gạch nối, giúp cho ngườiđọc biết cách ngắt nhịp đúng chỗ, chính xác hoặc gần với cách ngắt âm tiết trongnguyên ngữ.84.2. Những nguyên tắc cụ thểTiếng Pc - To là một ngôn ngữ đơn lập “chưa triệt để”, chưa hình thành thanhđiệu và còn tồn tại các phụ tố cấu tạo từ, nhiều tổ hợp phụ âm. Căn cứ vào sự khácbiệt và tương đồng về chữ viết và đặc điểm ngữ âm giữa tiếng Pc - To với tiếng Việtđã được đề cập ở trên, vấn đề phiên chuyển địa danh Pc - To sang tiếng Việt chỉ đềcập đến cách xử lí những khác biệt về ngữ âm và chữ viết do hai ngôn ngữ tạo nên, từđó đi đến cách phiên chuyển thống nhất.2.1. Về cách phiên chuyển các phụ âm và tổ hợp phụ âm đầu âm tiếta) Bộ chữ viết Pc - To có những phụ âm đầu âm tiết không có hoặc khôngtương ứng trong hệ thống chữ cái chữ quốc ngữ. Do vậy, khi phiên chuyển các địadanh, các phụ âm đó phải được phiên chuyển thành những con chữ tương đương cótrong chữ quốc ngữ. Chẳng hạn, con chữ “j” thể hiện âm vị / / và con chữ “y” thểhiện âm vị / j / trong chữ viết Pc - To đều được phiên chuyển thành chữ “gi” và chữ“d” trong chữ quốc ngữ. Ví dụ:- sông Joóngphiên chuyển thànhsông Giòng- khe Yongphiên chuyển thànhkhe DongCòn phụ âm “p” khi đứng đầu âm tiết, lúc thì phiên chuyển thành “p” lúc thì“b” trong chữ quốc ngữ. Chúng tôi đề nghị thống nhất phiên chuyển thành chữ cái“b” trong cách ghi các địa danh Pc - To. Ví dụ:- đồi Prokphiên chuyển thànhnúi Bơ-róc-núi Prangphiên chuyển thànhnúi Bơ-ràng- thôn Parisphiên chuyển thànhthôn Ba-rítĐối với phụ âm đầu âm tiết “k” trong tiếng Pc - To cũng được phiên chuyểnthành 3 phụ âm đầu tương ứng theo qui tắc chính tả chữ quốc ngữ:“k, q, c”1.Ví dụ:- núi Kapúngphiên chuyển thànhnúi Ca-bung- suối Katêhphiên chuyển thànhsuối Ca-tể- thôn Kêphiên chuyển thànhthôn Kê- thôn Kanôngphiên chuyển thànhthôn Ca-nôngb) Tất cả các tổ hợp phụ âm đầu âm tiết trong tiếng Pc - To đều phải được âmtiết hoá trong tiếng Việt. Tiếng Việt không chấp nhận bất kì một tổ hợp phụ âm nàoxuất hiện ở vị trí đầu âm tiết thể hiện qua chữ viết quốc ngữ. Quá trình quốc ngữ hoácác phụ âm đầu trong tiếng dân tộc đồng nghĩa với việc đơn tiết hoá mọi yếu tố1Khi sử dụng đến 3 con chữ “k, q, c” để ghi một âm vị / k / dùng trong phiên chuyển các địa danh Pa-cô Tà-ôi sangtiếng Việt đã lặp lại y nguyên những hạn chế của chữ quốc ngữ hiện hành. Tuy vậy, với phương châm Việt hoá triệt đểcác yếu tố ngoại lại, cách làm này lại đảm bảo đúng chính tả chữ quốc ngữ.9“ngoại lai” trong tiếng Việt. Do vậy, chúng tôi đề nghị cách phiên chuyển các tổ hợpphụ âm từ địa danh Pc - To sang tiếng Việt như sau:Cả các tổ hợp phụ âm chặt có thành phần ổn định (yếu tố thứ nhất thường lànhững âm tắc, yếu tố thứ hai là các âm lỏng, nước /-l, -r/ như: pl, pr, bl, pr, kl, kr…lẫn các tổ hợp phụ âm không ổn định (các tổ hợp phụ âm lỏng, do quá trình đơn tiếthoá mà thành, nghĩa là do mất nguyên âm của âm tiết phụ mà xuất hiện sự liên kếtcủa hai phụ âm, kiểu như: rl, rk, lt, …) đều phải được âm tiết hoá bằng cách viết rờicác âm tiết, viết hoa chữ cái đầu từ và thêm “ơ” ở giữa tổ hợp hai phụ âm. Ví dụ:- sông Plingphiên chuyển thànhsông Bơ-ling- đồi Krulphiên chuyển thànhđồi Cơ-run- thôn Priêngphiên chuyển thànhthôn Bơ-riêng- thôn Rloókphiên chuyển thànhthôn Rơ- lộcĐặc biệt, đối với tổ hợp phụ âm “tr” nhiều bản đồ vẫn để nguyên nên dễ nhầmlẫn với âm //- “tr” trong chữ quốc ngữ. Chúng tôi đề nghị nên phiên chuyển theocách âm tiết hoá đồng loạt như các tổ hợp phụ âm nói trên. Chẳng hạn, thôn Tru phảiđược phiên chuyển thành thôn Tờ-ru, chứ không phải thôn Tru đọc giống âm / /- “tr”trong chữ quốc ngữ.2.2. Về cách phiên chuyển các âm chính (nguyên âm)a) Đối với các nguyên âm trong tiếng Pc - To tương ứng với các nguyên âmtrong tiếng Việt, cách phiên chuyển là giữ nguyên cách viết các địa danh. Còn đối vớicác nguyên âm và kí hiệu nguyên âm tiếng Pc - To không có và/hoặc không tươngứng trong tiếng Việt, để phiên chuyển các địa danh chứa chúng, chúng tôi đề nghị nênđưa về các nguyên âm có sẵn trong tiếng Việt có sự gần gũi về cấu âm- âm vị học vớinguyên ngữ. Cụ thể:+ Bỏ “dấu sắc” biểu thị đặc điểm nguyên âm ngắn trong tiếng Pc - To khi phiênchuyển các địa danh sang tiếng Việt. Chẳng hạn:- núi Atúngphiên chuyển thànhnúi A Tung- khe Avérphiên chuyển thànhkhe A Ve- núi Atúkphiên chuyển thànhnúi A Túc+ Các nguyên âm nhân đôi biểu thị tính chất căng trong tiếng Pc - To (ee, oo,ơơ) phiên chuyển sang chữ quốc ngữ thành các nguyên âm có trong chữ viết quốcngữ (ê, ô, ơ). Chẳng hạn:- động Tambơơiphiên chuyển thànhđộng Tam-bơi- sông Tarreenhphiên chuyển thànhsông Tà-rênh10b) Ngoài các cách ghi nguyên âm nguyên ngữ tiếng Pc - To như đã nêu trên,những cách ghi địa danh trên các bản đồ kiểu như: oô, ôo, eu, ou, au, ta có thể nghĩngay đó là cách người Pháp ghi các địa danh dân tộc trên các bản đồ. Đối với nhữngcách ghi nguyên âm như vậy đều phải được phiên chuyển sang chữ viết quốc ngữthành các nguyên âm tương ứng: ô, ô, ơ, u, o. Chẳng hạn;- núi Talouphiên chuyển thànhnúi Ta-lu- đồi Ashauphiên chuyển thànhđồi A So- động Tou Troueinphiên chuyển thànhđộng Tu Tờ-ru-ên2.3. Về cách phiên chuyển các âm cuốiTiếng Pc - To là ngôn ngữ chưa hình thành thanh điệu. Do vậy, sự vắng mặtthanh điệu sẽ được bù đắp ở sự phong phú âm cuối và nguyên âm. Để phiên chuyểncác địa danh từ tiếng Pc - To sang tiếng Việt, chúng ta sẽ phải xử lí những trường hợpâm cuối không có trong tiếng Việt như thế nào? Đây là vấn đề có lẽ dẫn đến nhiềucách ghi địa danh dân tộc không thống nhất hiện nay. Với phương châm “Việt hoá”tối đa các địa danh dân tộc thiểu số mà không phản ánh sai lệch đặc điểm ngữ âmtiếng dân tộc, chúng tôi đề nghị cách phiên chuyển các âm cuối như sau: các phụ âmcuối của tiếng Pc - To chỉ được phiên chuyển trở thành 6 phụ âm cuối tiếng Việt đượcthể hiện bằng các chữ viết quốc ngữ: p, t, ch, c, m, n, nh, ng. Cụ thể:- Chuyển âm cuối “k” trong tiếng Pc - To sang “c” trong tiếng ViệtĐồi Prok được phiên chuyển thành Đồi Bơ-rocNúi Atúk được phiên chuyển thành Núi A Túc- Chuyển âm cuối “l” trong tiếng Pc - To sang “n” trong tiếng ViệtĐồi Krul được phiên chuyển thành Đồi Cơ-runThôn Ajiêl được phiên chuyển thành Thôn A Diên- Đối với những từ hoặc âm tiết của tiếng Pc - To có phụ âm cuối là /- h/ nênthống nhất phiên chuyển thành “dấu hỏi” hoặc “không dấu” trong tiếng Việt:Đồi Abiah được phiên chuyển thành Đồi A BiaSuối Katêh được phiên chuyển thành Suối Ca-tểThôn Aróh được phiên chuyển thành Thôn A Rỏ- Bỏ phụ âm cuối /-r/ trong tiếng Pc - To khi phiên chuyển sang tiếng Việt:Núi Taviar được phiên chuyển thành Núi Ta-vi-aĐầm Ahar được phiên chuyển thành Đầm A HaThôn Chaih được phiên chuyển thành Thôn Chai11- Đối với phụ âm cuối tắc thanh hầu ở tiếng Pc - To được biểu hiện trên chữviết La-tinh bằng chon chữ “q” ở cuối từ hay âm tiết thì thống nhất phiên chuyểnthành “dấu nặng” trong tiếng Việt:Suối Phoq được phiên chuyển thành Suối PhọThôn Ahooq được phiên chuyển thành Thôn A Hộ5. Kết luậnVấn đề phiên chuyển tên riêng dân tộc thiểu số, trong đó có địa danh, sangtiếng Việt đã được các nhà nghiên cứu đề cập đến từ lâu. Tuy nhiên, ở từng thời điểmlịch sử khác nhau, chúng ta nhận được những đề xuất về giải pháp phiên chuyển cácđịa danh dân tộc không giống nhau, tạo nên sự không thông nhất về cách ghi tênriêng trên bản đồ và các loại hình văn bản tiếng Việt. Việc cần thiết phải giữ gìn sựtrong sáng của tiếng Việt và nhu cầu tiếp xúc, vay mượn, làm phong phú vốn từ tiếngViệt trong bối cạnh hội nhập quốc tế là hai vấn đề luôn luôn đi đôi với nhau trong giaiđoạn hiện nay. Do vậy, việc đề xuất một cách phiên chuyển các địa danh từ tiếng dântộc sang tiếng Việt luôn diễn ra một cách cấp thiết và cũng không phải dễ gì để cóđược một ý kiến thống nhất. Thiết nghĩ, trong giai đoạn hiện nay, tiếng Việt cần cómột qui định thống nhất về cách sử dụng từ “ngoài lai” theo hướng Việt hoá triệt để,trong đó có vấn đề phiên chuyển địa danh dân tộc thiểu số sang tiếng Việt trên mọiloại hình văn bản./.Huế, tháng 08 năm 2009T.V.STÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNHA. Tiếng Việt:1. Bộ Giáo dục, Quyết định số 240/ QĐ ngày 5/3/1984 của Bộ trưởng Bộ Giáodục: “Quy định về chính tả tiếng Việt và về thuật ngữ tiếng Việt” áp dụng trongcác sách giáo khoa, báo và văn bản của ngành giáo dục.2. Bộ Giáo dục, UBKHXHVN, Một số quy định về chính tả trong sách giáo khoacải cách giáo dục, 11/1980.3. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Quyết định số 07/2003/ QĐ-BGDĐT ngày13/03/2003 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo: Quy định tạm thời về viếthoa tên riêng trong sách giáo khoa.124. Hoàng Thị Châu,…, Tiến tới chuẩn hoá cách viết tên riêng tiếng dân tộc thiểusố trong văn bản tiếng Việt (đề tài của Hội Ngôn ngữ học Việt Nam thuộc Liênhiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam), Nghiệm thu năm 2001.5. Hoàng Thị Châu (1993), Có thể xây dựng một bộ chữ viết chung cho nhiềungôn ngữ dân tộc, Ngôn ngữ số 2, tr.21-24.6. Hoàng Thị Châu (2001), Xây dựng bộ chữ phiên âm cho các dân tộc thiểu số ởViệt Nam, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.7. Hoàng Thị Châu (2004), Phương ngữ học tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia HàNội.8. Nguyễn Tài Cẩn (1995), Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt (sơ thảo), NxbGiáo dục, Hà Nội.9. Trần Trí Dõi (1999), Nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam,ĐHQGHN.10.Trần Trí Dõi (2001), Ngôn ngữ và sự phát triển văn hoá xã hội, Nxb Văn hoáthông tin, Hà Nội.11. Trần Trí Dõi (2005), Giáo trình lịch sử tiếng Việt (sơ thảo), Nxb Đại học Quốcgia Hà Nội.12.Phạm Đức Dương (2007), Bức tranh ngôn ngữ-văn hóa-tộc người ở Việt Namvà Đông Nam Á, Nxb. ĐHQG, Hà Nội.13.Anh Hiền (1972), Bàn thêm về qui tắc viết hoa tên riêng chỉ người và chỉ đấttrong tiếng Việt, Ngôn ngữ số 3,tr.51-54.14.Lê Trung Hoa (2006), Địa danh học Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.15. Nguyễn Hữu Hoành, Nguyễn Văn Lợi (1998), Tiếng Katu, KHXH, Hà Nội.16.Nguyễn Hữu Hoành (2004), Về tên gọi các dân tộc thiểu số thuộc nhóm ngônngữ Việt-Mường ở Việt Nam, trong “Những vấn đề ngôn ngữ học”, KHXH, HàNội, tr. 443-452.17.Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam, Quy tắcchính tả tiếng Việt và phiên chuyển tiếng nước ngoài, 7/2000.18.Nguyễn Văn Khang (2003), Kế hoạch hóa ngôn ngữ, KHXH, Hà Nội.19.Nguyễn Văn Khang (2007), Từ ngoại lai trong tiếng Việt, Nxb Giáo dục, HàNội.1320. Nguyễn Văn Khang, Nguyễn Trung Thuần (1995), Từ điển địa danh nướcngoài, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.21. Nguyễn Văn Lợi, …(1986), Sách học tiếng Pacôh - Taôih, UBND tỉnh BìnhTrị Thiên xuất bản, Huế.22.Hoàng Văn Ma (2002), Ngôn ngữ dân tộc thiểu số Việt Nam - Một số vấn đề vềquan hệ cội nguồn và loại hình học, KHXH, Hà Nội.23.Hoàng Văn Ma, Tạ Văn Thông (1998), Tiếng Bru - Vân Kiều, KHXH, Hà Nội.24.Hoàng Văn Ma(2004), Tộc danh trong các nhóm dân tộc Thái-Ka đai, trong“Những vấn đề ngôn ngữ học”, KHXH, Hà Nội, tr. 443-452.25. Nhà xuất bản giáo dục, Quy định tạm thời về chính tả trong sách giáo khoamới, Hà Nội, 3/2002.26.Hoàng Phê (1976), Một số nguyên tắc giải quyết vấn đề chuẩn hoá chính tả,Ngôn ngữ, số1, tr. 1-10.27.Đoàn Văn Phúc (1996), Ngữ âm tiếng Êđê, KHXH, Hà Nội.28. Đoàn Văn Phúc(1998), Từ vựng các phương ngữ Êđê, Nxb. TPHCM.29. Đoàn Văn Phúc(2003), Chuẩn hoá tên riêng dân tộc thiểu số trong tiếng Việt(trên cứ liệu một số ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở miền nam), BCKH ViệnNgôn ngữ học.30. Phan Văn Phức (2004), Về tên gọi của các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữMalayo- Polinesian ở Việt Nam, trong “Những vấn đề ngôn ngữ học”, KHXH,Hà Nội, tr. 544-550.31.Trần Văn Sáng (2008), Bước đầu tìm hiểu đặc điểm cấu tạo và ý nghĩa các địadanh có nguồn gốc ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở huyện A Lưới, Thừa ThiênHuế, Báo cáo Hội thảo Ngữ học toàn quốc lần thứ nhất, Hội Ngôn ngữ họcViệt Nam, Cần Thơ, ngày 18-4.32.Nguyễn Thị Sửu (2009), Cấu tạo từ tiếng Ta Ôi (trong sự so sánh với tiếngViệt), Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học, Hà Nội.33.Lý Toàn Thắng, Nguyễn Văn Lợi (2001), Về sự phát triển của ngôn ngữ cácdân tộc thiểu số ở Việt Nam trong thế kỉ XX, Ngôn ngữ, số2.34.Bùi Khánh Thế (1997), Ngữ pháp tiếng Chăm, Nxb.GD, Hà Nội.35.Tạ Văn Thông (1993), Tên riêng trong tiếng Kơho, Ngôn ngữ, số 1, tr. 23-27.1436.Tạ văn Thông (2001), Cách viết tên các dân tộc ở Việt Nam, Ngôn ngữ, số 10,tr. 26-32.37.Đoàn Thiện Thuật (1999), Ngữ âm tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.38.Văn phòng Chính phủ, Quyết định số 009/1998/QĐ-VPCP ngày 22/11/1998Quy định tạm thời về viết hoa trong văn bản của Chính phủ và Văn phòngChính phủ.39.Võ Xuân Quế (1998), Về tên riêng trong các ngôn ngữ dân tộc thiểu số trênsách báo tiếng Việt, trong “Tiếng Việt trên các phương tiện thông tin đạichúng”, Hà Nội.40.Viện Ngôn ngữ học (1988), Ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam và khuvực Đông Nam Á, KHXH, Hà Nội.41.Viện Ngôn ngữ học(1994), Ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam và chínhsách ngôn ngữ, Nxb KHXH, Hà Nội.42.Viện Ngôn ngữ học (1994), Nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc ở Việt Nam, NxbKHXH, Hà Nội.43. Viện Ngôn ngữ học (2002), Cảnh huống và chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam,Nxb KHXH, Hà Nội.44.Nguyễn Như Ý,…(1995), Từ điển chính tả tên người nước ngoài, Nxb Khoahọc xã hội, Hà Nội.15B. Tiếng Anh:1. Asher R. E Editor-in-Chief, 1994, The Encyclopedia of language andLinguistics, Pergamon Press.2. Alan Cruse.D. (2000), Meaning in language: An Introduction to Semanticsand Pragmtics, Oxford University Press.3. Bright W. Editor-in Chief (1992), International Encyclopedia of Linguistics,Oxford University Press.4. Trask.R.L, (1999), Key concepts in language and linguistics, Routledge,London and New York.5. Mark J. Alves (2006), A grammar of Pacoh:a Mon-Khmer language of thecentral highlands of Vietnam, Pacific Linguistics, Research School ofPacific and Asian Studies, The Australian National University.6. Paul Sidwell (2006), A Mon - Khmer comparative dictionary, PacificLinguistics, Research School of Pacific and Asian Studies, The AustralianNational University.7. Richart L. Watson(1969), “pacoh names”, Mon-Khmer Studies III, TheLinguistic Circle of Saigon & The Summer Institute of Linguistic, 77-88.8. Watson K. (1964), “pacoh phonemics”, Mon-Khmer Studies I, The LinguisticCircle of Saigon & The Summer Institute of Linguistic, 135-148.16
Tài liệu liên quan
- Cụm danh từ tiếng Việt
- 45
- 3
- 52
- Báo cáo nghiên cứu khoa học: " TÁC ĐỘNG CỦA VỐN VAY TỪ NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI THỪA THIÊN HUẾ ĐẾN HỘ NGHÈO THEO QUAN ĐIỂM TIẾP CẬN MỨC SỐNG" ppsx
- 10
- 775
- 0
- Đại Danh Từ Tiếng Việt pdf
- 38
- 504
- 1
- Báo cáo nghiên cứu khoa học " CÁCH PHIÊN CHUYỂN ĐỊA DANH TỪ TIẾNG PA CÔ, TA ÔI Ở THỪA THIÊN HUẾ SANG TIẾNG VIỆT " doc
- 13
- 375
- 2
- Đặc điểm ngôn ngữ - văn hóa của địa danh có nguồn gốc tiếng Cơ Tu ở Thừa Thiên Huế
- 17
- 413
- 0
- ĐỊA DANH CÓ NGUỒN GỐC TIẾNG CƠ TU Ở THỪA THIÊN HUẾ DƯỚI GÓC NHÌN NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA
- 11
- 515
- 0
- Phân tích nguyên nhân thất bại các dự án đầu tư nuôi tôm 10 tỷ đồng ở thừa thiên huế khu vui chơi giải trí ngự bình TT huế trồng cây cà phê chè ở thanh hóa
- 23
- 4
- 9
- CÁCH PHIÊN CHUYỂN địa DANH từ TIẾNG PA cô TA ôi ở THỪA THIÊN HUẾ SANG TIẾNG VIỆT
- 16
- 346
- 0
- CHUYÊN ĐỀ DANH TỪ TIẾNG ANH
- 15
- 553
- 0
- Đánh giá công tác hạch toán lưu chuyển hàng hóa tại công ty cổ phần an phú – thừa thiên huế
- 72
- 257
- 0
Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về
(183.29 KB - 16 trang) - CÁCH PHIÊN CHUYỂN địa DANH từ TIẾNG PA cô TA ôi ở THỪA THIÊN HUẾ SANG TIẾNG VIỆT Tải bản đầy đủ ngay ×Từ khóa » Học Tiếng Dân Tộc Pako
-
Pa Kô, Tà Ôi Nhằm Phục Vụ Việc Dạy Học Tiếng Dân Tộc ở Thừa Thiên ...
-
Việt - Pa Kô, Tà Ôi Nhằm Phục Vụ Việc Dạy Học Tiếng Dân Tộc ở Thừa ...
-
Tiếng Pa Kô - Wikipedia
-
Người Pa Kô – Wikipedia Tiếng Việt
-
Học Tiếng đồng Bào Dân Tộc Thiểu Số để Gần Dân, Hiểu Dân Hơn
-
Tiếng Pa Kô – Du Học Trung Quốc 2022 - Wiki Tiếng Việt
-
Dạy Và Học Tiếng Nói, Chữ Viết Của Người Dân Tộc Thiểu Số ở Thừa ...
-
Thừa Thiên-Huế: Thầy Ku Nô Sáng Chế Bộ Chữ Pa Cô - Tà-ôi đầu Tiên
-
Pa Kô được Bổ Sung Vào Danh Mục Các Dân Tộc Việt Nam
-
Giữ Hồn Dân Tộc Qua Tiếng Mẹ - Báo Thừa Thiên Huế Online
-
Độc đáo Lễ Cưới Người Pa Cô - YouTube
-
Sắc Màu Dân Tộc: Người Pa Kô Nơi đại Ngàn Trường Sơn - YouTube
-
Biên Soạn Thành Công Từ điển Việt - Ta ôi, Pa Cô - Đại Biểu Nhân Dân