Cái Thòng Lọng Công Giáo - 123doc
2 SÁCH KINH CÔNG GIÁO VÀ TÁC HẠI CỦA NÓ
2.2 Cái Thòng Lọng Công Giáo
Gia tộc tổ tiên bên nội tôi ở làng Ninh Cường, tỉnh Nam Định , theo đạo Công Giáo từ đầu thế kỷ 16 nên cha tôi theo truyền thống lâu đời của gia tộc là mỗi khi có con cháu sinh ra được 3 ngày thì đem đến nhà thờ để cha xứ làm phép bí tích rửa tội. Giáo dân có thói quen thường hay đưa con đến nhà thờ vào ngày Chủ nhật sau khi sinh đứa bé nên thời hạn 3 ngày nói trên có thể du di sớm hơn hoặc trễ hơn nhưng ít khi nào để lâu quá một tuần. Nay tôi nhận thấy đây là một hành vi độc đoán của người lớn đối với trẻ thơ vì việc quyết định theo đạo hay không là điều hệ trọng cần phải đợi đến lúc con người trưởng thành mới đủ trí óc phán đoán để có thể tự quyết định vận mệnh của mình. Không một ai dù là cha mẹ có thể tự ý quyết định thay mà không đếm xỉa tới sự ưng thuận của đương sự được. Các tôn giáo luôn lớn tiếng kêu gọi tự do tín ngưỡng trong khi hành vi cưỡng bách trẻ thơ chịu phép rửa tội, thực chất là nghi lễ nhập đạo, là một hành vi tước đoạt tự do tín ngưỡng thô bạo nhất. Việc cưỡng bức trẻ thơ chịu các phép bí tích, nhất là bí tích rửa tội nhập đạo, phải được coi là một hành vi áp đặt cái thòng lọng tôn giáo vào cổ những người ngây thơ vô tội. Chúng tôi kêu gọi sự can thiệp của Luật Pháp Quốc Gia để ngăn chận sự vi phạm quyền tự do căn bản (tự do tín ngưỡng) của những con người chưa có khả năng phán đoán và khả năng tự vệ. Luật pháp phải đặc biệt chú ý đến Công Giáo La Mã vì đạo này là một chế độ độc tài ngụy trang tôn giáo (a dictatorship masquering a religion – Joanne Meehl).
Lúc tôi lên 7 tuổi, cha tôi bắt học thuộc lòng phần lớn cuốn Toàn Niên Kinh Nguyện của địa phận Bùi Chu cùng mấy tập thơ lục bát như "Thập Điều Tứ Chung" của Giám mục Hồ Ngọc Cẩn và "Hiếu tự ca" của Cụ Sáu Trần Lục. Tất cả để chuẩn bị tâm tư cho tôi chịu các phép bí tích xưng tội và rước lễ lần đầu. Ngày nay bí tích Giải tội được gọi là "Bí tích Hòa giải". Nhưng vào lúc tôi mới 7 tuổi đầu, tôi với Chúa chưa hề có một xích mích nào với nhau tại sao lại bắt tôi phải hòa giải với Chúa? Mấy năm sau tôi được chịu phép bí tích Thêm Sức do Giám mục địa phận ban cho vì cha tôi muốn tôi được tăng cường thêm đức tin vững vàng để sau này về già tới chết đức tin của tôi vẫn vững như đồng không gì lay chuyển nổi! Vào năm 27 tuổi (1964), tôi chẳng may bị bệnh thương hàn trầm trọng gần chết. Khi thấy bác sĩ Bệnh viện Đô Thành chuẩn bị cho đem tôi xuống nhà xác, có lẽ cha tôi lo cho tôi sắp bị quỉ Satan đến bắt nên đã khẩn thiết mời một linh mục đến nhà thương làm phép Xức Dầu Thánh cho tôi. Cả gia đình khóc thương tôi và chuẩn bị sẵn sàng tiễn tôi về Thiên đàng để tôi được xem thấy mặt Đức Chúa Trời Jehovah sáng láng vui vẻ vô cùng, đồng thời linh hồn tôi sẽ được hợp làm một cùng thánh tổ phụ Abraham và vua thành David. Đối với tôi, tất cả những nhân vật này đều là những kẻ bất lương và tôi không hề muốn gặp họ.
Nhưng sau đó tôi may mắn thoát chết và sức khỏe của tôi dần dần hồi phục nhờ bác sĩ tận tình. Chỉ mấy tháng sau tôi được gọi động viên vào trường Thủ Đức và trở thành Sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Năm 1969, cha mẹ tôi thu xếp cho tôi được đẹp duyên cùng cô Tê-rê-xa thuộc ca đoàn nhà thờ Huyện Sĩ. Thế là tôi đã có vợ đạo dòng đúng theo ý muốn của cha mẹ tôi. Vợ tôi nguyên là học sinh Trưng-Vương đã từng đóng vai Trưng Nhị cầm kiếm cưỡi ngựa tại Nhà Hát Lớn Sài Gòn trong lễ tưởng niệm Hai Bà năm 1967. Đạo Công Giáo có cả thảy 7 phép bí tích thì tới nay tính ra tôi đã chịu tới 6 phép, chỉ thiếu một phép bí tích duy nhất còn lại là phép Truyền Chức Thánh mà thôi! Mọi người Công Giáo chỉ có thể chịu 6 phép bí tích là mức tối đa tuyệt đối. Mấy ông tu sĩ từ cấp chóp bu là giáo hoàng,
qua các cấp đại thần như ông hồng y, giám mục, cấp lưng chừng nửa ông nửa thằng là "đức ông", cho nên cấp manager (quản lý) là linh mục cũng chỉ có thể chịu tới 6 phép là cùng. Các vị này một khi đã lỡ chịu phép Truyền Chức Thánh rồi thì phép bí tích Hôn Phối dù đã được "thánh hóa" cũng trở thành một phép bí tích tội lỗi đối với họ!
Sự đời thật lắm chuyện bất ngờ. Biến cố 30 tháng Tư 1975 đã chấm dứt 10 năm quân ngũ của tôi để mở đầu cho gần 10 năm tù trong các trại cải tạo ở Bắc và Nam Việt Nam. Những năm tù đó là cơ hội hoán chuyển tâm hồn tôi từ một tín đồ Công Giáo thành một kẻ vô thần. Ấn tượng hãi hùng nhất đối với bọn tù chúng tôi là những cơn đói dở sống dở chết triền miên. Cao điểm của sự tàn tạ là vào khoảng các năm 1978-1979 tại trại tù Yên Báy. Bọn tù chúng tôi xếp hàng dọc leo lên núi làm rẫy sáng đi tối về như những bóng ma. Những người Tày ở vùng này thường gọi chúng tôi là "bọn đầu lâu chân tay". Một hôm bọn tôi tình cớ gặp mấy cô gái Tày lên rừng kiếm củi, một người bạn tù chỉ tay vào tôi và nói đùa với mấy cô gái: "Có cô nào muốn lấy thằng này không để tôi gả cho!". Một cô gái vui vẻ trả lời: "Lấy về để nấu cao à?". Thiên Chúa thân thương của tôi bấy lâu đã bỏ tôi và chỉ để lại trong tôi một sự trống vắng hoang tàn tuyệt vọng. Suốt bao nhiêu những ngày tháng ấy tôi không hề đọc kinh cầu xin Chúa ngự trong linh hồn mà chỉ cầu những hạt cơm, hạt ngô, củ khoai hay vài miếng sắn lát ngự trong bao tử lép xẹp khốn khổ của mình! Những thứ vốn tầm thường ấy đã trở thành thiên đàng hiện thực và giá trị nhất của tôi.
Nhưng sau khi ra tù về nhà, tôi lại chìm đắm trong một thế giới tâm linh mới. Người em trai của tôi đã thu thập từ lâu khoảng trên hai chục cuốn sách của Hội Thông-Thiên-Học và trao trọn gói cho tôi đọc. Tôi đã say mê đọc những sách này trong khoảng thời gian từ 1985 đến 1989. Điều làm tôi ngạc nhiên với chính mình là cuối cùng tôi đã không theo Thông Thiên Học vì tôi không thể chấp nhận những điều huyền họăc của Tổng giám mục Anh Giáo Leadbeater là một trong những sáng lập Thông-Thiên-Học. Nhưng chính nhờ Thông-Thiên-học, tôi đã tìm lại được niềm tin mãnh liệt nơi Thượng Đế và đồng thời tôi hết lòng tâm phục Đức Thích Ca. Từ đó Thiên-Nhãn Thượng-Đế ngự trên đầu tôi và Đức Thích Ca ngự trong tim tôi. Trước đó tôi chưa bao giờ vào chùa lạy Phật, không hề thuộc một kinh Phật nào và không hề quen biết một tu sĩ nào của đạo Phật nhưng tôi không cảm thấy xa lạ với Đức Phật. Trái lại, tôi cảm thấy hình như Ngài đã ở sẵn trong tim tôi từ thuở nào! Cả đời tôi chưa bao giờ đến Tây Ninh, chưa bao giờ đọc sách và cũng chưa bao giờ bước chân vào một thánh thất Cao Đài. Nhưng tôi có cảm tưởng niềm tin của tôi rất gần gũi với đạo Cao Đài. Tôi thật sự không hiểu tại sao và không thể giải thích.
Tôi xin nhấn mạnh là tôi chỉ thuật lại trung thực những gì đã xảy đến cho tôi, có sao nói vậy, tôi không hề có ý thuyết phục bất cứ ai về những điều tôi tin. Tôi tuyệt đối không đặt vấn đề tranh luận có hay không có Thương Đế. Tôi cũng không đặt vấn đề chúng ta nên hiểu thế nào về Đức Phật A-Di-Đà. Các vấn đề này hoàn toàn vượt quá sự hiểu biết của tôi và hoàn toàn tùy thuộc vào sự cảm nhận riêng của mỗi người chúng ta.
Từ năm 1989 đến nay, tôi luôn luôn thành khẩn niệm Phật "Nam Mô A-Di-Đà Phật" theo ý nghĩa Thông Thiên Học và tôi đã tìm được niềm an vui trong đời sống tinh thần. Theo Thông Thiên Học thì Đức Thích-Ca Mâu-Ni chỉ dạy chúng ta niệm "Nam Mô Thích-Ca Mâu-Ni Phật". Thông Thiên Học giải thích nguyên ngữ chữ Phạn: "Nam Mô’ là Vinh Danh, Sáng Danh..., "Phật" là Giác Giả tức Tâm linh Giác ngộ, Trí tuệ thông minh hiểu biết vô lượng. "A-Di-Đà" là Vô Lượng Quang và Vô Lượng Thọ, thiêng liêng vô cùng, vô thủy vô chung. Tất cả mọi người chúng ta đều có Phật tính. Nếu chúng ta ra sức tu tâm thiện hành hướng thượng thì mọi người đều thành Phật cả. Cho nên Đức Thích Ca đã xác nhận rằng Ngài là "Phật đã thành" và mọi chúng sinh đều là những vị "Phật sẽ thành". Mọi chúng sinh đều bình đẳng, chỉ khác nhau ở trình độ tiến hóa về tâm linh mà thôi.
càng giải thích lời dạy của các giáo chủ một cách phức tạp cao siêu bao nhiêu thì càng làm cho người nghe thêm rối trí và hiểu sai rồi đi lạc lung tung chẳng còn biết đâu mà mò. Cứ theo lời dạy hết sức đơn giản của Đức Phật là hãy khởi đầu với lòng từ bi thật sự, sau đó ta sẽ có tất cả mọi thứ. Ngắn gọn chỉ có vậy thôi, cãi nhau dông dài vô ích! TỪ là lòng ao ước làm cho người khác được an vui, không muốn ai bị ngược đã bất công tàn nhẫn, thấy ai bị đau khổ thì động lòng trắc ẩn xót xa. Lòng yêu người cũng chính là lòng yêu sự công bằng vậy. BI là tình thương rải ra khắp chúng sinh. Phật dạy: Từ Bi là nước tưới cây bồ đề làm cho cây nở ra hoa trái trí huệ. Trí huệ là sự hiểu biết mà ngôn ngữ loài người không thể diễn tả được. Hãy theo con đường Phật dạy khởi đi từ BI sẽ có TRÍ. Sau khi đã có đủ BI và TRÍ rồi thì tự nhiên sẽ có DŨNG, nghĩa là ta sẽ trở thành can đảm phi thường (vô úy). Sự can đảm phát sinh từ lòng thương người sẽ đến với ta một cách tự nhiên mà không cần phải tập luyện gì hết.
Những điều trên đây xin hãy coi như công thức thứ nhất. Công thức thứ hai là Chân Thiện Mỹ. Nghĩa là hãy thiết tha yêu mến sự thật. Hãy vững tin rằng dù cho sự thật bị đàn áp chà đạp tới đâu, cuối cùng Sự Thật cũng ngóc đầu dậy và chiến thắng vinh quang. Đó là luật của Thiên nhiên mà không có một sức mạnh tội ác nào có thể cưỡng lại được. Sự thật là Chân Lý và Chân Lý cao hơn mọi tôn giáo. Nói cách khác, không một tôn giáo nào cao hơn Sự Thật. Lòng thiết tha yêu mến sự thật là cội nguồn của sự Thánh Thiện. Vì vậy phải có Lòng Chân Thật trước hết rồi sau mới có thể có cái tâm thiện lành được. Rõ ràng phải có CHÂN mới có THIỆN và cuối cùng tự nhiên ai cũng thấy đó là sự tốt đẹp vô cùng (MỸ). Hai công thức đó của Đức Thích Ca quyện chặt vào nhau thành một. Nói cách khác, ta chỉ cần trau dồi lòng từ bi và tha thiết yêu sự thật là ta sẽ có nguồn sáng tâm linh và lòng can đảm để giải quyết tất cả mọi sự trên đời này. Đó chính là Đạo Làm Người (hoặc Đạo Nhân) đã có sẵn trong tâm thức của truyền thống văn hóa Việt Nam. Tâm thức của tổ tiên Việt Nam chúng ta từ ngàn xưa đã đạt tới tuyệt đỉnh của sự thánh thiện là lòng từ bi vô-vị-lợi, đúng như tự điển Anh Ngữ đã định nghĩa: "SAINT; ABSOLUTLY UNSELFISH". Loại thánh nhân được hiểu theo nghĩa này không cần được Vatican tấn phong và cũng không nên để cho Vatican tấn phong họ vì Vatican không đủ trình độ để vương tới loại thánh này. Vả lại, từ xưa đến nay, Vatican chỉ phong thánh cho những kẻ đã chết từ lâu nên Công Giáo La Mã chỉ có "những thánh của sự chết" chứ không bao giờ có "thánh của sự sống". Công Giáo cũng không có "thánh sống" nhưng lại có quá nhiều "quỉ sống". Các thánh của Vatican cần phải được tra xét lại, nhất là loại thánh được gọi là tử đạo Việt Nam. Đại đa số các "thánh tử đạo" đều là những tên Việt gian, chỉ vì ngu ngốc nên đã làm tay sai cho giặc và chết uổng mạng cho tà đạo khốn nạn nhất trong lịch sử loài người.
Tổ tiên từ ngàn năm xưa đã truyền dạy chúng ta chân lý quý báu về sự thánh thiện bằng những câu tục ngữ đơn sơ: "Thương người như thể thương thân" và dù cho khác nhau về chủng tộc hay văn hóa cũng vẫn thương như thường: "Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một dàn". Đó chính là sự thánh thiện không cần tôn giáo của tổ tiên Việt Nam chúng ta. Cái thói "Bụt chùa nhà không thiêng" đã làm cho chúng ta coi thường những lời dạy "bình dân" đó của tổ tiên nên chúng ta đã đánh mất cái kho tàng văn hóa nhân bản mà ngày nay những tim óc vĩ đại của Tây Phương đã nhận ra nó trong Chủ Nghĩa Nhân đạo Thế Tục (Secular Humanism) của họ. Hiến Pháp Hoa Kỳ đã và đang theo đuổi mục tiêu thực hiện chủ nghĩa nhân bản thế tục này. Một trong những tư tưởng tiến bộ của chủ nghĩa nhân đạo thế tục có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đối với Hiến pháp Hoa Kỳ là tác phẩm "Common Sense" của Thomas Paine, bestselling book năm 1776. Chủ nghĩa Nhân Đạo Thế Tục được khẳng định lại trong Tu Chính Án I năm 1791 và Tu Chính Án XIV năm 1870. Tối cao PhápViện Hoa Kỳ cũng đã có mấy dịp khẳng định tinh thần Hiến Pháp là: Chính phủ tôn trọng các nhân quyền và dân quyền nhưng phải có mục tiêu thế tục hoặc vô-tôn-giáo. (Government policy must have a secular or non-religious purpose – American Government, Politics and Political Culture by William Lyons. West Pub. Co. 1995, p. 110). Đỉnh cao trí tuệ và tâm linh Tây Phương đã gặp gỡ tinh-thần nhân-bản vô-tôn-giáo của văn hóa bình dân cổ đại Việt Nam. Nền văn hóa tổng hợp Đông Tây mang trọn nhân tính này sẽ là ngọn hải
đăng dẫn dắt nhân loại đi vào thiên niên kỷ thứ ba. Nền văn hóa này sẽ sản sinh ra những thánh sống phục vụ cho hạnh phúc của nhân loại để mở đầu cho kỷ nguyên của những thánh sống thật. Các thánh đã chết không thể làm những điều ích lợi tích cực cho nhân loại được nữa ngoài các tác dụng của những tấm gương sáng (nếu có) để chúng ta chiêm ngưỡng mà thôi. Dưới ánh sáng dịu dàng của Đức Phật từ bi và với tâm thức thánh thiện của tổ tiên xa xưa còn sót lại, tôi đã rà xét lại niềm tin tôn giáo lâu đời của gia tộc mình. Nhận thức đầu tiên của tôi là: Chánh Đạo phải là đạo thương người và cứu người. Bất cứ một tôn giáo nào bề ngoài tuy có vẻ văn minh hào nhoáng hoặc đội lốt bác ái giả dối nhưng trong thực tế lại là đạo giết người nhiều nhất thì cái đạo đó phải là tà đạo chứ không thể khác được!
Núp sau hình ảnh nhân ái của ít người nổi tiếng như Mother Theresa là cả một dãy núi tội ác sát nhân của giáo hội Công Giáo trong 17 thế kỷ qua. Từ khi bạo chúa La Mã Constantine lập đạo Công Giáo năm 325 tại Nicaea đến nay, Công Giáo đã giết hại trên hai trăm triệu người nên Công Giáo không thể tồn tại như một tôn giáo trên thế giới. Nó phải được coi là một tổ chức tội phạm vô tiền khoáng hậu và phải bị đào thải khỏi nền văn minh nhân bản của loài người. Với lương tâm và lương tri bình thường,
Từ khóa » Cái Thòng Lọng
-
Cái Thòng Lọng - Báo Công An Nhân Dân điện Tử
-
'thòng Lọng' Là Gì?, Từ điển Tiếng Việt
-
Thòng Lọng - Wiktionary Tiếng Việt
-
Những Cái Thòng Lọng Và Sự Giải Thoát Tàn Nhẫn - Báo Mới
-
Thòng Lọng Cột Dây điện Luồn ống Combo 5 Cái | Shopee Việt Nam
-
Cái Thòng Lọng Ngày... - Truyện Ma - Truyện Kinh Dị | Facebook
-
Cái Thòng Lọng Bằng Tiếng Anh - Glosbe
-
Https:///p?name=News&f...
-
Thòng Lọng Cột Dây điện Luồn ống Combo 5 Cái
-
CÁI THÒNG LỌNG Tiếng Anh Là Gì - Trong Tiếng Anh Dịch
-
Cách để Thắt Nút Thòng Lọng: 8 Bước (kèm Ảnh) – WikiHow