Cách Thay Băng Và Rửa Sạch Vết Thương Khi Bị Bỏng

Việc thay băng để loại bỏ dịch mủ đọng ở vết bỏng, cắt bỏ mô hoại tử, làm sạch vết thương bỏng, đưa thuốc vào điều trị tại chỗ, bổ sung chẩn đoán diện tích và độ sâu.

Mục lục

  • 1 Khi thay băng nên
  • 2 Chỉ định thay băng
    • 2.1 Thay băng thường kỳ
    • 2.2 Kỹ thuật thay băng
    • 2.3 Thay băng một số trường hợp đặc biệt
  • 3 Thay băng sau mổ ghép da mảnh mỏng tự thân
    • 3.1 Chỉ định
    • 3.2 Kỹ thuật
  • 4 Các thuốc thường sử dụng ở buồng băng
    • 4.1 Dạng dung dịch
    • 4.2 Dạng thuốc mỡ
    • 4.3 Dạng bột
    • 4.4 Dạng cream

Khi thay băng nên

– Đảm bảo vô khuẩn, chống lây chéo

– Thay băng phải nhẹ nhàng, tỉ mỉ

– Không làm đau đớn thêm cho người bệnh, hạn chế gây chảy máu hoặc làm bong các mảnh da ghép

kỹ thuật thay băng khi bị bỏng

Chỉ định thay băng

Thay băng thường kỳ

Tuỳ theo tình trạng của vết thương, nếu vết thương diện rộng, nhiều dịch mủ, thay băng hàng ngày, nếu diện hẹp, ít mủ thay băng  hai ngày một lần

Kỹ thuật thay băng

Những quy định về vô khuẩn trong thay băng

– Sau khi thay băng cho một bệnh nhân, phải ngâm rửa lại tay, mỗi bệnh nhân phải dùng khẩu phần thay băng riêng để tránh lây chéo.

– Khẩu phần thay băng gồm: 2 khay quả đậu, 2 nỉa (1 nỉa có mấu, 1 nĩa không có mấu), 1 kéo cong, bông băng, gạc, thuốc vừa đủ, tất cả đều được hấp sấy vô khuẩn.

Thứ tự bệnh nhân vào thay băng

– Ưu tiên những bệnh nhân cần xử trí kỳ đầu, bệnh nhân sau ghép da, tiếp theo là bệnh nhân có diện tích bỏng hẹp, ít dịch mủ, rồi đến những bệnh nhân có vết bỏng rộng, cuối cùng là những bệnh nhân có nhiễm khuẩn nặng.

– Nếu không có bệnh nhân sau mổ ghép da thì bệnh nhân mới vào viện thay băng trước, bệnh nhân cũ thay băng sau. trẻ em ít tuổi nhất được ưu tiên thay băng trước.

– Những bệnh nhân có bệnh truyền nhiễm phải được thay băng sau cùng với bộ dụng cụ riêng.

– Nên đưa bệnh nhân tới buồng băng để thay băng, trừ bệnh nhân bỏng nặng phải thay băng tại giường bệnh (cần có bàn và kíp thay băng di động)

Nhiệm vụ của nhân viên thay băng: phải có người vô khuẩn và người nhiễm khuẩn

Người nhiễm khuẩn: chuyển bệnh nhân đến buồng băng, và chuyển bệnh nhân về buồng bệnh, dùng pin, kéo tháo băng và gạc ngoài. dội nước muối sinh lý 0,9% hoặc thuốc tím loãng cho ẩm gạc, giúp việc cho người vô trùng, băng bó vết thương đúng kỹ thuật.

Kỹ thuật thay băng: nên do người làm công tác vô khuẩn thực hiện

– Người vô khuẩn khi thay băng phải rửa tay theo đúng quy trình bệnh viện, mặc quần áo đã được hấp vô khuẩn, đi găng tay đã hấp

– Dùng 2 pin nhẹ nhàng bóc lớp gạc bên trong ra, sao cho miếng gạc phải song song với mặt da. Dùng pin có mấu cặp bông cầu đã vắt nước sao cho thiết diện của bông khi chấm vết thương được tiếp xúc nhiều mà mũi nỉa không chạm vào vết thương.

– Khi rửa vết thương bỏng phải theo thứ tự sau đây:

  • Rửa từ vùng sạch đến vùng bẩn (vùng đầu, mặt rửa trước, còn các vùng bàn chân, tầng sinh môn rửa ở thì  cuối của thay băng)
  • Trên một vết thương: chỗ nào sạch rửa trước, bẩn rửa sau. Vùng da lành mép vết thương có thể sát khuẩn bằng cồn 70 độ hoặc dung dịch thuốc đỏ

– Chú ý không để gây chảy máu, ảnh hưởng đến mảnh da ghép, nếu mảnh da ghép bong ra phải đặt lại.

– Dùng gạc cầu thấm nhẹ nhàng vết thương, lấy bỏ giả mạc, cắt bỏ hoại tử, rửa lại vết thương cho sạch, nếu thấy chảy máu phải đặt gạc tẩm dung dịch  canxi chlorua 10%, hoặc nước muối ấm

– Đặt gạc thuốc hoặc bôi thuốc trực tiếp lên vết bỏng (theo chỉ định của bác sỹ). Sau đó đắp gạc khô hút nước (nếu là vùng ghép da thêm một lớp gạc vaselin) lớp gạc sau chờm lên lớp gạc trước 1cm. độ dày của gạc tuỳ thuộc vào sự tiết dịch, mủ của vết thương.

– Đối với mô hạt chuẩn bị ghép da không đắp dầu mỡ trực tiếp lên mổ hạt từ 3-5 ngày trước mổ.

Thay băng một số trường hợp đặc biệt

Đối với vết bỏng đã bôi thuốc tạo màng

– Nếu màng khô thì để tự khỏi.

– Nếu nhiễm trùng dưới màng thuốc thì dùng kéo cắt bỏ màng thuốc bị nhiễm trùng, rửa sạch bằng nước muối sinh lý 0,9% và đắp gạc thuốc vào vùng cắt màng.

Đối với vết bỏng để gạc bán hở

– Nếu khô thì không xử trí gì để hở tự khỏi.

– Nếu ướt dùng kéo cắt bỏ gạc bị ướt, rửa sạch và đắp một lớp gạc thuốc để bán hở, sấy khô.

Đối với bỏng vùng mặt và vùng tầng sinh môn

– Nếu bỏng nông: rửa sạch, thấm khô, bôi thuốc đỏ, để hở

– Nếu bỏng sâu: rửa sạch, đắp thuốc và băng lại, thay băng theo chỉ định

Thay băng sau mổ ghép da mảnh mỏng tự thân

Chỉ định

– Với ghép da tem thư: 72 giờ sau mổ hoặc muộn hơn nếu bệnh nhân không sốt, tại chỗ vết bỏng khô, sạch.

– Với ghép da tự thân mảnh lớn: thay băng kỳ đầu sau 24 giờ. các ngày sau thay băng hàng ngày nếu vết bỏng nhiều dịch. nếu khô thay băng hai ngày một lần.

– Nơi lấy da: thay băng kỳ đầu sau 24 giờ.

Kỹ thuật

– Người hữu khuẩn đưa bệnh nhân sau mổ ghép da lên buồng thay băng đầu tiên, cắt bỏ băng.

– Người vô khuẩn dùng nỉa bóc lớp gạc xốp, bóc lớp gạc dầu (vaselin)

– Dùng bông thấm nước, tẩm nước vào lớp gạc thuốc trong cùng cho đỡ dính. dùng nỉa không mấu để bóc lớp gạc trong cùng, khi bóc nhẹ nhàng, lớp gạc tiếp tuyến với mặt da. dùng nỉa có mấu để cặp bông cầu đã vắt nước để ép dịch. lấy bỏ đi những dải máu tụ hoặc những ổ mủ (nếu có), đặt lại những mảnh da bị bong. dùng gạc hoặc bông vô khuẩn thấm, ép cho hết sạch dịch hoặc mủ vùng da ghép.

– Đặt một lớp gạc thuốc (theo chỉ định của bác sỹ) ở lớp trong cùng

– Đặt một lớp gạc dầu tiếp theo lên trên lớp gạc thuốc

– Đặt gạc khô thấm nước (độ dày tuỳ thuộc vào mức độ tiết dịch của vết thương). các lớp gạc xếp lên nhau như “mái ngói”

– Băng ép chặt vừa phải

– Vùng đựơc ghép da nên kê cao, không để tiếp xúc với mặt giường nằm vì dễ bị tiết dịch và nhiễm khuẩn, da sẽ chết

Đối với vùng cho da: sau khi bệnh nhân đã được giảm đau tốt, người vô trùng bóc từng lớp gạc xốp ỏ bên ngoài và để lại một lớp gạc dầu ở trong cùng. sấy khô vùng này bằng máy sấy. nếu diễn biến thuận lợi, sau 5-7 ngày vùng cho da sẽ tự liền và màng thuốc sẽ bong

Các thuốc thường sử dụng ở buồng băng

Dạng dung dịch

– Dung dịch nước muối sinh lý 0,9%.

– Dung dịch becberin 0,1%.

– Dung dịch  axit boric 3%,

– Dung dịch nitrat bạc 0,25%, 0,5%,

– Dung dịch sulfat đồng 5%,

– Dung dịch  thuốc đỏ,

– Dung dịch betadin 10% hoặc povidin 10%

– Nước nghệ ép, nước muối 5%,…

Dạng thuốc mỡ

– Mỡ cao vàng, mỡ vaselin, mỡ kháng sinh, chitosan…

– Mỡ madhuxin.

– Mỡ madecasol.

Dạng bột

Bột b76, bột a.boric…

Dạng cream

– Các chế phẩm của silver sulfadiazin 1% (cream sulfadiazin-bạc 1%, sivirin 1%).

– Cream biafin.

– Cream nghệ.

Chia sẻ

Từ khóa » Cách Thay Băng Vết Bỏng