Cảm Nhận Bài Thơ Bếp Lửa ❤️️ 18 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Cảm Nhận Bài Thơ Bếp Lửa ❤️️37+ Bài Văn Mẫu Hay Nhất ✅ Đón Đọc Tuyển Tập Bài Viết Nghị Luận Văn Học Ngắn Gọn Và Đầy Đủ Tác Phẩm Thơ Bằng Việt.

NỘI DUNG BÀI VIẾT

Toggle
  • Dàn Ý Cảm Nhận Bếp Lửa
  • Sơ Đồ Tư Duy Cảm Nhận Bài Thơ Bếp Lửa Lớp 9
  • Mở Bài Cảm Nhận Bài Thơ Bếp Lửa
  • Kết Bài Cảm Nhận Bài Thơ Bếp Lửa
  • Viết Đoạn Văn Cảm Nhận Bếp Lửa Ngắn Gọn
  • Cảm Nghĩ Bài Bếp Lửa Bằng Việt – Mẫu 1
  • Cảm Nhận Bài Thơ Bếp Lửa Hay Nhất – Mẫu 2
  • Cảm Nhận Bài Thơ Bếp Lửa Ngắn Gọn Nhất – Mẫu 3
  • Cảm Nhận Bài Thơ Bếp Lửa Siêu Ngắn – Mẫu 4
  • Cảm Nhận Bếp Lửa Nâng Cao – Mẫu 5
  • Cảm Nhận Bài Thơ Bếp Lửa Học Sinh Giỏi – Mẫu 6
  • Cảm Nhận Bài Thơ Bếp Lửa Facebook – Mẫu 7
  • Cảm Nhận Bếp Lửa Và Ánh Trăng – Mẫu 8
  • Cảm Nhận Khổ 1 Bài Thơ Bếp Lửa – Mẫu 9
  • Cảm Nhận Khổ 2 Bài Thơ Bếp Lửa – Mẫu 10
  • Cảm Nhận 2 Khổ Đầu Bài Thơ Bếp Lửa – Mẫu 11
  • Cảm Nhận Bài Thơ Bếp Lửa Khổ 3 – Mẫu 12
  • Cảm Nhận Khổ 4 Bài Thơ Bếp Lửa – Mẫu 13
  • Cảm Nhận Bài Thơ Bếp Lửa Khổ 5 – Mẫu 14
  • Cảm Nhận Khổ 4 5 Bài Thơ Bếp Lửa – Mẫu 15
  • Cảm Nhận Bài Thơ Bếp Lửa Khổ 6 – Mẫu 16
  • Cảm Nhận Bài Thơ Bếp Lửa 2 Khổ Cuối – Mẫu 17
  • Cảm Nhận Bài Thơ Bếp Lửa Khổ Cuối – Mẫu 18

Dàn Ý Cảm Nhận Bếp Lửa

Lập dàn ý cảm nhận Bếp lửa sẽ giúp các em học sinh nắm được những luận điểm chính để dễ dàng triển khai bài viết. Tham khảo dàn ý cảm nhận bài thơ Bếp lửa chi tiết dưới đây:

I. Mở bài cảm nhận bài thơ Bếp lửa:

  • Giới thiệu về tác giả Bằng Việt: Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong phong trào kháng chiến chống Mỹ. Thơ ông trong trẻo, mượt mà, khai thác những kỉ niệm đẹp và ước mơ tuổi trẻ
  • Giới thiệu nội dung cảm nhận văn học – Bài thơ “Bếp lửa” được sáng tác năm 1963 khi tác giả là du học sinh Liên Xô, chủ đề bài thơ gợi lại những kỉ niệm về người bà và tình bà cháu sâu sắc, thấm thía

II. Thân bài cảm nhận bài thơ Bếp lửa:

a. Những kỉ niệm tuổi thơ và tình bà cháu:

-Dòng hồi tưởng về bà bắt nguồn từ hình ảnh bếp lửa

  • Bếp lửa “chờn vờn sương sớm” – bếp lửa thực
  • Bếp lửa “ấp iu nồng đượm” diễn tả sự dịu dàng, ấm áo, kiên nhẫn của người nhóm lửa
  • Biện pháp điệp từ (điệp từ “bếp lửa”) gợi lên hình ảnh sống động lung linh nhưng hết sức thân thuộc gần gũi với người cháu
  • Hình ảnh bếp lửa làm trỗi dậy dòng kí ức về bà và tuổi thơ

-Kỉ niệm về tuổi thơ nhiều gian khổ, thiếu thốn

  • “Đói mòn đói mỏi” người cháu thấy ám ảnh bởi nạn đói và quá khứ đau thương của dân tộc
  • Ấn tượng về khói bếp hun nhèm mắt cháu để khi nghĩ lại “sống mũi còn cay”
  • Dòng hồi tưởng, kỉ niệm gắn với âm thanh tiếng tu hú của chốn đồng nội: tiếng tu hú được nhắc tới 5 lần trong bài khi thảng thốt, lúc khắc khoải, mơ hồ tất cả để gợi lên không gian mênh mông, bao la, buồn vắng đến lạnh lùng
  • Tâm trạng của cháu vì thế cũng tha thiết, mãnh liệt hơn bởi sự đùm bọc, che chở của bà

-Tuổi thơ khó khăn gian khổ nhưng cháu được mà yêu thương,che chở

  • ”bà dạy”, bà chăm” thể hiện sâu đậm tấm lòng nhân hậu, tình yêu thương vô bờ và sự chăm chút của bà đối với cháu
  • Ngay cả trong gian khó, hiểm nguy của chiến tranh bà vẫn vững vàng – phẩm chất cao quý của những người mẹ Việt Nam anh hùng ( Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh)
  • Qua dòng hồi tưởng về bà, những dòng cảm xúc của nhân vật trữ tình chính là sự kết hợp, đan xen nhuần nhuyễn giữa các yếu tố miêu tả, biểu cảm, tự sự, nỗi nhớ của người cháu thể hiện tình yêu thương vô hạn đối với bà

b. Những suy ngẫm chiêm nghiệm về cuộc đời của bà cũng như hình tượng bếp lửa

-Suy ngẫm về cuộc đời bà:

  • Từ những kỉ niệm, hình ảnh bếp lửa luôn gắn với hình ảnh người bà
  • Hình ảnh bếp lửa kết tinh trong hình ảnh ngọn lửa: ngọn lửa của tình yêu thương, sự hy sinh luôn ủ sẵn trong lòng bà để làm sáng lên hy vọng, ý chí
  • Điệp ngữ “một ngọn lửa” nhấn mạnh tình yêu thương ấm áp bà dành cho cháu, người bà nhen nhóm những điều thiện lương tốt đẹp đối với cháu

-Hình ảnh người bà trong lòng cháu là người thắp lửa, giữ lửa và truyền lửa, truyền niềm tin, sức sống tới thế hệ tương lai

  • Sự tần tảo, hi sinh của bà thể hiện: “ Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa”: sự chiêm nghiệm của cháu về cuộc đời bà
  • Cuộc đời bà đầy những gian truân, vất vả, lận đận trải qua nắng mưa tưởng như không bao giờ dứt
  • Điệp từ “nhóm” lặp lại bốn lần: người bà đã nhóm lên, khơi dậy những yêu thương, ký ức và giá trị sống tốt đẹp trong lòng người cháu
  • Hình ảnh bếp lửa kết tinh thành hình ảnh ngọn lửa chất chứa niềm tin, hy vọng của bà
  • Người cháu như phát hiện ra điều kỳ diệu giữa cuộc sống đời thường “Ôi kì lạ và thiêng liêng- bếp lửa” : người cháu thấm nhuần được tình yêu thương và đức hi sinh của bà

c. Cảm nhận nỗi nhớ khắc khoải, khôn nguôi về người bà trong bài thơ Bếp lửa:

  • Lời tự bạch của đứa cháu khi trưởng thành, xa quê hương: người cháu vẫn cảm thấy ấm áp bởi tình yêu thương vô bờ của bà
  • Kết thúc bài thơ tác giả tự vấn “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?” : niềm tin dai dẳng, nỗi nhớ luôn thường trực trong lòng người cháu

III. Kết bài cảm nhận bài thơ Bếp lửa:

  • Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
  • Nêu cảm nhận của bản thân.

Mời bạn đón đọc 🌜 Dàn Ý Bếp Lửa 🌜 10 Mẫu Nghị Luận Về Bài Thơ Bếp Lửa

Sơ Đồ Tư Duy Cảm Nhận Bài Thơ Bếp Lửa Lớp 9

Tham khảo mẫu sơ đồ tư duy cảm nhận bài thơ Bếp lửa lớp 9 dưới đây giúp các em học sinh hệ thống hoá kiến thức và ghi nhớ hiệu quả.

Sơ Đồ Tư Duy Cảm Nhận Bài Thơ Bếp Lửa Lớp 9
Sơ Đồ Tư Duy Cảm Nhận Bài Thơ Bếp Lửa Lớp 9

Chia sẻ cùng bạn 🌹 Sơ Đồ Tư Duy Bếp Lửa Bằng Việt 🌹 15 Mẫu Vẽ Tóm Tắt Hay

Mở Bài Cảm Nhận Bài Thơ Bếp Lửa

Vận dụng cách mở bài cảm nhận bài thơ Bếp lửa dưới đây sẽ giúp các em học sinh dẫn dắt giới thiệu tác phẩm ấn tượng.

Chiến tranh mang đến cho con người ta sự ám ảnh mỗi khi nghĩ tới. Nó khiến cho bao nhiêu gia đình phải chịu sự chia cắt, bao nhiêu gian khổ gánh nặng lên vai người đi, người ở lại. Có ai đã từng trải qua những năm tháng chiến tranh mới biết trân trọng sự bình yên.

Và Bằng Việt là một người đã có tuổi thơ như vậy, tuổi thơ sống trong chiến tranh phải sống xa bố mẹ, chiến tranh bắt người bà yêu dấu của ông phải một mình gánh vác trọng trách chăm lo cho người cháu. Cũng nhờ đó mà với ông bao nhiêu kỷ niệm gắn với tuổi thơ bên bà đã giúp ông sáng tác thành công bài thơ Bếp lửa. Bài thơ được viết trong khoảng thời gian ông xa nhà, ở một đất nước xa xôi, nơi mà người ta dễ hoài niệm và nhớ về quá khứ.

Kết Bài Cảm Nhận Bài Thơ Bếp Lửa

Tham khảo mẫu kết bài cảm nhận bài thơ Bếp lửa dưới đây để linh hoạt vận dụng cho bài viết của mình.

Qua những dòng hồi ức về tuổi thơ bên bà kết hợp với sự sáng tạo trong bút pháp miêu tả, biểu cảm, Bằng Việt qua bài thơ Bếp lửa đã mang đến cho chúng ta một câu chuyện thật xúc động về tình cảm bà cháu trong chiến tranh.

Đặc biệt, qua bài thơ, tác giả còn gửi gắm những triết lí vô cùng sâu sắc: tình cảm gia đình, những kí ức tuổi thơ chính là ngọn lửa ấm áp nhất có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người trên mỗi chặng đường đời. Trong bài thơ Bếp lửa, tình yêu thương, lòng biết ơn trân trọng người bà của tác giả còn là biểu hiện của tình yêu nước, tấm lòng gắn bó với quê hương.

Gửi đến bạn 🍃 Thuyết Minh Về Bài Thơ Bếp Lửa 🍃 10 Bài Văn Hay Nhất

Viết Đoạn Văn Cảm Nhận Bếp Lửa Ngắn Gọn

Gợi ý viết đoạn văn cảm nhận bài thơ Bếp lửa ngắn gọn dưới đây sẽ giúp các em học sinh nắm được những ý chính khi làm bài.

Chúng ta đã được đọc nhiều áng thơ hay về tình yêu quê hương, tình cảm gia đình. Có người thích vẻ đẹp thiết tha, nồng nàn của Tế Hanh ở bài Quê hương. Có người yêu sự mộng mơ, lãng mạn của tình mẹ con trong bài Mây và Sóng của Ta-go… Riêng tôi, tôi đồng cảm cùng tình bà cháu nồng đượm, đằm thắm trong bài Bếp lửa của Bằng Việt.

Bếp lửa là một bài thơ của nỗi nhớ về một bếp lửa tuổi thơ, nhớ rành rọt, nhớ ngọn ngành. Không dễ gì mà biết nhớ như vậy. Nhà thơ đã thổi bùng lên một bếp lửa ấp iu nồng đượm trong kí ức để hiện lên mối tình bà cháu đẹp như trong truyện cổ tích.

Một bếp lửa chờn vờn sương sớmMột bếp lửa ấp iu nồng đượmCháu thương bà biết mấy nắng mưa,

Trong thơ văn, còn có mối tình bà cháu nào cảm động hơn? Mối tình bà cháu như một dòng sông, dòng sông êm đềm và trong vắt, một dòng sông chở đầy kỉ niệm: một bếp lửa và một làn sương sớm. Tiếng tu hú và giọng kể chuyện của bà.

Rồi những ngày đói khổ làm nhoà mắt đứa cháu còn bé… Và kỉ niệm này xin để nguyên khối, không dám lược bớt:

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khóiNăm ấy là năm đói mòn đói mỏiBố đi đánh xe khô rạc ngựa gầyChỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháuNghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu, nhà thơ nói thế, chúng ta cũng thấy cay sống mũi. Những kỉ niệm trôi theo một nhạc điệu tâm tình âm ỉ, thầm thì, triền miên như nỗi nhớ. Dòng sông êm đềm và trong vắt vẫn âm thầm chảy. Chúng ta được dạo trên chiếc thuyền thơ với một tay lái khoan thai, chúng ta đang say mê với những kỉ niệm thì thấy biển cả hiện ra trước mắt!

Dòng sông của tình bà cháu đã đổ vào biển cả của tình yêu nước. Biển yên sóng lặng thôi, nhưng cũng bát ngát sâu thẳm.

Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụiHàng xóm bốn bên trở về lầm lụiĐỡ đần bà dựng lại túp lều tranhVẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninhBố ở chiến khu bố còn việc bốMày có viết thư chớ kể này kể nọCứ bảo nhà vẫn được bình yên!Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen…

Mấy câu thơ chẳng có gì là kĩ xảo, chẳng có gì là gọt tỉa, giản dị như lời nói thường thôi: như được nghe chính lời bà thủ thỉ, như có một thứ gió lạ kì lay động tâm hồn ta mãi. Đứa cháu có nghĩa có tình đã biết đã quý điều bà thường cất giấu kín đáo trong rương trong hòm. Và chính ánh sáng của những thứ của quý đó đã từng rọi vào tâm hồn thơ bé của đứa cháu, nhóm dậy, nhóm dậy, nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ. Nhịp thơ trở nên xốn xao như sự sống sinh đôi, như cây non xoè lá, như chim non chớp cánh.

Rồi đứa cháu lớn vụt lên, bay bổng:

Giờ cháu đã đi xa.Có ngọn khói trăm tàuCó lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngảNhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhởSớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?

Những năm tháng sống ở nước ngoài, giữa ngọn khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả, giữa những hoa mĩ, dễ hấp dẫn lòng người, nhưng nhà thơ tỏ ra không bị choáng ngợp. Có thể nói, tình cảm chủ đạo chi phối tâm não tác giả là những hình ảnh thân yêu quen thuộc của quê hương đất nước, đã từ lâu gắn bó với tuổi thơ. Vì thế nhà thơ đã gửi về bà – người bà rất đỗi kính yêu – như lời tâm tình chân thật, thiết tha: sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?

Từ tình bà cháu đẹp như trong truyện cổ tích, bài thơ gợi lên những yêu thương đầu tiên, những suy nghĩ đầu tiên về cuộc đời, về đất nước… Cảm xúc tinh tế, chân thật và đượm buồn của nhà thơ trỗi dậy trong kí ức người đọc những kỉ niệm về cuộc sống gia đình, về truyền thống tình nghĩa của dân tộc. Và đó chính là sức hấp dẫn của bài thơ Bếp lửa.

Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất

Cảm Nghĩ Bài Bếp Lửa Bằng Việt – Mẫu 1

Bài văn mẫu cảm nghĩ bài Bếp lửa Bằng Việt dưới đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh.

Bằng Việt là một trong những nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Với giọng văn tự sự, trữ tình riêng biệt, ông đã có những tập thơ để lại dấu ấn trong lòng người đọc như Hương cây – Bếp lửa, Những gương mặt những khoảng trời, Đất sau mưa… Bài thơ “Bếp lửa”, trích từ tập thơ Hương cây – Bếp lửa, là một trong những sáng tác xuất sắc nhất của nhà thơ khi khắc họa lại những ký ức về người bà ở quê nhà trong những năm tháng tác giả xa quê hương.

Bếp lửa là những kỷ niệm khó phai về hình ảnh người bà trong trí tưởng tượng của nhà thơ, mỗi khi nhắc đến bếp lửa, hình ảnh người bà tần tảo lại ùa về trong ký ức:

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớmMột bếp lửa ấp iu nồng đượmCháu thương bà biết mấy nắng mưa”

Mở đầu bài thơ, hình ảnh “bếp lửa” được điệp lại đến hai lần, nhấn mạnh hình tượng trung tâm của bài thơ, là hình ảnh thân quen, khơi nguồn cảm xúc cho cháu. Từ láy “chờn vờn” tạc hình ngọn lửa, hay chính là kỷ niệm ùa về như ngọn lửa lòng thôi thúc người cháu. Nhớ về hình ảnh bếp lửa là nhớ về bàn tay tỉ mẩn của người bà, chắt chiu, gìn giữ, lo lắng cho đứa cháu ruột rà để rồi tạc vào lòng người đọc một tình cảm thiêng liêng là kết tinh của những hình ảnh ấy:

“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”

Cụm từ biết mấy nắng mưa gợi về thành ngữ “mưa nắng dãi dầu”, nói lên sự khổ cực mà người bà chấp nhận để lo lắng, vun vén cho gia đình. Bài thơ gợi lại cả một thời tuổi nhỏ, nhọc nhằn, thiếu thốn của người cháu bên cạnh người bà, ở đó có cả bóng tối ghê rợn của nạn đói khủng khiếp năm 1945:

“Năm ấy là năm đói mòn đói mỏiBố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy”

Thuở ấy, tuổi thơ của cháu gắn gắn liền với 8 năm kháng chiến chống Pháp đầy tủi cực. Có những khi “Giặc đốt làng cháy tàn, cháy rụi” trong khi mẹ và cha bận công tác xa, đứa cháu ngây thơ chỉ biết sống trong vòng tay cưu mang, đùm bọc của bà. “Bà bảo cháu nghe” từng câu chuyện quê hương, “bà dạy cháu làm” từng công việc trong nhà, “bà chăm cháu học” mỗi đêm trong làng vắng tiếng bom thù. Tất cả những nhỏ nhặt, tủn mủn trong cuộc sống đều đặt lên đôi vai của người bà tần tảo khiến bà phải kiên cường mạnh mẽ hơn bao giờ hết:

“Bố ở chiến khu, bố còn việc bốMày có viết thư chớ kể này kể nọCứ bảo nhà vẫn được bình yên”

Câu nói ấy của bà đã theo tác giả suốt ngần ấy năm mà không thể nào quên được. Đó là câu nói thể hiện sự hy sinh to lớn của những bà mẹ. Hình ảnh bà bao giờ cũng ấm áp yêu thương và tình cảm hai bà cháu bao giờ cũng thắm thiết sâu nặng không dễ gì quên:

“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhenMột ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵnMột ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”

Từ “bếp lửa” được cụ thể ở trên đến hai câu dưới, nhà thơ dùng từ ngọn lửa mà không nhắc lại “bếp lửa”. “Ngọn lửa” ở đây mang một ý nghĩa khái quát rộng lớn, sâu xa hơn: Đó là ngọn lửa của niềm hy vọng, có sức sống bền bỉ của tình bà cháu, tình quê nhà nồng đượm.

Bếp lửa chỉ làm nồng ấm câu thơ nhưng hình ảnh “ngọn lửa” tỏa sáng từng dòng thơ lung linh hình ảnh của bà ấm lòng người đọc. Hình ảnh bà là hình ảnh người nhóm lửa, giữ lửa và đặc biệt còn là người truyền lửa, ngọn lửa thiêng của sự sống niềm tin cho các thế hệ nối tiếp. Tác giả đã nhắc đến những điều ấy với tất cả sự quý trọng và lòng biết ơn đối với bà. Bởi nói đến bà là nói đến những cảnh tượng vất vả, tảo tần:

“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa…Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượmNhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi”.

Cụm từ “ấp iu nồng đượm” được láy lại đến hai lần, nhưng ở đây không còn là hình ảnh “một bếp lửa” mà là hình ảnh “nhóm bếp lửa”. Đằng sau “biết mấy nắng mưa” của cuộc đời “lận đận”, người bà vẫn nhen nhóm thắp lên ngọn lửa, không chỉ là ngọn lửa của thực tại mà còn là ngọn lửa của tình yêu thương, của sự ngọt bùi thơm thảo mang nặng tình cảm gia đình.

Nhà thơ đã 10 lần nhắc đến hình ảnh bếp lửa và bên cạnh đó là người bà. Nhớ đến bà là cháu nhớ đến hình ảnh bếp lửa, nói đến hình ảnh bếp lửa là cháu lại nhớ ngay đến bà, vì hai hình ảnh này gắn bó với nhau suốt những năm dài gian khổ. Bếp lửa gắn với cuộc đời của bà với vẻ đẹp tảo tần, nhẫn nại, hy sinh. Bếp lửa đã thắp sáng niềm hy vọng, của sức sống bền bỉ, của tình ba cháu, tình quê hương. Hình ảnh bếp lửa ở đây vừa có nghĩa thực vừa có ý nghĩa tượng trưng, vừa gần gũi lại rất đỗi tự hào khiến Bằng Việt phải thốt lên:

“Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa”.

Trở về với thực tại, nhà thơ đang ở nơi “đất khách” trên hành trình chinh phục con chữ về phát triển quê hương, chắc chắn sẽ không gặp phải khó khăn của “những năm đói mòn đói mỏi” thế nhưng hình ảnh người bà tần tảo với bếp lửa sớm hôm vẫn luôn hiển hiện bởi đó là quá khứ, là tuổi thơ, là ký ức những tháng ngày khó nhọc cùng tình cảm thiêng liêng bất diệt:

“- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?…”

Câu hỏi tu từ cùng nghệ thuật tu từ im lặng đã kết thúc bài thơ, thế nhưng lại mở ra biết bao cảm xúc trong lòng người đọc về những hoài niệm ân tình tha thiết và sâu nặng về tình cảm bà cháu. Bài thơ đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với miêu tả, tự sự và bình luận, thông qua việc sáng tạo hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh của người bà, làm điểm tựa khơi gợi mọi kỷ niệm, cảm xúc, suy nghĩ về tình bà cháu.

Qua từng câu chữ trong bài thơ, hình ảnh người bà hiện lên lung linh, đẹp đẽ, thật đáng quý trọng và thương yêu trong tấm lòng của tác giả. Hình ảnh ấy gắn với bếp lửa bằng một vẻ đẹp bình dị trong đời sống thường nhật. Bếp lửa gợi lên những kỷ niệm ấm nồng, thắm thiết mà rất đỗi thiêng liêng, trọn đời nâng đỡ và dưỡng nuôi tâm hồn.

Xem nhiều hơn 🌹 Phân Tích Bài Thơ Bếp Lửa 🌹 10 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Cảm Nhận Bài Thơ Bếp Lửa Hay Nhất – Mẫu 2

Đón đọc văn mẫu cảm nhận bài thơ Bếp lửa hay nhất được chọn lọc và chia sẻ trong nội dung dưới đây:

Bằng Việt là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thơ của ông toát lên vẻ đẹp đằm thắm, mượt mà khi viết về những kỉ niệm với gia đình, với lứa tuổi học trò hồn nhiên, mơ mộng. Nổi bật nhất trong các sáng tác của ông là bài thơ Bếp lửa, được sáng tác năm 1963 khi tác giả đang học tập tại Liên Xô.

Nhớ bà và nhớ những kỉ niệm về bà, Bằng Việt đã viết bài thơ này, nó được trích trong tập Hương cây – Bếp lửa cùng với Lưu Quang Vũ. Đọc bài thơ, ta có thể cảm nhận được tình cảm thắm thiết của người cháu dành cho bà cũng như nỗi nhớ bà khôn nguôi của tác giả.

Hình ảnh bà hiện ra trong kí ức của nhà thơ là ở trong căn bếp của bà:

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớmMột bếp lửa ấp iu nồng đượm”

Từ láy “chờn vờn” trong hình ảnh bếp lửa gợi liên tưởng đến trong kí ức của người cháu hình ảnh bà và bếp lửa của bà hiện về chập chờn như khói bếp. Điệp từ “Một bếp lửa” có tác dụng nhấn mạnh cái bếp lửa để nấu cơm, đun nước hằng ngày cũng như là bếp lửa của cuộc đời bà, đã trải qua biết mấy nắng mưa: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”.

Từ chỉ số lượng “một” khắc họa rõ nét hình ảnh bếp lửa của một người bà yêu thương cháu, một mình bà chứ không phải ai khác. Chính trong cái bếp lửa “ấp iu nồng đượm” ấy, người cháu được sống trong tình yêu thương của bà, được bà chở che cả tuổi thơ, cho nên tác giả rất yêu thương người bà của mình.

Nhà thơ gắn liền với một tuổi thơ cơ cực, thiếu thốn trong những năm tháng hai bà cháu sống cùng nhau:

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khóiNăm ấy là năm đói mòn đói mỏiBố đi đánh xe khô rạc ngựa gầyChỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháuNghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”

Tác giả là một trong những đứa trẻ phải trải qua những năm tháng vất vả, cơ cực đến mức đói mòn, đói mỏi của cả dân tộc. Hình ảnh khói bếp của bà được nhắc đến trong suốt khổ thơ cho thấy sự thấm sâu vào tâm hồn đứa trẻ của khói bếp. Chính những năm tháng vất vả, thiếu thốn ấy, nhà thơ mới càng thêm trân trọng tình cảm của bà dành cho mình. Nghĩ về những điều đó, nhà thơ thấy sống mũi cay cay, như rưng rưng xúc động trước một quá khứ gian khổ nhưng thấm đẫm tình yêu thương của bà.

Những kỉ niệm về bà được tác giả kể lại lần lượt ở những câu thơ tiếp theo:

“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửaTu hú kêu trên những cánh đồng xaKhi tu hú kêu bà còn nhớ không bà?Bà thường kể chuyện những ngày ở HuếTiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”

Tám năm là một khoảng thời gian tương đối dài, đủ để hình thành nên tuổi thơ của mỗi con người. Trong tám năm ở cùng với bà đó, nhà thơ đã trải qua biết bao nhiêu kỉ niệm cùng với bà. Hình ảnh tiếng tu hú kêu như giục giã những cây lúa ngoài đồng mau chín, để bà con người nông dân không phải chịu đựng cái đói thêm một ngày nào nữa.

Và khi tu hú kêu cũng là lúc người cháu được nghe bà kể chuyện của bà ngày trước, là những thứ tạo nên kí ức ngày hôm nay của tác giả. Từ “tu hú” được lặp lại đến ba lần với tiếng kêu tha thiết, như đang vang vọng đâu đây trong kí ức của tác giả. Kí ức ấy không hề đầy đủ cả mẹ và cha:

“Mẹ cùng cha công tác bận không vềCháu ở cùng bà, bà bảo cháu ngheBà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”

Dù nhà thơ phải chịu sự thiếu thốn tình cảm của cha mẹ nhưng bù lại vẫn nhận được sự yêu thương vô bờ của bà. Bà đã thay cha mẹ dạy dỗ cháu nên người, bà dạy cho cháu làm những công việc nhà, bà bảo ban cháu cố gắng học tập. Tất cả đều xuất phát từ tấm lòng yêu thương, sự chở che, đùm bọc của bà dành cho cháu. Đến đây, nhà thơ lại bộc lộ cảm xúc thương xót cho sự vất vả, khó nhọc của bà:

“Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọcTu hú ơi chẳng đến ở cùng bàKêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”

Bếp lửa của cuộc đời bà khơi dậy trong tâm hồn người cháu một tình yêu thương bà tha thiết, một sự biết ơn đối với bà. Bếp lửa còn gắn liền với tiếng tu hú. Hình ảnh “tu hú” lại được lặp lại cho thấy nó đã đi sâu vào tiềm thức của nhà thơ, khi nhớ về bà và bếp lửa của bà thì nhà thơ cũng nhớ tới âm thanh của con tu hú. Tiếng tu hú kêu da diết, khắc khoải như khiến cho tác giả nhớ về những kỉ niệm ngày xưa.

Nếu ở trong những dòng thơ đầu, nhà thơ tái hiện lên cho người đọc những hình ảnh và kỉ niệm của tác giả với bà và bếp lửa của bà thì ở những dòng thơ sau, nhà thơ Bằng Việt lại làm hiện lên những kí ức đau thương mà có lẽ cho đến hiện tại, tác giả vẫn khó có thể quên được:

“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụiHàng xóm bốn bên trở về lầm lụiĐỡ đần bà dựng lại túp lều tranhVẫn vững lòng mà dặn cháu đinh ninhBố ở chiến khu, bố còn việc bốMày có viết thư chớ kể này, kể nọCứ bảo nhà vẫn được bình yên!”

Sống nương tựa nhau cùng với bà, nhưng hai bà cháu không hề cô độc, mà họ còn có những người hàng xóm láng giềng tận tâm, rộng lượng giúp đỡ nhau trong lúc gian khó. Vì vậy mà hai bà cháu mới có thể vượt qua, cùng dựng lại căn nhà cũ. Trong khó khăn, bà vẫn không quên dặn cháu đừng cản trở người đang làm nhiệm vụ.

Bà nhắc nhở cháu đừng khiến cho bố phải thêm lo lắng, phiền lòng, không yên tâm mà đánh giặc. Chi tiết này không chỉ cho thấy tình cảm của bà, mà còn thể hiện lên suy nghĩ thấu đáo của người bà đối với công cuộc, sự nghiệp lớn lao của đất nước.

Ba câu thơ tiếp theo vẫn là hình ảnh bếp lửa, nhưng nó trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết:

“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhenMột bếp lửa lòng bà luôn ủ sẵnMột bếp lửa chứa niềm tin dai dẳng”

Bà lại tiếp tục với công việc nhóm bếp lửa hằng ngày, chỉ có điều, ta thấy được sự bất diệt trong bếp lửa của bà. Bếp lửa ấy không bao giờ tắt, vì bà luôn luôn có niềm tin rằng ngày chiến thắng nhất định sẽ đến. Niềm tin của bà không một thứ gì có thể dập tắt được, nó là niềm tin vào tương lai tươi sáng của đất nước.

Khổ thơ tiếp theo cho thấy hình ảnh người bà tận tụy, vất vả càng thấm sâu vào lòng người đọc:

“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưaMấy chục năm rồi, đến tận bây giờBà vẫn giữ thói quen dậy sớmNhóm bếp lửa ấp iu nồng đượmNhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùiNhóm niềm xôi gạo mới sẻ chung vuiNhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”

Cả cuộc đời bà tần tảo nuôi nấng cháu, biết bao nhiêu mưa nắng không màng. Hình ảnh ẩn dụ: nắng, mưa gợi lên bao khó nhọc của cuộc đời bà. Bà dành cả cuộc đời bên bếp lửa, để nhóm lên bao yêu thương đong đầy. Từ những củ khoai, sắn trong những ngày đói khổ đến khi no đầy với nồi xôi thơm ngon.

Bà còn nhóm dậy trong tâm thức của tác giả những kí ức gian khó mà nghĩa tình. Đến đây, nhà thơ phải thốt lên: “Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!” Bếp lửa của bà kì diệu biết bao nhiêu, nó không chỉ là một bếp lửa, một vật dụng thông thường mà còn chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa.

Khổ thơ cuối là lời tự nhắc nhở của tác giả đối với bà:

“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàuCó lửa trăm nhà. Niềm vui trăm ngảNhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở-Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?”

Quá khứ luôn là một bàn đạp để mở ra tương lai. Nhờ có bà và sự chăm sóc, nuôi dạy của bà mà cháu mới có thể được như ngày hôm nay. Vì lẽ đó, dù cháu có đang ở một nơi hiện đại, tiện nghi, đủ đầy, cháu vẫn không bao giờ quên những năm tháng ở cùng bà. Tình cảm yêu thương, trân trọng, biết ơn bà của tác giả khiến cho mỗi chúng ta không khỏi cảm động. Đồng thời, ta hiểu thêm được về tình cảm gia đình trong những năm tháng chiến tranh hào hùng, oanh liệt của dân tộc.

Bài thơ là nỗi nhớ của tác giả về bà và những kỉ niệm cùng bà trong những năm tháng tuổi thơ, nó cũng là lời tự nhắc nhở của tác giả đối với chính mình, rằng không bao giờ được lãng quên đi quá khứ. Nhà thơ Bằng Việt đã rất khéo léo khi lồng ghép hình ảnh bếp lửa với hình ảnh người bà, làm cho người đọc bị cuốn vào dòng kí ức của tác giả tự lúc nào không hay, để rồi nhận ra bao ý nghĩa, bao điều tốt đẹp từ bài thơ.

Có thể bạn sẽ thích 🌼 Mở Bài Bếp Lửa 🌼 20 Đoạn Văn Mẫu Ngắn Gọn Hay Nhất

Cảm Nhận Bài Thơ Bếp Lửa Ngắn Gọn Nhất – Mẫu 3

Tham khảo văn cảm nhận bài thơ Bếp lửa ngắn gọn nhất dưới đây với những ý văn súc tích, cô đọng nội dung.

Có những câu ca, bài thơ chỉ chạm nhẹ vào trái tim người đọc nhưng khiến họ nhớ mãi. Đọc thơ Bằng Việt chắc hẳn người đọc sẽ nhận ra được sự lan truyền kì diệu của câu chữ. Bài thơ “Bếp lửa” được sáng tác trong những năm tháng kháng chiến với tình bà cháu gắn bó, ấm áp cùng những gian khổ nhọc nhằn ấu thơ. Bằng Việt đã thổi hồn vào “bếp lửa”, vào thời gian một đoạn hồi ức đẹp đẽ nhất.

Bài thơ “Bếp lửa” như tiếng lòng của người cháu dành cho bà suốt những năm tháng ấu thơ vất vả, bộn bề lo âu. Hình ảnh “bếp lửa” gần gũi, bình dị trong mỗi gia đình Việt Nam thời xưa nhưng dường như có sức ám ảnh và lay động tác giả. Vì bếp lửa gắn với bà, gắn với kỉ niệm ấu thơ không thể phai nhòa.

Một bếp lửa chờn vờn sương sớmMột bếp lửa ấp iu nồng đượmCháu thương bà biết mấy nắng mưaÔi kỳ lạ và thiêng liêng bếp lửa

Điệp từ “một bếp lửa” có sức chứa đựng tình cảm và cảm xúc rất lớn và chân thành, thôi thúc tác giả luôn có một nỗi nhớ thường trực ở trong đó. Hình ảnh bếp lửa “chờn vờn” và “ấp iu” diễn tả sự gắn bó, không thể tách rời. Một loạt những ký ức về bà, về kí ức ngày xưa cứ thế dội về mạnh mẽ, khiến tác giả phải thốt lên “ôi”. Một từ “ôi” mang nặng ân tình, thiêng liêng, nồng đượm biết bao nhiêu. Hẳn rằng Bằng Việt đã có những năm tháng đáng nhớ, đáng trân trọng bên cạnh bà. Kí ức cứ thế ùa về:

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khóiNăm ấy là năm đói mòn đói mỏiBố đi đánh xe khô rạc ngựa gầyChỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháuNghĩ lại bây giờ sống mũi còn cay

Một tuổi thơ nhọc nhằn, vất vả bên cạnh bà. Một cậu bé bốn tuổi đã quá thân thuộc với mùi khói ở bếp lửa. Đất nước rơi vào ách thống trị thực dân, tình cảnh nạn đói thê thảm là điều không tránh khỏi. Khói bếp tuổi thơ đã “hun” đầy trong khóe mắt, hun cả một vùng trời tuổi thơ nhọc nhằn. Chữ “cay” ở cuối câu thơ như lắng lại, gieo vào lòng người nỗi buồn man mác. Là sống mũi “cay” hay là tuổi thơ cay cực, là thương bà, thương bố mẹ hay thương bếp lửa tần tảo sớm hôm.

Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửaTu hú kêu trên những cánh đồng xaKhi tu hú kêu bà còn nhớ không bàBà hay kể chuyện những ngày ở HuếTiếng tu hú sao mà tha thiết thế

“Tám năm ròng” là thời gian dài đằng đẵng, thời gian tuổi thơ của cháu nhọc nhằn bên cạnh bà. Bà và cháu cùng nhóm lửa, nhóm lên sự sống và nhóm lên tình yêu thương vô bờ bến. Tiếng “tu hú” trở đi trở lại trong đoạn thơ rất nhiều khiến cho nhịp thơ da diết, bồn chồn. Tu hú gọi hè, tu hú gọi lúa chín, gọi cả những giấc mơ của cháu về tương lai đất nước hòa bình độc lập.

Mẹ cùng cha công tác bận không vềCháu ở cùng bà bà bảo cháu ngheBà dạy cháu làm bà chăm cháu họcNhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọcTu hú ơi chẳng đến ở cùng bàKêu chi hoài trên những cánh đồng xa

Một khổ thơ cảm động. Một khổ thơ cảm xúc được bật ra sau bao nhiêu năm kìm nén ở trong. Năm tháng sống bên cạnh bà tuy khó nhọc nhưng tràn đầy ân tình. Cậu bé nhỏ thương bà khó nhọc bên bếp lửa, thương cho bà một mình nuôi cháu. Và tiếng kêu của tu hú lại khiến cho tâm sự của người cháu trở nên nặng nề hơn.

Tình bà cháu trong đoạn thơ này thực sự khiến người đọc chùng lại, rưng rưng nước mắt. Đất nước chìm trong bom đạn nhưng bà vẫn luôn chở che, chăm lo cho cháu từ bữa ăn đến giấc ngủ. Còn tình cảm nào thiêng liêng và cao cả hơn nữa.

Nhưng chiến tranh đã cướp đi bao nhiêu thứ, máu và nước mắt, cả tình yêu:

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụiĐỡ đần bà dựng lại túp lều tranhVẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninhBố ở chiến khu bố còn việc bốMày có viết thư chớ kể này kể nọCứ bảo nhà vẫn được bình yên

Đức hi sinh cao cả của người mẹ dành cho con, của người bà dành cho cháu. Dù gian khổ, dù mất mát nhưng hậu phương luôn phải là chỗ dựa vững chắc và bình yên nhất cho tiền tuyến. Hình ảnh người bà trong đoạn thơ này đầy đức hi sinh cho gia đình, cho tổ quốc. Lời dặn dò của bà đối với cháu nặng tựa nghìn non, chất chứa nghĩa tình sâu đậm. Bà yêu thương cháu, thương con, thương cho đất nước lầm than.

Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵnMột ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳngNhóm yêu thương khoai sắn ngọt bùiNhóm nồi xôi gạo sẻ chung đôi

Từ “bếp lửa” tác giả đã chuyển thành “ngọn” lửa như nâng tầm cao hơn của tình yêu và sự hi sinh của người bà. Bà vẫn luôn nhen nhóm yêu thương, một tình yêu chung và riêng bao la, bất diệt.

Khổ thơ cuối cùng là thời điểm trở về thực tại của tác giả, giống như là một chuyến đi trở về tuổi thơ. Giọng thơ chùng xuống, cảm xúc nghẹn ngào:

Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàuCó lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngảNhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhởSớm mai này bà nhóm bếp lên chưa

Đứa cháu nhỏ của bà giờ đã trưởng thành, đến một đất nước xa xôi cách bà nửa vòng trái đất nhưng những ký ức tuổi thơ đó luôn là điều thiêng liêng mà cháu luôn trân quý. Nhắc nhở bản thân không được phép quên đi. Nhắc nhở ký ức luôn sống mãi, không quên.

Bài thơ “Bếp lửa” với câu từ giản dị, cách viết nhẹ nhàng nhưng dường như khiến người đọc thấy cay cay ở khóe mắt. Một bài thơ tràn đầy tình yêu, tràn đầy hạnh phúc giữa đắng cay cuộc đời.

Mời bạn tham khảo 🌠 Kết Bài Bếp Lửa 🌠 20 Đoạn Văn Mẫu Ngắn Gọn Hay Nhất

Cảm Nhận Bài Thơ Bếp Lửa Siêu Ngắn – Mẫu 4

Văn mẫu cảm nhận bài thơ Bếp lửa siêu ngắn dưới đây sẽ giúp các em học sinh nhanh chóng ôn tập và chuẩn bị cho bài viết trên lớp.

Mỗi chúng ta ai mà chẳng có quê hương, ai mà chẳng có một thời đong đầy kỉ niệm để nhớ, để thương, để là động lực không ngừng phấn đấu. Nhà thơ Bằng Việt trong những năm tháng học tập xa nhà vẫn da diết nhớ quê hương, với khói bếp lửa cay nồng hun nhoè mắt, cùng người bà tần tảo sớm hôm nuôi dạy cháu. Tất cả những kí ức đẹp đẽ của tuổi thơ đó đã được tác giả dồn nén trong từng câu chữ qua bài thơ Bếp lửa.

Bếp lửa là bài thơ được in trong tập thơ Hương cây, bếp lửa, in chung cùng nhà thơ Lưu Quang Vũ. Có thể nói Bếp lửa là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Bằng Việt. Ông sáng tác bài thơ này vào năm 1963, khi đang học tập tại Liên Xô.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh ngọn lửa bập bùng cháy, ngọn lửa thực mà cũng chất chứa biết bao ý nghĩa:

Một bếp lửa chờn vờn sương sớmMột bếp lửa ấp iu nồng đượmCháu thương bà biết mấy nắng mưa

Một khung cảnh đơn sơ mà hết sức thân thuộc hiện lên trước mắt người đọc. Ngọn lửa cháy bập bùng kia gợi nhắc biết bao nhớ thương, lòng biết ơn của người cháu xa xứ đối với bà. Hai từ “ấp iu” gợi lên hình ảnh đôi bàn tay tảo tần của bà ngày ngày nhen nhóm ngọn lửa, thức khuya dậy sớm chăm cho cháu từng miếng ăn giấc ngủ. Và để từ đó trong cháu vỡ òa cảm xúc thương yêu bà vô tận:

“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa” .

Để rồi sau đó, biết bao kỉ niệm ùa về trong lòng nhà thơ, đó là những kỉ niệm mà tác giả chẳng thể quên. Về một nạn đói khủng khiếp đã cướp đi sinh mạng biết bao người dân Việt Nam:

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khóiNăm ấy là năm đói mòn đói mỏiBố đi đánh xe khô rạc ngựa gầyChỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháuNghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay

Khi mà hàng loạt người chết đói, thì bà vẫn kiên cường, tần tảo sớm hôm, cho cháu củ khoai, mót từng củ sắn, dành trọn miếng ăn cho đứa cháu vượt qua cơn đói cồn cào. Nỗi ám ảnh đó vẫn lần sâu trong tâm chí tác giả, cái đói ghê rợn ấy, mà giờ chỉ cần nghĩ lại sống mũi cháu đã cay.

Cái cay ấy không chỉ là mùi khói, mà cái cay ấy còn là những giọt nước mắt thương xót cho những nỗi cơ cực, vất vả mà bà phải trải qua, là giọt nước mắt tri ân với tấm lòng bà dành cho cháu. Chỉ cần có bà thì mọi giông bão ngoài kia bà cũng chở che để vượt qua, bảo vệ cho cháu.

Tám năm xa cha mẹ, Bằng Việt sống cùng bà, cũng là tám năm bà bên cháu bảo ban, nuôi dạy cháu nên người:

“Mẹ cùng cha công tác bận không về,Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu họcNhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”

Câu thơ mà thực như là lời kể lời giãi bày của tác giả, nhưng cũng chỉ cần có vậy thôi đã nói lên tấm lòng, sự tận tụy của bà đối với cháu. Bà đã trở thành người cha, người mẹ dạy cháu khôn lớn, nên người. Cấu trúc “ba-cháu” cho thấy sự gắn bó khăng khít giữa. Nếu không có bà ở bên có lẽ cũng sẽ không có cháu thành công, nên người của thời điểm hiện tại. Tác giả đã dồn hết lòng kính yêu, sự tôn trọng dành cho người bà của mình.

Sang đến khổ thơ tiếp theo, khung cảnh chiến tranh trở nên khủng khiếp hơn, khi giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi, để trơ trọi lại chỉ là những mảnh tro tàn. Nhưng bà không khuỵu ngã, mà vẫn vô cùng kiên cường, dưới sự giúp đỡ của hàng xóm dựng lại túp lều tranh cho hai bà cháu có chỗ trú mưa trú nắng.

Không chỉ vậy, sợ các con công tác ngoài chiến tuyến lo lắng, bà còn dặn trước Bằng Việt: “Bố ở chiến khu bố còn việc bố/ Mày có viết thư chớ kể này kể nọ/ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên” . Những lời dặn dò ấy đã nói lên hết tấm lòng hi sinh cao cả của bà mẹ Việt Nam anh hùng.

Không chỉ chăm lo, bảo ban cháu, bà còn nhóm lên trong cháu những tình cảm thiêng liêng đẹp đẽ:

“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”

Khổ thơ với điệp từ nhóm vang lên bốn lần, đã tạo nên một khung cảnh thiêng liêng, ấm cúng và đầy tình yêu thương. Bếp lửa ấy dạy cháu biết chia sẻ, yêu thương những người xung quanh, bếp lửa ấy giúp cháu sống có mơ ước, khát vọng, vun đắp mơ ước cho cháu. Cũng bởi vậy, mà Bằng Việt phải tốt lên : “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa” . để khẳng định ý nghĩa vai trò của bếp lửa, hay chính của bà đối với cuộc đời mình.

Để rồi ngọn lửa của hơi ấm tình thương theo cháu đi muôn ngả, giúp cháu vươn đến thành công trong bước đường tương lai. Dù đã đi xa, đến những nơi đẹp đẽ, cuộc sống sung túc nhưng cháu vẫn không bao giờ quên hình ảnh bà, và vẫn tự nhắc nhở bản thân:

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:-Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?

Câu hỏi kết lại bài thơ như một lời nhắc nhở khắc khoải, khiến người đọc lưu giữ lại ấn tượng sâu đậm.

Bằng ngôn từ mộc mạc, giản dị và tràn đầy cảm xúc Bằng Việt đã bày tỏ tấm lòng biết ơn sâu sắc đối với bà. Đồng thời với bài thơ này cũng gửi gắm thông điệp về ý nghĩa tầm quan trọng của gia đình đối với mỗi người. Chúng ta phải nâng niu, trân trọng tình cảm thiêng liêng, cao quý ấy.

Gợi ý cho bạn 🌳 Phân Tích Khổ 6 Bài Bếp Lửa 🌳 11 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Cảm Nhận Bếp Lửa Nâng Cao – Mẫu 5

Tham khảo bài văn cảm nhận Bếp lửa nâng cao dưới đây để trau dồi cho mình những ý văn hay và đặc sắc khi cảm thụ bài thơ.

Trong những năm tháng chiến tranh, bên cạnh những bài văn, bài thơ cổ vũ tinh thần chiến đấu của dân tộc còn có những lời thơ da diết viết về tình thân, về quê hương mình. Một trong số đó phải kể đến bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt, tác phẩm đã gợi lại cho người thưởng thức những cảm xúc dạt dào về gia đình, về những kí ức thân thương bên bà.

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớmMột bếp lửa ấp iu nồng đượmCháu thương bà biết mấy nắng mưa”

Mở đầu bài thơ là hình ảnh bếp lửa chờn vờn trong sương mai, nó như vừa mới đây cũng vừa như trong kí ức xa xôi mà tác giả chợt nghĩ đến hay khắc khoải trong phút giây chợt nhớ về. Bếp lửa ấy được nhen nhóm từ đôi bàn tay gầy, được nâng niu trọn vẹn nhất, vị nồng đượm của khói bay trên bếp vẫn còn đó, trong miền kí ức của cháu thơ. Và sâu trong hình ảnh ấy chính là bóng dáng của người bà kính yêu, nghĩ về bếp lửa cháu nhớ đến bà, cháu thương những năm tháng bà tần tảo, hy sinh.

“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”

Bao kỉ niệm tuổi thơ bỗng sống dậy trong trái tim đong đầy nỗi nhớ trong cháu.

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khóiNăm ấy là năm đói mòn đói mỏiBố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầyChỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháuNghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”

Cuộc sống khốn khó những năm tháng ấy có lẽ là điều mà cháu không thể nào quên dù lúc ấy vừa lên bốn. Cái đói, cái nhọc nhằn vất vả được thể hiện qua hình ảnh “khô rạc ngựa gầy”, mùi khói trở thành thứ hương vị quen thuộc lúc ấy. Khói hun nhèm lên mắt, vị khói khiến sống mũi cháu cay cay hay chính những khó khăn, đói khổ của năm tháng xưa khiến khi nghĩ về mà lòng nôn nao vừa xúc động, vừa xót xa.

“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửaTu hú kêu trên những cánh đồng xaKhi tu hú kêu bà còn nhớ không bàBà hay kể chuyện những ngày ở HuếTiếng tu hú sao mà tha thiết thế”

Cháu cùng bà trải qua bao năm tháng, cùng bà sống bên cánh đồng quê hương, cùng bà nhen nhóm yêu thương mỗi ngày bên bếp lửa thân thuộc. “Tám năm”- khoảng thời gian đủ dài để cháu khắc cốt ghi tâm những lời bà dạy, những câu chuyện kể của bà về ngày ở Huế, về những kỉ niệm xưa. Tiếng tu hú vang vọng trong bài thơ như gọi quá khứ trở về, khơi dậy những câu chuyện xưa. Những vần thơ lúc này đây chứa chan những yêu thương, thấm đẫm nỗi niềm xúc động:

“Mẹ cùng cha công tác bận không vềCháu ở cùng bà, bà bảo cháu ngheBà dạy cháu làm, bà chăm cháu họcNhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọcTu hú ơi, chẳng đến ở cùng bàKêu chi hoài trên những cánh đồng xa!”

Có lẽ phải xa cha mẹ từ bé, sống bên bà bao năm mà tình cảm của cháu dành cho bà luôn lớn lao như thế. Cháu luôn trân trọng công dạy dỗ của bà, những ngày bà dạy cháu làm, bà ân cần chỉ cháu học. Cả những lần bà dặn cháu viết thư đừng kể ra những khó nhọc nơi quê nhà khiến ba mẹ phải để tâm lo lắng.

Bà vẫn vậy, luôn lắng lo cho con cho cháu, dẫu có vất vả, có nhọc nhằn vẫn chẳng lời kêu than, trách oan. Hình ảnh tú hú vẫn kêu xa trên những cánh đồng, lại chẳng thế đến cùng bà phải chăng chính là hình ảnh của cháu lúc này, nỗi nhớ bà đã diết, tiếng gọi bà vọng về nhưng chẳng thể trở về bên bà, chỉ có thể gửi gắm nỗi nhớ qua từng lời thơ.

“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụiHàng xóm bốn bên trở về lầm lụiĐỡ đần bà dựng lại túp lều tranhVẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:“Bố ở chiến khu bố còn việc bốMày viết thư chớ kể này kể nọCứ bảo nhà vẫn được bình yên!”

Chiến tranh không những khiến bao gia đình phải chia xa mà nó còn tàn phá sự yên bình của bao làng quê, thôn xóm. Hai bà cháu người trẻ nhỏ, người già yếu được hàng xóm giúp đỡ dựng lại túp lều nhỏ, có chỗ che mưa, che nắng. Bao khốn khổ là thế mà bà có bao giờ chịu phó mặc, luôn vững lòng, đinh ninh.

“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhenMột ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn,Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”.

Qua từng dòng thơ, ta càng cảm nhận được hình ảnh người bà kiên cường, chẳng quản ngại hy sinh, vẫn luôn tin yêu vào ngày gia đình sum vầy, ngày đất nước hoà bình, thống nhất.

“Giờ cháu đã đi xa.Có ngọn khói trăm tàuCó lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngảNhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhởSớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”

Những dòng thơ cuối nghe sao xúc động đến lạ thường. Cháu nay đã lớn, trên hành trình cuộc đời cháu phải xa bếp lửa, xa bà, xa quê hương mình. Cháu đến một nơi mới, nơi ấy có tiện nghi, những niềm vui mới, nhưng trong tim cháu vẫn luôn hướng về bà, về quê hương mình. Nơi ấy có làm lũ, có nhọc nhằn, gian nan và có tất thảy sự yêu thương suốt năm tháng tuổi thơ. Chính quê hương, chính tình thân đã nâng đỡ tâm hồn cháu, nâng đỡ cuộc đời cháu trong mỗi bước đường đời.

Bằng lời thơ nhẹ nhàng, tâm tình, hình ảnh giàu giá trị biểu tượng cùng lối viết kết hợp giữa tự sự, trữ tình và biểu cảm, tác giả đã sáng tạo nên một bài thơ đầy xúc cảm. Đọc bài thơ, em mới thêm hiểu cảm giác của những người con xa quê mồng ngóng ngày sum họp, thêm trân trọng những khoảnh khắc lao động, sum vầy bên gia đình mình, thêm yêu quê hương, đất nước, nơi đã nuôi dưỡng tâm hồn mình qua bao khoảnh khắc thời gian.

Tham khảo trọn bộ 🍀 Thuyết Minh Về Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá 🍀 15 Bài Hay

Cảm Nhận Bài Thơ Bếp Lửa Học Sinh Giỏi – Mẫu 6

Đón đọc tài liệu văn cảm nhận bài thơ Bếp lửa học sinh giỏi dưới đây với những nội dung nghị luận văn học chuyên sâu.

Tình yêu thương, lòng biết ơn và ký ức tuổi thơ luôn là hành trang quý giá nâng bước chân ta vào đời. Ai cũng có thể cảm nhận được niềm hạnh phúc trong vòng tay che chở của mẹ, sự ấm áp của tình cha. Nhưng, cuộc sống của chúng ta sẽ trọn vẹn và giàu ý nghĩa hơn nếu tuổi thơ chúng ta có một người bà để yêu quý bà và được bà yêu quý.

Bắt nguồn từ cảm xúc ấy, bài thơ Bếp lửa được sáng tác, khi nhà thơ Bằng Việt còn là sinh viên đang du học tại Liên Xô. Bài thơ là nỗi nhớ nhung về người bà yêu quý với những kỷ niệm trong sáng của tuổi thơ.

Có lẽ vào một buổi sáng tinh mơ se lạnh nơi xứ lạ, người cháu chợt nhìn thấy đâu đó bếp lửa nhà ai hửng lên trong làn sương sớm, hay đây là một hình ảnh thức dậy trong tâm trí nhà thơ:

Một bếp lửa chờn vờn sương sớmMột bếp lửa ấp iu nồng đượm

Hai câu thơ, hình ảnh bếp lửa lặp đi lặp lại 2 lần, giọng thơ thiết tha, sâu lắng! Hình ảnh đó chắc quen thuộc lắm, cháu từng gắn bó với nó lắm, nhưng đã xa, lâu rồi không nhìn thấy nên bây giờ gặp lại mới bâng khuâng, xúc động đến thế !

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

Thì ra bếp lửa gợi lên hình ảnh thân thương. Cuộc đời bà gắn liền với bếp lửa thân quen. Đây là cách nói hoán dụ: Nói đến bếp lửa là liên tưởng đến bà, và ngược lại. Vậy là trong tuổi thơ của cháu, hình ảnh bà hằng ngày cặm cụi nhóm bếp thổi cơm đã khắc sâu trong tâm trí. Hình ảnh bếp lửa còn mang sắc thái ẩn dụ. Từ láy chờn vờn tả thực ngọn lửa nhỏ, run rẩy trong gió sớm, gợi nhớ vóc dáng gầy guộc, mong manh của bà.

Những tính từ ấp iu, nồng đượm khiến người đọc có thể hình dung sắc đỏ nồng nàn của ngọn lửa nhưng không gợi cảm giác thiêu đốt mà đem đến cảm giác dịu dàng, thư thái như sưởi ấm giữa mùa đông. Có phải đó là tấm lòng yêu thương của bà luôn ấp ủ, chắt chiu cho con cháu?

Cụm từ biết mấy nắng mưa đã gợi ra phần nào cuộc đời vất vả lo toan của bà. Chỉ với 3 câu thơ, ta thấy trong nỗi nhớ nhung hiện lên chân dung một người bà bình dị và nhân hậu biết bao!

Nỗi nhớ khơi nguồn cho những dòng hồi tưởng, mở ra một loạt ký ức yêu thương về một thời thơ ấu:

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Bốn tuổi là lứa tuổi còn chưa đi mẫu giáo, nhưng trong trí khôn non nớt mới hình thành, cháu đã có bà trong tâm trí. Mùi khói vừa tả thực vừa mang ý nghĩa ẩn dụ. Đó là mùi khói bếp cay cay, hay đó là hơi hướng thân thuộc của bà?

Chao ôi, tuổi thơ của cháu thật nhiều ý nghĩa vì được sống bên bà, dù tuổi thơ ấy có bóng đen ghê rợn của nạn đói 1945. Nhưng câu thơ đầy ám ảnh:

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏiBố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy

Cụm từ đói mòn đói mỏi không chỉ khắc sâu cảnh gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn mà còn nhấn mạnh sự chịu đựng bền bỉ của con người. Hình dạng chú ngựa khô rạc còm cõi, tội nghiệp, dễ khiến ta hình dung đến vẻ hốc hác, trầm lặng, khắc khổ của người đánh xe. Hình ảnh chú ngựa gầy giơ xương đã nói lên tất cả. Sức ngựa đã mòn, hẳn sinh lực con người cũng rất tệ.

Cháu nhớ hết, nhưng tại sao lại chỉ nhớ khói? :

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháuNghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!

Sức trai tráng của bố dường như cạn kiệt, huống chi bà già yếu, mong manh? Có lẽ bà tiều tụy nhiều lắm, thương lắm, chịu đựng lắm! Tác giả không kể ra những nhọc nhằn, kham khổ. Chỉ biết ký ức ấy không bao giờ phai nhạt, đến nỗi nghĩ lại còn đau xót ngậm ngùi. Có thể hình dung trong gia đình ba thế hệ ấy, bà là người mong manh nhất nhưng mạnh mẽ nhất, quan trọng nhất. Dường như bà không gục ngã, thì con cháu cũng không thể gục ngã. Bà của cháu nhẫn nại, kiên cường biết bao!

Dấu ấn sâu sắc nhất là những năm tháng bố mẹ công tác xa, hai bà cháu âm thầm đùm bọc, cưu mang nhau:

Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửaTu hú kêu trên những cánh đồng xaKhi tu hú kêu bà còn nhớ không bà?

Tiếng chim tu hú từ xa xăm vẳng lại có thể nghe thấy được, chứng tỏ âm thanh đó đã bay qua những không gian mênh mông, vắng lặng. Âm thanh ấy không làm cho cảnh vật vui lên mà càng gợi lên cảm giác vắng vẻ, quạnh hiu. Tác giả như tách khỏi dòng hồi tưởng, như đang trò chuyện cùng bà: Bà còn nhớ không bà? Bởi chỉ có hai bà cháu mới hiểu hết ý nghĩa của âm thanh ấy. Tiếng chim tu hú phải da diết, khắc khoải lắm, nên cháu khó quên và bồi hồi xúc động khi nhớ lại.

Có lẽ khi tiếng chim tu hú từ xa vọng lại, hai bà cháu mới cảm nhận rõ rệt nhất sự thiếu vắng trong ngôi nhà của mình. Đứa trẻ nào không khao khát tiếng nói của cha, hơi ấm của mẹ? Người bà nào chẳng ước mong tuổi già có con cháu quây quần bên cạnh? Vì hoàn cảnh chiến đấu, bố mẹ công tác xa không về, bà nuôi cháu trong trống vắng, quạnh hiu.

Những lúc tiếng chim kêu khắc khoải như vậy, bà thương cháu nên hay kể chuyện để vỗ về cháu và có lẽ để chính mình khuây khỏa. Những năm tháng ấy, bà thực vừa là bà, vừa là mẹ, là cha của cháu:

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu ngheBà dạy cháu làm, bà chăm cháu học

Hàng loạt động từ được liệt kê: bà bảo, bà dạy, bà chăm. Cháu được dạy dỗ, chăm chút trong tình yêu thương của bà. Con đi xa, bao nhiêu yêu thương bà dành hết cho đứa cháu nhỏ. Cháu cũng cảm nhận được tình yêu thương đó và thấu hiểu nỗi vất vả của bà. Trong trai tim ngây thơ, cháu thầm trách chim tu hú sao chẳng đến ở cùng bà cho vui nhà vui cửa, cho bà vợi bớt nhớ mong.

Điệp từ bà, cháu lặp đi lặp lại, góp phần diễn tả cảnh bà cháu quấn quýt không rời. Dù thiếu vắng sự chăm sóc của mẹ cha nhưng tình yêu thương của bà đã bù đắp tất cả. Cháu thật diễm phúc khi có một người bà như thế!

Kỷ niệm về bà không chỉ là những ngày tháng dẫu gian nan nhưng êm đềm vì có bà bên cạnh. Cũng có lúc đau buồn đến tuyệt vọng:

Năm giặc đốt làng cháy tàn, cháy rụi.

Ai đã từng chứng kiến sự tàn phá của chiến tranh, cảnh ngôi nhà thân yêu đổ nát tan hoang, mới cảm nhận được nghị lực phi thường trong lời nói bình thản, giản dị của bà:

“Bố ở chiến khu bố còn việc bốMày có viết thư chớ kể này kể nọCứ bảo nhà vẫn được bình yên!”

Không một giọt nước mắt, bà giấu nỗi đau thương để luyện cho cháu một tình cảm cao hơn. Hình ảnh người bà đã vượt ra khỏi tình cảm bà cháu thông thường, mà vươn đến một tình cảm rộng lớn hơn: Lặng lẽ hi sinh, chia sẻ với chiến trường! Những năm chiến tranh ròng rã ấy, bà âm thầm nhóm lửa, giữ lửa:

Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhenMột ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵnMột ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng.

Bà cùng cháu nhóm lửa, giữ lửa để sống, để chờ đợi ngày chiến thắng, ngày sum họp. Đến đây, bếp lửa cụ thể đã biến thành ngọn lửa trừu tượng. Đó là ngọn lửa trong lòng bà, ngọn lửa của sức sống, của niềm tin! Như ngọn lửa, tấm lòng của bà, đức hi sinh tần tảo của bà đã truyền cho cháu ý chí và nghị lực phi thường.

Mấy chục năm rồi, ngọn lửa ấy vẫn tỏa hơi ấm từ đôi tay chắt chiu, chịu thương chịu khó của bà:

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớmNhóm bếp lửa ấp iu , nồng đượmNhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùiNhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Từ vẫn khẳng định sự bền bỉ sắt son. Bà vẫn thế, trước sau như một, giàu đức hi sinh, lòng thương yêu ấp iu, nồng đượm. Những điểm sáng của khổ thơ này lại là tình cảm chan hòa với cuộc đời, với mọi người. Từ củ khoai, nồi xôi gạo mới bà nấu, bà dạy cháu biết sẻ chia, biết sống yêu thương, có thủy có chung, có tình làng nghĩa xóm. Có lẽ bà cũng không hề hay biết, bà là người đã Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ của đứa cháu cưng! Là điều gì vô cùng thiêng liêng và kỳ diệu trong cuộc đời cháu:

Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!

Điệp từ nhóm lặp đi lặp lại ở đầu mỗi câu thơ, tạo âm điệu mỗi lúc một mạnh hơn, tha thiết hơn. Khẳng định một suy gẫm giản đơn mà sâu sắc: Những gì thân thiết với tuổi thơ đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời! Bà là người truyền lửa, truyền cho cháu tình yêu thương và những phẩm chất tốt đẹp. Có một người bà như thế, đứa cháu nào chẳng ngoan ngoãn, nên người!

Vậy đó, hình ảnh bếp lửa còn mãi tỏa sáng trong tâm hồn đứa cháu xa nhà:

Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàuCó lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngảNhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?

Bằng cách nói hoán dụ, những hình ảnh ngọn khói, con tàu, ngọn lửa, ngôi nhà… kết hợp với điệp từ trăm, diễn tả cảnh xa hoa, hiện đại nơi xứ người. Cháu đã lớn khôn, được đi đây đi đó, tầm mắt được mở rộng, được thấy nhiều thứ, có nhiều niềm vui mới mẻ. Nhưng không lúc nào cháu quên nguồn cội: Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?

Bài thơ sáng tác khi tác giả đang học ở Liên Xô, nơi có nhiều bếp ga, bếp điện. Nhưng người cháu không quên bếp lửa quê nhà. Nhớ đến bếp lửa là nhớ đến bà. Nhớ đến bà là nhớ đến quê hương, nguồn cội. Nhớ quê hương nơi xứ lạ, đó chính là tình yêu Tổ Quốc! Có thể nói, trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt, bà là Tổ Quốc, bà là Quê hương! Tình yêu thương và lòng biết ơn bà chính là biểu hiện sâu sắc của lòng yêu thương , gắn bó với gia đình, quê hương. Cũng là khởi đầu của tình yêu đất nước, con người.

Đón đọc tuyển tập 🌹 Phân Tích Đoàn Thuyền Đánh Cá Huy Cận 🌹 19 Mẫu Hay Nhất

Cảm Nhận Bài Thơ Bếp Lửa Facebook – Mẫu 7

Chia sẻ dưới đây văn mẫu cảm nhận bài thơ Bếp lửa Facebook giúp các em học sinh có thêm cho mình tư liệu tham khảo phong phú hơn.

Bằng Việt bắt đầu làm thơ từ những năm 60 của thế kỉ XX. Ông là nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước.Thơ ông toát lên vẻ đẹp trong sáng mượt mà “như những bức tranh lụa”; rất đằm thắm và sâu sắc khi viết về những kỉ niệm tuổi ấu thơ, tuổi học trò, tình cảm gia đình…

Bài thơ “Bếp lửa” là một trong các bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất cho đặc điểm thơ, phong cách nghệ thuật và sự nghiệp cầm bút của ông. Tác phẩm được sáng tác năm 1963, khi tác giả đang là sinh viên ngành luật bên Liên Xô, là tập thơ đầu tay của Bằng Việt, sau được đưa vào tuyển tập “Hương cây – Bếp lửa” cùng với Lưu Quang vũ. Qua bài thơ người đọc cảm nhận được tình cảm bà cháu bình dị, sâu sắc, cảm động và rất đỗi thiêng liêng, rất đáng trân trọng.

Mạch cảm xúc của bài thơ đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy ngẫm. Điều đó được gợi ra qua hình ảnh bếp lửa quê hương và hình ảnh người bà. Từ đó mà người cháu (chính là Bằng Việt) bộc lộ nỗi nhớ về những kỉ niệm thời ấu thơ và được sống trong sự yêu thương, chăm sóc của bà. Đồng thời thể hiện niềm biết ơn, sự kính trọng của người cháu đối với người bà, đối với gia đình, đối với quê hương, đất nước.

Trước hết là hình ảnh “bếp lửa” – nơi khơi nguồn cảm xúc nỗi nhớ, hồi tưởng về người bà kính yêu. Ở phương xa, người cháu luôn hướng về quê nhà, nơi có gia đình, có người thân yêu, có bà và có cả những kỉ niệm ầu ơ khi còn nhỏ. Và dòng cảm xúc hồi tưởng ấy được bắt đầu từ hình ảnh “bếp lửa” yêu thương:

Một bếp lửa chờn vờn sương sớmMột bếp lửa ấp iu nồng đượmCháu thương bà biết mấy nắng mưa.

Hình ảnh bếp lửa “chờn vờn sương sớm” giàu tính chất tả thực, gợi lên hình ảnh một bếp lửa ẩn hiện bập bùng cháy trong làn sương khói của buổi sớm mai. Những đốm than hồng đỏ rực nồng đượm sự ấp ủ, được nhóm lên bởi bàn tay dịu dàng, cần mẫn, khéo léo và tấm lòng chi chút của người bà. Đồng thời, cái bếp lửa ấy cũng chờn vờn trong tâm trí , trong nỗi nhớ ám ảnh của nhà thơ, ấp ui, trân trọng và giữ gìn.

Từ đó đánh thức dòng hồi tưởng nhớ thương của người cháu về người bà – người nhóm lửa trong mỗi buổi sớm mai: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Cụm từ “biết mấy nắng mưa” gợi tả sự cần cù, chịu khó, vất vả, giàu đức hi sinh của người bà. “Thương” là tình cảm chân thành, xuất phát từ trái tim giàu tình yêu thương, sự sẻ chia vả bao hảm cả sự kính trọng, niềm biết ơn sâu sắc, cùng nỗi nhớ khôn nguôi của người cháu dành cho bà của mình.

Như vậy, với ba câu thơ mở đầu tác phẩm, Bằng Việt đã thể hiện tình cảm nỗi nhớ da diết của mình về bếp lửa quê hương và người bà thân yêu. Có thể coi đây là khúc dạo đầu viết về nỗi nhớ. Từ đó định hướng cảm xúc cho toàn bài. Bài thơ sẽ là lời tâm tư, nỗi nhớ của người cháu về bếp lửa, về người bà và cả những kỉ niệm buồn vui khi còn bên cạnh bà.

Nhắc đến tuổi thơ, có lẽ trong mỗi chúng ta luôn thường trực nghĩ tới những năm tháng hồn nhiên, tinh khôi, trong trẻo khi được sống trong sự đủ đầy cả về vật chất và tình cảm yêu thương của cha mẹ, người thân. Nhưng với những thế hệ như lớp nhà thơ Bằng Việt thì điều đó làm sao có được khi họ phải sống trong những năm tháng bom rơi đạn lạc chiến tranh, sự sống và cái chết chỉ trong gang tấc.

Vì thế, khi nhớ về thời ấu thơ, những kỉ niệm trong kí ức như một thước phim quay chậm lần lượt hiện về trong tâm trí của Bằng Việt với biết bao nhiêu là sự thiệt thòi, gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn. Kỉ niệm đầu tiên ấy là khi lên bốn tuổi:

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khóiNăm ấy là năm đói mòn đói mỏiBố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầyChỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháuNghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!

Thành ngữ “đói mòn đói mỏi” gợi tả cái đói kéo dài làm cho mệt mỏi, rã rời và kiệt sức. Vì thế, cái đói đã khiến cho ngựa cũng trở nên gầy rạc, hình ảnh người bố đánh xe chắc chắn cũng khô héo, tiều tụy, xanh xao…tất cả đã khiến cho người đọc dâng lên một nỗi niềm xót xa khi nhớ tới nạn đói khủng khiếp đến rợn người năm Ất Dậu 1945 năm nào. Khi ấy, cháu ở cùng bà và đã cùng bà nhóm lửa, khói bếp tỏa ra đã làm cho nhèm mắt, “nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”.

Làn khói đã in đậm, in sâu trong tâm trí của người cháu hay đó chính là nỗi cơ cực, vất vả của cái nghèo, cái đói, của chiến tranh loạn lạc trong tuổi ấu thơ của người cháu. Những câu thơ được viết lên bằng những tình cảm chân thực nên chan chứa nước mắt và dày đặc làn khói. Giọng thơ trầm xuống thấm thía một nỗi buồn cơ cực đến xót xa khi dòng hoài niệm tuổi thơ dâng đầy trong lòng thi sĩ khiến “sống mũi còn cay”. Tiếp đến là những dòng hoài niệm về tám năm ròng trong cuộc sống có chiến tranh sống bên bà:

Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửaTu hú kêu trên những cánh đồng xaKhi tu hú kêu bà còn nhớ không bàBà hay kể những ngày ở HuếTiếng tu hú sao mà tha thiết thế!Mẹ cùng cha công tác bận không vềCháu ở cùng bà, bà bảo cháu ngheBà dạy cháu làm, bà chăm cháu họcNhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,Tu hú ơi! chẳng đến ở cùng bàKêu chi hoài trên những cánh đồng xa?

Âm thanh của tiếng chim tu hú quen thuộc ở chốn đồng quê mỗi độ hè về cứ vang vọng, réo rắc cuộn xoáy vào trong lòng của người con xa xứ. Âm thanh của tú hú kêu được tái hiện trong những cung bậc và cảnh huống khác nhau: khi thì từ cánh đồng xa vọng lại (Tu hú kêu trên những cánh đồng xa) gợi lên một không gian rộng lớn, mênh mông và vắng lặng; khi thì lại rộn lên khắc khoải, da diết khiến lòng người trỗi lại những hoài niệm xa xăm

(Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà/ Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế); khi thì lại gióng giả, kêu hoài đến khô khan, lạnh vắng trên những cánh đồng xa xôi, heo hút (Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa)… Tiếng chim tu hú trở thành điệp khúc chủ âm của những dòng hoài niệm hồi tám tuổi, có tác dụng khắc họa không gian sống vắng lặng, heo hút, mênh mông; lại vừa gieo vào lòng người đọc một nỗi buồn trống trải đến da diết, rợn ngợp.

Tuy nhiên, tuổi thơ của người cháu vẫn thấm đẫm tình cảm yêu thương, đùm bọc cưu mang của người bà yêu quí. “Mẹ và cha công tác bận không về” và hai bà cháu nương tựa vào nhau. Bên bếp lửa, bà kể chuyện cho cháu nghe, bà bảo ban, dạy dỗ và chăm cháu học. Các động từ: “bà bảo, bà dạy, bà chăm” đã diễn tả một cách sâu sắc và thấm thía tình yêu thương bao la, chăm chút của người bà dành cho người cháu.

Vì thế , bà trở thành ngọn nguồn ấm áp, vỗ về, nuôi nấng, chở che, giữ gìn tổ ấm gia đình và bà là sự kết hợp thiêng liêng cao quí của tình cha, nghĩa mẹ, công thầy trong những chuyến đi xa bận công tác của bố mẹ. Cho nên, người cháu luôn ghi lòng tạc dạ đức công ơn trời bể ấy của bà: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”. Chỉ một mình chữ “thương” thôi cũng đã đủ gói ghém tất thảy tình yêu thương, sự kính trọng và niềm biết ơn sâu nặng mà người cháu dành cho bà của mình.

Trong những năm đất nước có chiến tranh, những khó khăn, ác liệt, biết bao nhiêu đau thương mất mát vẫn luôn in sâu trong tâm trí của người cháu. Và có một kỉ niệm trong hồi ức mà người cháu chẳng bao giờ quên được dù đã lớn khôn:

Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụiHàng xóm bốn bên trở về lầm lụiĐỡ đần bà dựng lại túp lều tranhVẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”

Nỗi khổ sở, đau đớn khi giặc giã kéo về làng tàn phá, thiêu hủy nhà cửa, xóm làng, bà vẫn âm thầm chịu đựng, tự gắng gượng đứng lên chống đỡ nhờ sự đùm bọc, giúp đỡ của dân làng. Bà không muốn người con ở chiến khu biết được việc ở nhà mà ảnh hưởng đến công việc trong quân ngũ. Đó phải chính là phẩm chất cao quý của những người mẹ Việt Nam anh hùng trong chiến tranh.

Ta đọc ở đây sự hi sinh thầm lặng, cao cả và thiêng liêng của người bà, người mẹ ở hậu phương luôn muốn gánh vác cùng con cháu, cùng đất nước để đánh đuổi giặc giã xâm lăng, đem lại bầu trời tự do cho dân tộc. Lời dặn dò của người bà vẫn được cháu “đinh ninh” nhớ mãi trong lòng, được trích nguyên văn được nhắc lại trực tiếp khi người cháu viết thư cho bố càng cho thấy phẩm chất đáng quý biết bao của người bà.

Vì thế, đến đây ta mới thấy được hết tất cả công lao to lớn của người mẹ Việt Nam đối với cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. Có được thắng lợi ấy không chỉ là sự đóng góp trực tiếp của những người lính trên mặt trận tiền tuyến mà còn có cả sự đóng góp lớn lao của những người phụ nữ ở hậu phương.

Sau những đoạn thơ hồi tưởng về thời ấu thơ được sống cùng bên bà của mình, người cháu tiếp tục suy ngẫm, chiêm nghiệm về cuộc đời của bà qua hình ảnh bếp lửa:

Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhenMột ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵnMột ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…

Từ “bếp lửa” bài thơ đã gợi đến “ngọn lửa” với ý nghĩa trừu tượng và khái quát. Bếp lửa bà nhen lên trong mỗi buổi sớm mai và buổi chiều tà không đơn giản chỉ bằng nguyên liệu của tự nhiên, mà cao hơn đã được tác giả nâng lên thành biểu tượng cho tình yêu thương và niềm tin trong sáng, mãnh liệt. Điệp ngữ “một ngọn lửa” vừa có ý nghĩa nhấn mạnh đến sự sống dai dẳng bất diệt của ngọn lửa; lại vừa có ý nghĩa thể hiện tình yêu thương mà người bà dành cho cháu.

Ngọn lửa chính là hình ảnh khúc xạ cho tâm hồn, cho ý chí, nghị lực sống phi thường của người bà. Vì thế, bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người tiếp lửa, truyền lửa cho người cháu thân yêu. Đó là ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho thế hệ nối tiếp. Từ suy ngẫm về vai trò của người bà trong cuộc sống, tác giả tiếp tục khẳng định phẩm chất cao quí của người bà: tần tảo, giàu đức hi sinh và giàu lòng nhân ái:

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưaMấy chục năm rồi, đến tận bây giờBà vẫn giữ thói quen dậy sớmNhóm bếp lửa ấp iu nồng đượmNhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùiNhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vuiNhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏÔi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!

Cụm từ “biết mấy nắng mưa” gợi lên cuộc đời của người bà vất vả, gian truân, lận đận nhưng vẫn sáng lên những phẩm chất thiêng liêng, cao quí của người phụ nữ Việt Nam. Điệp từ “nhóm” (4 lần) bao gồm rất nhiều nghĩa, nói lên ý nghĩa cao cả của công việc mà bà vẫn làm mỗi sớm sớm, chiều chiều: Bà là người nhóm lửa và cũng là người giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng, tỏa sáng trong mỗi gia đình.

Từ “ấp iu nồng đượm” gợi tả công việc nhóm bếp và ngọn lửa luôn đượm than hồng bởi bàn tay khéo léo, cần mẫn, chi chút của bà. Bà nhóm bếp lửa mỗi sớm mai còn nhóm lên cả niềm yêu thương, sự sẻ chia chung vui và tâm tình tuổi nhỏ của người cháu. Đến đây, hành động nhóm lửa của bà đâu đơn thuần chỉ là hành động nhóm bếp thông thường nữa mà cao hơn nó đã thành hình ảnh ẩn dụ biểu trưng cho ý nghĩa của công việc nhóm lửa của bà.

Qua hành động nhóm lửa, bà muốn truyền lại cho người cháu hơi ấm của tình yêu, sự sẻ chia với mọi người làng xóm xung quanh. Và cũng chính từ hình ảnh bếp lửa, bà đã gợi dậy cả những kí ức tuổi thơ trong lòng của người cháu để cháu luôn nhớ về nó và đó cũng chính là luôn khắc ghi nhớ tới cội nguồn quê hương, đất nước của dân tộc mình.

Từ đó bếp lửa trở nên kì lạ, thiêng liêng “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”. Từ cảm thán “Ôi” kết hợp với nghệ thuật đảo ngữ thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng như phát hiện ra chân lí, điều kì diệu giữ cuộc đời bình dị. Bếp lửa và bà như hóa thân vào làm một, luôn rực cháy, bất tử thiêng liêng.

Khổ cuối bài thơ là lời bộc bạch chân thành của người cháu khi đã lớn khôn, trưởng thành. Dù cho khoảng cách về không gian, thời gian có xa xôi “khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả” nhưng người cháu vẫn luôn khắc khoải trong lòng nỗi nhớ khôn nguôi về bà, về bếp lửa: “Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở/ – Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?…”.

Sự tương phản giữa quá khứ và hiện tại, giữa “khói lửa” của cuộc sống hiện đại với bếp lửa bình dị, đơn sơ của bà đã cho thấy sức sống bất diệt của ngọn lửa mà bà nhóm lên trong mỗi sớm chiều luôn thường trực và sống mãi trong lòng của người cháu. Ngọn lửa ấy đã trở thành kỉ niệm của tuổi thơ về bà – một người truyền lửa, truyền sự sống, tình yêu thương và niềm tin “dai dẳng” bất diệt cho thế hệ tiếp nối.

Chính vì thế nhớ về bà là nhớ về bếp lửa, nhớ về cội nguồn dân tộc. Bài thơ khép lại bằng câu thỏi tu từ thể hiện nỗi nhớ khôn nguôi và niềm hoài vọng xa xăm của người cháu luôn đau đau, thiết tha nhớ tới tuổi thơ, nhớ tới gia đình, nhớ tới quê hương, đất nước.

Bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt là một bài thơ dạt dào cảm xúc. Hình tượng bếp lửa được thể hiện độc đáo qua giọng điệu tâm tình, thiết tha; nhịp điệu thơ linh hoạt; kết hợp với lối trùng điệp được sử dụng biến hóa, khiến cho lời thơ với hình ảnh bếp lửa cứ tràn ra, dâng lên, mỗi lúc thêm nồng nàn, ấm nóng. Từ đó, khiến cho người đọc cảm thấy thật thấm thía, xúc động trước nỗi nhớ nhung da diết về những kỉ niệm ấu thơ của người cháu và cả tấm chân tình của nhà thơ đối với người bà kính yêu.

Qua đó, chúng ta càng cảm thấy yêu, càng cảm thấy trân trọng hơn tình cảm đối với gia đình, với quê hương, đất nước. Từ đó, ta mới thấm thía hết được lời bài hát của nhạc sĩ Trung Quân, thật ý nghĩa biết chừng nào:

Quê hương mỗi người chỉ mộtNhư là chỉ một mẹ thôiQuê hương nếu ai không nhớSẽ không lớn nổi thành người…

Tham khảo ☀️ Sơ Đồ Tư Duy Đoàn Thuyền Đánh Cá ☀️ 11 Mẫu Vẽ Tóm Tắt

Cảm Nhận Bếp Lửa Và Ánh Trăng – Mẫu 8

Tham khảo bài văn cảm nhận Bếp lửa và Ánh trăng dưới đây để có những liên hệ hay giữa hai bài thơ.

“Đừng đánh mất quá khứ vì với quá khứ, người ta xây dựng tương lai” (Anatole France). Thật vậy, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” – đó là truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam. Truyền thống ấy đã được nhắc đến rất nhiều trong các tác phẩm văn học từ bao đời nay.

Chỉ bàn đến các tác phẩm văn học hiện đại lớp 9, hẳn chúng ta đều biết đến các tác phẩm thuộc chủ đề này: “Bếp lửa” của Bằng Việt, “Ánh trăng ” của Nguyễn Duy. Qua các bài thơ, các tác giả đã kín đáo bộc lộ những suy nghĩ , chiêm nghiệm về một lẽ sống ân nghĩa thủy chung cao quý trong cuộc đời của mỗi con người.

Bằng hình tượng “Ánh trăng” thấm đượm ý nghĩa nhân văn và tư tưởng triết luận, Nguyễn Duy đã thẳng thắn và quả cảm gửi tới chúng ta một bức thông điệp tha thiết, đẹp đẽ: “Hãy lắng laị một phút cái chen lấn, bận bịu của cuộc sống để nhìn lại bản thân mình!” – để trở về với cội nguồn đạo lý “nhớ nguồn” của dân tộc thông qua việc xây dựng nhân vật trữ tình biết tự soi rọi, tự ý thức về những lầm lỗi của mình, để hướng thiện.

Lời nhắn nhủ của nhà thơ giống như một cây chuyện nhỏ với giọng điệu tâm tình .Đây là câu chuyện của chính nhà thơ . Lời thơ mở đầu như đưa người đọc trở về với quá khứ tuổi thơ của tác giả với một giọng kể nhỏ nhẹ. Đó là một tuổi thơ gắn bó thân thiết với thiên nhiên. Tuổi thơ được cảm nhận những điều kì thú của thiên nhiên. Đến khi trở thành người lính, sống ở trong rừng vầng trăng lại thành tri kỉ.

Người chiến sĩ có thể nằm ngủ dưới trăng, đứng gác dưới trăng, trăng cùng chia sẻ những gian lao của cuộc đời người lính. Trăng cũng đã cùng vui niềm vui thắng trận của người chiến sĩ. Rõ ràng tình cảm của người chiến sĩ và trăng là tình cảm keo sơn gắn bó ,tưởng như tình cảm đó gắn bó mãi mãi.

Nhưng câu chuyện chuyển biến về hiện tại ,điều “ngỡ không bao giờ quên” bây giờ đã quên. Giọng thơ như trầm lắng lại với nét trầm ngâm, suy tư khi kể tới. Cảnh phồn hoa nơi đô thị tập nập , đời sống của con người cũng bắt đầu thay đổi .Ánh sáng của điện đã thay cho ánh sáng của trăng .Bởi thể mà lòng người lúc này cũng thay đổi. Vẫn là vầng trăng xưa, bây giờ vầng trăng ấy lại đi qua ngõ . Thế nhưng người bạn ấy bây giờ đã thành người dưng tức là không hề quen biết.

Sự đổi thay này diễn ra trong lòng người lính .Anh đã quên đi người bạn năm xưa , người bạn đã từng chịu chung gian khổ ở rừng, cùng gắn bó với anh tuổi ấu thơ. Giọng thơ thầm thì như lời trò chuyện. Anh đang trò chuyện với chính mình, suy nghĩ về việc mình đã thay đổi tình cảm quên đi vẻ đẹp của thiên nhiên,bình dị. Phải chăng, sự suy ngẫm này như một sự sám hối, tự trách mình. Sống trong hiện tại mà quên đi quá khứ , sống trong hoà bình có đầy đủ vật chất mà quên đi những ngày gian khổ.

Nhưng nhà thơ không dừng lại ở đó mà còn sáng tạo ra một cuộc sống chân thật mà cũng rất quen thuộc xảy ra ở đô thị đó là hệ thống đèn điện tắt cả.Một không gian phòng buyn-đinh tối om.Người chiến sĩ cũng giống như bao người khác vội bật tung cửa sổ , đột ngột thấy vầng trăng .Như vậy trăng xưa lại đến với người vẫn tròn vẫn đẹp và thuỷ chung với mọi người.

Ngửa mặt lên nhìn mặtcó cái gì rưng rưngnhư là đồng, là bểnhư là sông, là rừng

Người ngắm trăng và suy ngẫm bâng khuâng “Ngửa mặt lên nhìn mặt”. Hai chữ “mặt ”trong một vần thơ, mặt trăng và mặt người đối diện nhau. Đó là nhìn mặt tri kỉ, mặt của tình nghĩa mà bấy lâu nay mình dửng dưng. Nguyễn Duy gặp lại ánh trăng như gặp lại người bạn tuổi thơ, như gặp lại người bạn từng sát cánh bên nhau trong những tháng năm gian khổ. Trăng chẳng nói chẳng trách nhưng tâm trạng của người lính có gì đó rưng rưng. Phải chăng đó là tâm trạng xúc động nghẹn ngào. Nước mắt như trực ứa ra.

Bao kỉ niệm đẹp của một đời người đã ùa về trong tâm trí người chiến sĩ. Từ “rưng rưng” gợi tả nỗi xúc động của thi sĩ. Những kỷ niệm ngày nào bấy lâu tưởng bị chôn vùi nay lại ùa về đánh thức tâm hồn người trong cuộc “như là đồng là bể, như là sông là rừng”. Câu trúc của câu thơ sóng đôi kết hợp với phép tu từ so sánh , từ “là” được nhắc lại bốn lần cho ta thấy ngòi bút của Nguyễn Duy thật tài hoa.Ông đã gợi ta được sự gắn bó chan hoà với thiên nhiên của người chiến sĩ trong quá khứ.

Bởi lẽ nhớ tới đồng, tới sông , tới bể là nói tới thời ấu thơ , nói tới rừng là nói tới thời chiến tranh. Hai hình ảnh thơ này được lặp lại ở khổ thơ đầu .Như vậy vầng trăng trong đoạn thơ không chỉ là vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn là biểu tượng của quá khứ tình nghĩa.Vầng trăng đã đánh thức dậy tất cả, từ những năm tháng hoa niên cho đến khi cầm súng hành quân đuổi giặc dưới những cánh rừng.

Hóa ra những ký ức đẹp đẽ ấy đã không mất đi và con người không phải hoàn toàn vô tâm đến thế. Ký ức ấy chỉ tạm lắng xuống, con người trong lúc bận rộn có thể lãng quên đi nhưng chỉ cần một tác động nhỏ nào đó, chúng sẽ sống dậy vẹn nguyên, thậm chí còn đằm sâu hơn, tạo nên vẻ đẹp không gì sánh nổi của tâm hồn con người.

Nguyễn Duy đưa người đọc cùng đắm chìm tong suy tư, trong chiêm nghiệm về “vầng trăng tình nghĩa” một thời :

Trăng cứ tròn vành vạnhkể chi người vô tìnhánh trăng im phăng phắcđủ cho ta giật mình

Bài thơ dừng ở cảm xúc “rưng rưng” cũng đã rõ chủ đề. Nhưng thêm một đoạn cuối, ý tưởng bài thơ được đẩy cao thêm, rõ hơn và mạnh hơn trong sự bình luận về một thái độ sống. Hình ảnh “vầng trăng” còn được nhà thơ nhìn lại “tròn vành vạnh” thật là đẹp, một cái đẹp viên mãn không hề bị khiếm khuyết dù ai kia thay đổi, vô tình. Ánh trăng sáng tròn đầy hay chính là cái đẹp của tình nghĩa thủy chung, nhân hậu ?

Ánh trăng vừa nghiêm khắc, lạnh lùng, vừa bao dung độ lượng : “kể chi người vô tình”.Chính ánh trăng vô ngôn, không một lời trách cứ ấy đã khiến cho “ người vô tình” thấy rõ cái khiếm khuyết của bản thân mà không khỏi “giật mình “ tỉnh ngộ.Thật khó diễn tả cho hết tâm trạng của con người lúc ấy, biết bao ý nghĩa hàm ẩn trong hai chữ “giật mình”. Cái “giật mình” chân thành thay cho một lời sám hối ăn năn. Dù lời sám hối ấy không được cất lên nhưng chính vì thế nó lại làm cho ý thơ trở nên ám ảnh, day dứt hơn.

Cả bài thơ là vô nhân xưng, đến đây tác giả mới xưng “ta” để nhận lỗi, để tạ tội. Một cái giật mình tái mặt khi nhận ra chân tướng của chính mình. Đằng sau cái giật mình ấy người đọc cảm nhận được niềm ân hận day dứt của một con người đã nghiêm khắc nhìn thẳng vào mình để nhận ra cái sai của mình Người xưa hay nói “trong cái rủi có cái may”. Một sự cố rất bình thường của nền văn minh hiện đại đã thức tỉnh con người trở về với những giá trị cao đẹp, vĩnh hằng.Đó chính là cái hay và độc đáo của bài thơ có sức cảm hóa lòng người.

Đọc bài thơ người đọc đều cảm nhận thấy đây không chỉ là câu chuyện riêng của nhà thơ mà cũng là chuyện của mình .Từ câu chuyện ấy gợi ra cho người đọc sự suy ngẫm và liên tưởng tới cách sống của chính mình . Nhà thơ tâm sự với bạn đọc những điều sâu kín nơi lòng mình nhưng cũng là để gửi tới người đọc một bức thông điệp về cách sống đẹp trong hoàn cảnh đất nước hoà bình .

Qua tâm sự sâu kín của Nguyễn Duy ở bài thơ “Ánh trăng”, chúng ta như được thanh lọc lại tâm hồn mình, như lay động miền ký ức mà có lúc vô tình chúng ta đã lãng quên. Mong sao những ai từng ở với sông, với biển, với đồng, với rừng… trong những năm tháng gian lao ấy luôn luôn có được tình cảm này.

Có lẽ khi nhắc về quá khứ, nhất là những thời điểm đẹp đẽ, người ta vẫn thường kể nhiều hơn. Với “Bếp lửa” nhà thơ Bằng Việt thực đã dắt dẫn người đọc vào sâu trong mạch kể, mạch hồi tưởng của ông. Hồi ức đẹp một đi không trở lại của tuổi thơ được tái hiện không phải bằng một trí nhớ lan man, chắp vá. Trái lại, ở sâu trong tiềm thức của tác giả, hình ảnh “Bếp lửa” và “người bà” lúc nào cũng tỏ sáng lạ kì – trở thành một điểm đi về trong cõi nhớ.

Trong kỉ niệm, trong cảm xúc của mỗi nỗi nhớ, lí trí đã nhường chỗ cho tình cảm và cái rõ ràng, minh bạch đã nhoè đi để được thêm những cái mơ màng, chập chờn của hồi ức. Hình ảnh bà và bếp lửa qua tâm trạng ấy đã đồng nhất, hoà quyện với nhau. Tuy một mà hai tuy hai mà một để chỉ còn hiện lên trong tâm tưởng người cháu của một cái gì thật ấp iu, nồng đượm. Hình ảnh bếp lửa là cầu nối để đứa cháu phương xa ngàn dặm gửi tình thương nỗi nhớ về bà, về quê hương.

Nhưng qua dòng hồi tưởng nhẹ nhàng tươi mát của cháu, bếp lửa của củi rơm kia cũng không còn là bếp lửa bình thường như cái nhìn trước đó. Nó trở thành một hình ảnh cứ trở đi trở lại trong bài thơ, trong tâm trí người cháu và không lần nào cái bếp lửa bình dị ấy không gắn với hình ảnh người bà tảo tần, đầy thân thương. Và vì lẽ đó mà người ta có cảm giác bếp lửa kia chính là tình cảm của người bà đôn hậu.

Rồi sớm chiều lại bếp lửa bà nhenMột ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵnMột ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…

Tình cảm của bà rõ ràng đã được tượng trưng hoá với “ngọn lửa”. Nếu nói “Bếp lửa” e chưa thật trúng, còn nói “ngọn lửa” thì người ta cảm thấy cái linh hồn, tình cảm đã nằm ngay ở đó. Ngọn lửa ấy phải chăng là tâm huyết, nhiệt huyết (chứa niềm tin dai dẳng) phải chăng là tình yêu (lòng bà luôn ủ sẵn). Từ “Bếp lửa” đến “ngọn lửa” có lẽ là hành trình từ cái đơn sơ giản dị đến những cái thiêng liêng cao cả, từ cái thực đến cái linh hồn.

Hình ảnh bếp lửa được thay thế bằng hình ảnh ngọn lửa cụ thể hơn mang ý nghĩa ẩn dụ, tượng trưng cho ánh sáng, hơi ấm và sự sống. Cái bếp lửa mà bà nhen sớm sớm, chiều chiều không phải chỉ bằng nhiên liệu người ta vẫn thường dùng nhóm lửa mà đã sáng bừng lên thành ngọn lửa bất diệt, ngọn lửa của tình yêu thương luôn ủ sẵn trong lòng bà, ngọn lửa của niềm tin dai dẳng, ngọn lửa thắp sáng lên niềm tin, ý chí, hy vọng và nghị lực.

Điệp ngữ “một ngọn lửa” nhấn mạnh tình yêu thương ấm áp bà dành cho cháu. Phải chăng chính ngọn lửa lòng bà đã nhen lên trong tâm hồn cháu, ý chí, nghị lực và một tình yêu cuộc sống, một niềm tin tươi sáng về ngày mai. Đó là biểu hiện của sức sống muôn đời bất diệt mang niềm yêu thương, ý chí, nghị lực, niềm tin của bà truyền cho cháu.

Khái quát hơn, đó là ý chí, là nghị lực, là niềm tin của cả một dân tộc trong thời kỳ lịch sử vô cùng khó khăn đó, niềm tin về một ngày mai hoà bình, một ngày mai tươi sáng và một tương lai tốt đẹp hơn đang chờ phía trước. Hình ảnh của bà trong tâm hồn nhà thơ không chỉ là người thắp lửa giữ lửa mà còn là người truyền lửa. Lửa ấy là lửa niềm tin, lửa sức sống truyền đến các thế hệ mai sau.

“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưaMấy chục năm rồi, đến tận bây giờBà vẫn giữ thói quen dậy sớmNhóm bếp lửa ấp iu nồng đượmNhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùiNhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vuiNhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”.

Cuộc đời bà là một cuộc đời đầy gian truân, vất vả, nhiều lận đận, trải qua nhiều nắng mưa tưởng như không bao giờ dứt. Hình ảnh của bà cũng là hình ảnh của bao người phụ nữ Việt Nam giàu đức hy sinh dù gian truân vất vả vẫn sáng lên tình yêu thương.Bà đã nhóm bếp lửa trong suốt cuộc đời bà, đã trải qua nắng mưa “mấy chục năm rồi”. Bà không chỉ nhóm bếp lửa bằng đôi bàn tay già nua, gầy guộc, mà là bằng tất cả tấm lòng đôn hậu “ấp iu nồng đượm” của bà đối với con cháu.

Điệp từ “nhóm” được nhắc đi nhắc lại 4 lần trong 4 câu thơ đan kết với những chi tiết rất thực… có điểm chung là cùng gắn với hành động nhóm bếp, nhóm lửa của bà nhưng lại khác nhau ở những ý nghĩa cụ thể: khi thì nhóm bếp lửa ấp iu, nồng đượm để sưởi ấm cho bà cháu qua cái lạnh buốt của sương sớm; đến câu tiếp theo thì đã vừa nhóm bếp luộc khoai, luộc sắn cho cháu ăn đỡ đói lòng mà như còn đem đến cho đứa cháu nhỏ cái ngọt bùi của sắn khoai, của tình yêu thương vô hạn của bà.

Đến câu tiếp theo thì lòng bà còn mở rộng hơn cùng với nồi xôi gạo mới mùa gặt là tình cảm xóm làng đoàn kết, gắn bó, chia ngọt, sẻ bùi và đến câu thứ tư thì hoàn toàn mang nghĩa trừu tượng: nhóm dậy cả tâm tình tuổi nhỏ. Tình cảm của bà bao la giản dị như khoai sắn và cũng đậm đà như khoai sắn.

Các từ ngữ “ấp iu nồng đượm”, “yêu thương”, “ngọt bùi”, “chung vui” thể hiện sự tinh luyện của một ngòi bút nghệ thuật, đã diễn tả thật hay tình thương, niềm vui, sự no ấm, hạnh phúc mà bà đã mang lại cho con cháu. Bà đã “nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”, nuôi dưỡng và làm bừng sáng những ước mơ, những khát vọng của đàn cháu nhỏ. Bếp lửa bà nhen đã nhóm lên ngọn lửa của tình thương ấm áp. Chính vì thế mà nhà thơ đã cảm nhận được trong hình ảnh bếp lửa bình dị mà thân thuộc sự kì diệu, thiêng liêng:

“ÔI! Kì lạ và thiêng liêng – Bếp lửa”.

Câu thơ cảm thán với cấu trúc đảo thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng như một khám phá ra một điều kỳ diệu giữa cuộc đời bình dị. Từ ngọn lửa của bà, cháu nhận ra cả một niềm tin dai dẳng về ngày mai, cháu hiểu được linh hồn của một dân tộc vất vả, gian lao mà tình nghĩa. Ý thơ, khái quát trở thành ngọn lửa trong trái tim – một ngọn lửa ẩn chứa niềm tin và sức sống của con người.

Bài thơ chứa đựng một ý nghĩa triết lí thầm kín: những gì là thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức toả sáng, nâng đỡ con người suốt hành trình đài rộng của cuộc đời. Tình yêu thương và lòng biết ơn bà chính là một biểu hiện cụ thể của tình yêu thương, sự gắn bó với gia đình, quê hương, và đó cũng là sự khởi đầu của tình yêu con người, tình yêu đất nước.

Ánh trăng của Nguyễn Duy, Bếp lửa của Bằng Việt gợi lại bao suy nghĩ , chiêm nghiệm về một lẽ sống ân nghĩa thủy chung cao quý trong cuộc đời. Có bao giờ ta tự hỏi tại sao cũng chỉ là những hình ảnh quen thuộc thôi mà con người lại có thể nhìn thấy bao điều? Nó níu giữ con người khỏi bị trôi trượt đi bởi những lo toan tất bật hằng ngày, nó bảo vệ con người khỏi những cám dỗ tầm thường. Và trên hết, nó luôn hướng con người đến những giá trị cao đẹp của cuộc sống.

SCR.VN chia sẻ 🌹 Mở Bài Đoàn Thuyền Đánh Cá 🌹 20 Đoạn Văn Mẫu Hay Nhất

Cảm Nhận Khổ 1 Bài Thơ Bếp Lửa – Mẫu 9

Đón đọc văn mẫu cảm nhận khổ 1 bài thơ Bếp lửa dưới đây để đi sâu phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ.

Trong cuộc sống, con người ta luôn có lúc gặp phải những gian lao, trắc trở. Chính trong những năm tháng khó khăn, gian khổ ấy, chúng ta sẽ nhận ra được những giá trị tinh thần vô cùng thiêng liêng và đáng quý. Những giá trị ấy, những kỉ niệm ấy sẽ tạo nên sức mạnh nâng đỡ bước chân ta trong suốt cuộc đời dài.

Bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt đã soi sáng chân lí giản đơn ấy. Hình ảnh “bếp lửa” đã khơi nguồn hồi tưởng của tác giả những năm tháng sống bên bà, cùng bà nhóm lên ngọn lửa nồng ấm của tuổi thơ, để người đọc biết bao thế hệ cùng rung cảm với một bản trường ca về tình bà cháu.

Bằng Việt làm thơ từ đầu những năm 60 và thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ “Bếp lửa” được ông sáng tác năm 1963, khi tác giả 19 tuổi và đang học ngành Luật ở Liên Xô.

Tác phẩm viết theo thể thơ tự do và được đưa vào tập thơ “Hương cây – Bếp lửa”, tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ. Bằng sự kết hợp hài hòa giữa biểu cảm với tự sự, miêu tả và nghị luận, bài thơ đã xây dựng hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà và là điểm tựa khơi gợi mọi cảm xúc và suy nghĩ về tình bà cháu.

Trong biết bao kỉ niệm tuổi thơ, bếp lửa in dấu đậm nhất trong suy nghĩ của Bằng Việt. Bắt đầu từ hình ảnh thân thương, ấm áp ấy, mạch hồi tưởng của bài thơ bắt đầu:

Một bếp lửa chờn vờn sương sớmMột bếp lửa ấp iu nồng đượmCháu thương bà biết mấy nắng mưa.

Khổ thơ chỉ vỏn vẹn ba câu mà đã hai lần lặp lại điệp từ “một bếp lửa”. “Bếp lửa” ấy là hình ảnh vô cùng gần gũi và thân quen với mỗi gia đình Việt Nam từ bao giờ. Từ láy “chờn vờn” vừa tả ánh sáng lập lòe và từng làn khói vương vấn của bếp lửa mới nhen buổi sớm, vừa gợi lại hình ảnh bóng bà chập chờn trên in trên vách. Kết hợp với sự mờ ảo của “sương sớm”, những mảnh ký ức ấy như ẩn hiện trong làn sương vương vấn mùi khói, không hề thiếu đi sự nồng ấm.

“Ấp iu” tuy là một từ ghép nhưng lại mang âm hưởng của từ láy, vừa là sự kết hợp của ấp ủ và yêu thương, vừa gợi tả bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng đong đầy yêu thương của người nhóm lửa. Sự “nồng đượm” kia không chỉ tả bếp lửa cháy đượm mà còn ẩn chứa tình cảm trân trọng của tác giả đối với người đã cần mẫn, chăm chút thắp lên ngọn lửa ấy.

Hai hình ảnh sóng đôi đối nhau “chờn vờn sương sớm” – “ấp iu nồng đượm” đã tạo nên sự hòa phối âm thanh làm cho câu thơ vừa nhẹ nhàng như khói bếp vừa trĩu nặng về thời gian. Để rồi không cầm được cảm xúc, người cháu đã thốt lên : “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”, thật giản dị mà vẫn trào dâng một tình yêu thương bà vô hạn. Từ đó, sức ấm và ánh sáng của hình ảnh bếp lửa đã lan tỏa khắp bài thơ, trở thành điểm tựa để mở ra một chân trời đầy ắp kỉ niệm tuổi thơ về tình bà cháu.

Hồ Cẩm Sa từng thốt lên những câu thơ đồng cảm với Bằng Việt :

“Cuộc đời tuy chất vậtNhưng tâm hồn thảnh thơiBởi bóng bà luôn tỏaChe đời cháu, bà ơi!”

Người bà nói riêng hay người phụ nữ trong gia đình nói riêng luôn gắn với những gì gần gũi, thân thiết nhất. Họ giữ cho nhịp sống của tổ ấm được duy trì, là nơi bình yên cuối cùng để ta trở về sau những thăng trầm của cuộc đời. Trong dáng hình bình khiêm nhường quá đỗi ấy ẩn giấu một trái tim lớn đầy lòng nhân ái, để họ trở thành hiện thân của gia đình, quê hương, đất nước. Nay ở nơi đất khách quê người, những câu thơ như hát ra từ ngọn lửa ấm nóng năm xưa của bà càng gợi nhắc để người đọc thấm thía điều đó.

Niềm kính yêu và trân trọng đối với bà đã trở thành sự gắn bó với gia đình, tình yêu và nỗi nhớ quê hương, đất nước cũng như lòng biết ơn của Bằng Việt đối với cội nguồn che chở nơi ấy. “Bếp lửa” đã thực sự trở thành kỉ niệm ấm lòng, thành niềm tin thiêng liêng kì diệu theo nhà thơ suốt cả cuộc đời.

Nguyễn Đức Quyền đã từng nhận xét rằng : “Thơ của cái thuở ban đầu thường là nồng, nồng đến vụng dại. Ấy thế mà “Bếp lửa” của Bằng Việt lại đạm, đạm của thơ trẻ tạo ra một nét duyên dễ thương lạ.” Bài thơ là một trong những tác phẩm đầu tay của nhà thơ, khó có thể tránh khỏi thiếu sót.

Nhưng với giọng thơ tâm tình, trầm lắng giàu chất suy tưởng, hình ảnh bếp lửa xuyên suốt bài thơ như một sợi chỉ đỏ nối liền dòng hồi tưởng, bài thơ đã làm say lòng bạn đọc nhiều thế hệ. Nếu như hình tượng con cò trong bài thơ cùng tên của Chế Lan Viên đã đi từ những câu hát ru vào cuộc đời người con với:

“Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉTrước hiên nhàVà trong hơi mát câu văn”

thì Bằng Việt đã kế thừa ngọn lửa của yêu thương, của niềm tin nơi bà, những vần thơ của ông như một “ngọn lửa thần” mà Chế Lan viên từng nhắc tới.

Với “Bếp lửa”, Bằng Việt đã chắt lọc từ cuộc đời những kỉ niệm, những hình ảnh đẹp nhất về người bà thân yêu để dệt nên hình tượng “bếp lửa”, thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn đối với bà và cũng là đối với gia đình, quê hương, đất nước. Ta chợt nhận ra rằng, trong sâu thẳm mỗi con người, luôn có những điều thật bình dị và thân thương.

Hãy trân trọng những kí ức trong trẻo, mượt mà một thời ấy, vì đó là chốn bình yên để ta tìm về khi đã mỏi cánh bay, là hành trang quý báu để ta mang theo suốt cuộc hành trình dài và rộng của cuộc đời. Để một ngày nào đó dừng lại giữa dòng đời bất tận, ta mỉm cười vì luôn có một “bếp lửa” soi sáng trong tim…

Gợi ý cho bạn 🌼 Kết Bài Đoàn Thuyền Đánh Cá 🌼 20 Đoạn Văn Mẫu Hay Nhất

Cảm Nhận Khổ 2 Bài Thơ Bếp Lửa – Mẫu 10

Tham khảo văn mẫu cảm nhận khổ 2 bài thơ Bếp lửa dưới đây để chắt lọc cho mình những ý văn hay.

Tình cảm gia đình mà một chủ đề lớn trong thơ văn Việt Nam, đã có rất nhiều cây bút tài năng, nhiều tác phẩm xuất sắc viết về gia đình- nguồn cội, chốn yêu thương trong cuộc đời mỗi người. Chúng ta từng xúc động trước tình cảm của ông Sáu và bé Thu trong Chiếc lược ngà, từng rung động trước tấm lòng người mẹ trong Con cò của Chế Lan Viên, và chắc hẳn chúng ta cũng không thể nào quên được hình ảnh một người bà tận tụy, sớm hôm tảo tần, vì con vì cháu, giàu tình yêu thương trong Bếp lửa của Bằng Việt.

Bài thơ viết về bà, về những kí ức tuổi thơ gian khó nhưng ấm áp bên bà, đặc biệt trong khổ thơ thứ 2, tác giả đã tái hiện đầy xúc động về những ngày tháng sống bên bà:

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khóiNăm ấy là năm đói mòn đói mỏiBố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầyChỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháuNghĩ lại đến giờ sống mũi vẫn còn cay!”

Khi trưởng thành, những kỉ niệm về những ngày tháng sống bên bà vẫn là những kí ức đẹp đẽ, là “hành trang” ấm áp, giá trị nhất mà người cháu luôn mang theo bên mình.

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói”

Kí ức năm lên bốn tuổi vẫn còn đó, mùi khói của bếp lửa đã mở ra những kỉ niệm về tuổi thơ gian khó và cả những nỗi nhớ da diết khôn nguôi. Mùi khói của bếp lửa hay vị yêu thương được hun đúc từng ngày khi cháu bên bà.

Trong những năm tháng ấy, bên bếp lửa cháu cùng bà sẻ chia những bữa cơm nghèo, mùi khói hun vương vấn trong kí ức tuổi thơ cơ cực mà ấm áp. Mùi khói không biết tự bao giờ trở nên quen thuộc, trở thành một phần không thể thiếu của tuổi thơ cháu. Tuổi thơ của người cháu tuy không nhuốm sắc hồng viên mãn của sự đủ đầy nhưng vẫn đầy niềm vui khi được sống trong tình yêu thương và che chở của người bà kính mến.

“ Năm ấy là năm đói mòn đói mỏiBố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy”

Một hiện thực trần trụi của những năm tháng tuổi thơ được tái hiện bằng lời thơ trần thuật đầy tinh tế. Hai câu thơ chỉ với 16 tiếng mà đã mở ra cả bầu không khí đói khổ, cùng cực của người dân lúc bấy giờ. Trong nạn đói, ai cũng rơi vào cảnh khốn cùng, ngôi làng nhỏ của tác giả phải chịu đói, chịu lầm than trước sự tàn phá của lũ giặc cướp nước “đói mòn”, “đói mỏi”.

Bố mưu sinh chăm lo cho gia đình, bươn chải ngày ngày đến héo mòn ” khô rạc ngựa gầy”. Cái đói, cái nghèo dai dẳng của quê hương đã in sâu trong tâm trí tác giả khi còn là một cậu bé “lên bốn”. Đọc đến những câu thơ thực ấy, khiến ai cũng ngậm ngùi, xót xa bởi những thăng trầm nơi làng quê năm ấy, đồng cảm với những nhọc nhằn, vất vả của bao người lao động nghèo cơ cực, khốn khó.

Nhớ về những năm tháng xưa, lòng nhà thơ như nghẹn lại:

“Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháuNghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”

Những kí ức in đậm trong tâm trí khiến người cháu như cảm nhận trọn vẹn hương vị cay nồng quen thuộc của mùi khói để giờ đây khi nghĩ lại mọi cảm xúc như vỡ òa khiến “sống mũi còn cay”. Bao kỉ niệm yêu thương bên bà và cả những xót xa, cay đắng của cuộc sống cơ cực, đói khổ vẫn còn vẹn nguyên.

Bằng bút pháp tả, kể kết hợp với biểu cảm, ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị nhưng giàu sức gợi, chỉ với năm câu thơ ngắn thôi mà tác giả đã lay động tâm can người đọc. Mùi khói từ bếp lửa, từ bàn tay gầy guộc mà bà nhen nhóm đã khơi dậy trong lòng cháu bao nhiêu tình cảm thiết tha, hồn hậu mà đẹp đẽ. Đọc khổ thơ nói riêng và bài thơ nói chung, ta càng thêm yêu, thêm quý quê hương mình, chút gì đó nghẹn ngào, xúc động và tự hào về những người bà một đời tần tảo bên cháu con:

“Đôi mắt càng già càng thấm thía yêu thươngDù da dẻ khô đi tấm lòng không hẹp lạiGiàu kiên nhẫn bà còn hi vọng mãiChỉ mỗi ngày rắn lại ít lời thêm”

Tiếp tục tham khảo 🌳 Cảm Nhận Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá 🌳 15 Bài Hay Nhất

Cảm Nhận 2 Khổ Đầu Bài Thơ Bếp Lửa – Mẫu 11

Bài văn mẫu cảm nhận 2 khổ đầu bài thơ Bếp lửa dưới đây sẽ mang đến cho các em học sinh những ý tưởng làm bài đặc sắc.

Những kỉ niệm tuổi ấu thơ ai mà chẳng có. Tế Hanh có “con sông xanh biếc” với những người bạn bè bơi lội, vui đùa. Giang Nam có “thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường”. Nguyễn Duy có một sân “chơi đáo, chơi vòng” của bạn bè cùng lứa, có tuổi thơ thả hồn với đồng ruộng. Bằng Việt cũng có một tuổi thơ da diết vọng về với hình ảnh người bà thân yêu. Chính tình cảm bà cháu thân thương, ấm áp đã đan dệt thành một bài thơ đầy xúc động và khơi gợi nhiều ý nghĩa. Đó là bài thơ “Bếp lửa”.

Khi nhớ về quê hương, người ta thường nhớ về những kỉ niệm gắn bó với làng quê có con sông xanh biếc, cây đa, bến nước, sân đình… Những dòng hồi tưởng của Bằng Việt lại bắt đầu từ hình ảnh thân thương về bếp lửa, khổ thơ đầu mở ra không gian trong hoài niệm:

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớmMột bếp lửa ấp iu nồng đượm”

Từ láy tượng hình “chờn vờn” giúp ta hình dung ánh lửa hồng khi mờ khi tỏ trong sớm mai, gợi về cái mờ nhòa của kí ức theo thời gian. Người cháu xa nhà không thể nào quên được bếp lửa bình dị, thân quen. Không chỉ thấy cái “chờn vờn” của ngọn lửa mà cháu còn cảm nhận được cái hơi ấm của màu than đỏ đang “ấp iu nồng đượm”. Từ láy “ấp iu” vừa diễn tả chính xác công việc nhóm lửa vừa gợi bàn tay khéo léo, kiên nhẫn và tấm lòng chăm chút của người nhóm bếp. Tình cảm trào dậy một cách tự nhiên:

“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!”

“Nắng mưa” là hình ảnh ẩn dụ quen thuộc gợi ra bao vất vả, nhọc nhằn, thăng trầm trong cuộc đời bà để nuôi cháu khôn lớn. Chữ “thương” được dùng thật đắt qua vần thơ cảm thán đã gói trọn bao cảm xúc của cháu dành cho bà. Từ đây bà và bếp lửa là hai hình ảnh sóng đôi, đi suốt dọc bài thơ và theo cả nỗi nhớ của người cháu.

Trong khổ thơ thứ 2, từ bếp lửa nhớ về người nhóm lửa, ký ức đưa người cháu trở về những năm lên bốn tuổi:

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khóiNăm ấy là năm đói mòn đói mỏi,Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy,Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháuNghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”

Tuổi thơ của cháu không phải là vòm trời cổ tích cao rộng với những phép màu diệu kì của ông Bụt, bà Tiên. Tuổi thơ của cháu thật nhọc nhằn, quen mùi khói bếp nhà nghèo và có bóng đêm ghê rợ của nạn đói năm 45. Thành ngữ “đói mòn đói mỏi” diễn tả cái đói triền miên, dai dẳng, cái đói vắt kiệt sinh lực của biết bao nhiêu con người.

Người bố đi đánh xe với con ngựa gầy, tất cả trong mùi khói hun đến nghẹt thở, nao lòng cả tuổi thơ. Nghĩ mà thương tuổi thơ gian khó, nghĩ mà cồn cào một nỗi nhớ thương bà. Cái cay nồng mà người cháu cảm nhận được không phải là mùi khói bếp mà đó chính là dư vị tuổi thơ ám ảnh trong tâm thức bỗng trỗi dậy mạnh mẽ. Năm tháng qua đi nhưng nó đã trở thành vết thương lòng đâu dễ nguôi ngoai.

Bài thơ đã sáng tạo hình ảnh bếp lửa vừa thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Trong 2 khổ thơ đầu có sự kết hợp giữa miêu tả, biểu cảm, tự sự và bình luận, giọng điệu và thể thơ tám chữ phù hợp với cảm xúc hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu. Bài thơ chứa đựng một ý nghĩa thầm kín: Những gì là thân thiết nhất với tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người trên hành trình dài rộng của cuộc đời.

“Tác phẩm là kết tinh tâm hồn người sáng tác”. Bài thơ “Bếp lửa” đã thể hiện được tất cả tình yêu thương của Bằng Việt đối với người bà kính yêu của mình. Chính tình cảm bà cháu thiêng liêng ấm áp đã đan dệt thành một bài thơ xúc động và mang nhiều ý nghĩa.

Có thể bạn sẽ thích 💧 Cảm Nhận Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính 💧 15 Bài Văn Hay

Cảm Nhận Bài Thơ Bếp Lửa Khổ 3 – Mẫu 12

Văn mẫu cảm nhận bài thơ Bếp lửa khổ 3 dưới đây sẽ giúp các em học sinh vận dụng hoàn thành tốt bài viết của mình.

Bằng Việt là một trong những nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ. Các tác phẩm của ông thường viết về những tình cảm tốt đẹp như tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước bằng những lời thơ trong trẻo, mượt mà, gợi nhớ, gợi thương. Bếp lửa là bài thơ cảm động viết về tình bà cháu. Tình cảm ấy được gợi lên qua những kỉ niệm tuổi thơ của người cháu khi sống cùng bà, khổ thơ thứ ba, tác giả đã tái hiện lại dòng kí ức đầy đẹp đẽ ấy.

Ở một đất nước xa xôi, tuy rộng lớn mà cô đơn, nỗi nhớ nhà như chực chờ dâng trào trong tâm khảm, kí ức tuổi thơ trở thành nguồn sống nuôi dưỡng tâm hồn nhà thơ:

Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửaTu hú kêu trên những cánh đồng xaKhi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!

Giọng thơ thủ thỉ, kết hợp với lối kể tả vừa ngọt ngào vừa dạt dào xúc cảm, kỉ niệm đã qua lâu rồi mà ngỡ như mới ngày hôm qua. Tám năm cùng bà nhóm lửa, cùng bà chia sẻ những ngọt bùi, đắng cay, san sẻ niềm vui nhỏ bé và cả những khổ cực của hoàn cảnh.

Cuộc sống gian khó, cơ cực là thế nhưng cháu vẫn lớn lên từng ngày trong sự yêu thương, cưu mang, đùm bọc của bà, mới đây thôi cháu vừa lên bốn mà nay đã lên tám trở thành một cậu bé con hiểu chuyện và thương bà. Tám năm kháng chiến cũng là tám năm đất nước khó khăn, cuộc sống hai bà cháu cũng vậy. Tuy khó khăn nhưng ấm áp vị yêu thương của tình bà cháu.

Nếu trong hồi ức khi lên bốn, tác giả nhớ về mùi khói với vị cay nồng nơi sống mũi thì năm lên tám là kí ức đẹp đẽ về thanh âm của tiếng chim tu hú “Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà”. Đó là những ngày hè đượm nắng, tiếng tu hú vang xa trên cánh đồng quê hương. Tiếng tu hú gọi hè về, gọi cả kí ức của một tuổi thơ ấm áp trong lòng tác giả “Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế”. Nỗi nhớ quê hương, nhớ bà, nhớ bếp lửa thổn thức từng lời thơ.

Tác giả thấy lòng mình “tha thiết” khi nghe tiếng chim tu hú dậy bên lòng, lòng càng da diết hơn khi nhớ về người bà yêu thương, tần tảo một đời của mình. Ngược dòng thời gian, tác giả đắm mình trong những kí ức tuổi thơ, nhớ về bếp lửa, về bà, về tiếng chim tú hú. Trong dòng hồi tưởng ấy, tác giả đã nhớ về bà mà thủ thỉ tâm sự như có bà đang bên cạnh: “Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà”.

Bà còn nhớ năm nào bên bếp lửa, bà kể cho cháu nghe những câu chuyện về Huế, về các anh bộ đội cụ Hồ thật thà, chịu khó mà đầy gan dạ, dũng cảm. Bà có còn nhớ những tháng ngày bà thay cha mẹ chăm sóc, bảo ban cháu, dạy cho cháu từng con chữ, chỉ cho cháu từng việc làm nhỏ hay cách đối nhân xử thế hàng ngày?

Lời hỏi thân thương ấy cũng là lời khẳng định tình cảm người cháu dành cho bà, dù thời gian có trôi đi bao lâu nữa thì những hình ảnh, kí ức bên bà vẫn còn in mãi trong trái tim cháu, suốt một đời cháu sẽ mang theo trong hành trang lớn lên và trưởng thành của mình.

“Mẹ cùng cha công tác bận không vềCháu ở cùng bà, bà bảo cháu ngheBà dạy cháu làm, bà chăm cháu họcNhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”.

Bà là người nuôi dưỡng, bảo ban cháu, bà chính là mẹ, là cha cũng là người thầy bên cháu trong những buổi học đầu tiên. Càng nghĩ về bà, tác giả càng không cầm lòng đọc, tiếng “thương bà” cất lên trong nỗi nhớ, bên hình ảnh bếp lửa gần gũi mà thân thương. Thương bà một đời khó nhọc, nuôi con, chăm cháu, bên mái nhà tranh xiêu vẹo, bà trở thành điểm tựa vững chắc để cháu được bình an, lớn lên và trưởng thành hơn mỗi ngày.

“Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bàKêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”

Thương bà cô đơn, hiu quạnh tác giả buông lời trách nhẹ nhàng chim tu hú, sao cứ bay mãi trên cánh đồng xa, chẳng đến cùng cho bà đỡ buồn thương, hiu quạnh. Phải chăng, trong lời trách móc ấy, tác giả còn tự trách chính bản thân mình lúc này đây chẳng thể về bên bà, cùng bà hỏi han, tâm sự. Vì cuộc sống, vì lí tưởng cháu đành xa bà, khoảng cách xa đằng đẵng, nỗi nhớ bà lại ngày một dài thêm.

Khổ thơ khép lại bằng một câu hỏi tu từ. Trong tâm trí của người cháu xa quê ấy có lẽ đang tìm về những kí ức yêu thương cho thỏa nỗi nhớ nhung bà. Giọng thơ chầm chậm, da diết, bộc lộ nỗi khắc khoải của niềm nhớ, niềm thương. Tự nhiên như thế, đoạn thơ đã gieo vào lòng người đọc bao nỗi niềm khó tả, bao nỗi nhớ của một khung trời tươi đẹp về một kí ức tuổi thơ có bà.

Đừng bỏ qua 🔥 Sơ Đồ Tư Duy Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính 🔥 12 Mẫu Ngắn Gọn Và Đầy Đủ

Cảm Nhận Khổ 4 Bài Thơ Bếp Lửa – Mẫu 13

Văn mẫu cảm nhận khổ 4 bài thơ Bếp lửa dưới đây sẽ là nội dung tham khảo cần thiết cho các em học sinh trong quá trình làm bài.

Bằng Việt là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ Bằng Việt bình dị với những cảm xúc tinh tế, giàu suy tư và chan chứa cảm xúc. Những kỉ niệm tuổi thơ, tình cảm gia đình, …là nguồn chất liệu hiện thực phong phú “chắp cánh” cho những sáng tạo thơ văn giàu giá trị của ông.

Bếp lửa là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất cho tài năng, phong cách nghệ thuật của Bằng Việt. Bài thơ là tình yêu thương, kính trọng của nhà thơ dành cho người bà của mình. Trong khổ 4 của bài, Bằng Việt đã tái hiện đầy chân thực, xúc động về những kỉ niệm tuổi thơ bên bà, đó là những kỉ niệm về một thời gian khó nhưng ấm áp tình bà cháu của nhà thơ.

Tuổi thơ bên bà của tác giả là những ngày tháng bình yên trong tâm hồn nhưng cũng là những tháng ngày gian khó, vất vả nhất của hai bà cháu khi giặc Mĩ thường xuyên tàn sát, bắn phá:

“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụiHàng xóm bốn bên trở về lầm lụi”

Chiến tranh đã mang đến bao đau thương, mất mát cho con người, hai bà cháu và người dân trong làng cũng nhiều lần trở thành nạn nhân của sự tàn ác, bất nhân của kẻ thù. Giặc Mĩ đốt làng, đốt xóm “cháy tàn cháy rụi” làm cho cuộc sống vốn nghèo khó của hai bà cháu vốn khó khăn lại càng thêm phần cơ cực, gian khó “Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi”.

Thế nhưng, trong cái gian khó, u ám của hoàn cảnh thì vẻ đẹp của tình người, tình hàng xóm lại tỏa rạng ấm áp hơn bao giờ hết. Những người dân nghèo giúp đỡ, động viên lẫn nhau, giúp đỡ bà để cùng vượt qua những tháng ngày gian khó “Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh”, tình cảm ấy thật đơn sơ nhưng cũng thật cao quý biết bao.

Trong không khí ác liệt của chiến tranh, hình ảnh người bà hiện lên trong dòng kí ức của người cháu thật đẹp:

“Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”

Dẫu hoàn cảnh có ác liệt, dẫu cuộc sống có nhiều khó khăn, mất mát nhưng bà vẫn luôn mạnh mẽ, kiên cường để làm chỗ dựa cho người cháu, cho cả gia đình mà bà yêu quý. Bà gieo vào lòng cháu niềm tin, về sự lạc quan giữa cảnh mưa bom bão đạn, bà dặn dò cháu không kể lể với bố để bố yên tâm chiến đấu nơi tiền tuyến xa xôi.

Lời dặn dò của bà giản dị nhưng chứa chan tình thương của một người bà yêu cháu, một người mẹ thương con. Bà là hậu phương vững chắc nơi quê nhà nên dù phải đối mặt với bao nhiêu khó khăn đi nữa thì bà vẫn luôn “vững lòng”.

Qua khổ thơ ta không chỉ cảm nhận được sự kiên cường của bà, tình yêu thương chân thành, giản dị của bà dành cho cháu, cho con mà còn cảm nhận được những vẻ đẹp thật cao quý, bà bình tĩnh, lạc quan, bà là hậu phương vững chắc cho cả gia đình.

Khổ thơ tái hiện lại không khí dữ dội của chiến tranh, thế nhưng thứ đọng lại trong lòng độc giả không phải sự ám ảnh, kinh hoàng mà là niềm xúc động khôn nguôi về tình người nơi xóm làng, láng giềng, tình cảm gia đình thiêng liêng, cao đẹp và đọng lại sâu đậm nhất chính là tình cảm ấm áp, mềm mại về bà.

Giới thiệu trọn bộ 🌼 Phân Tích Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính 🌼 Văn Mẫu Hay Nhất

Cảm Nhận Bài Thơ Bếp Lửa Khổ 5 – Mẫu 14

Tham khảo văn mẫu cảm nhận bài thơ Bếp lửa khổ 5 dưới đây với những luận điểm được triển khai chặt chẽ và đầy đủ.

Quê hương, gia đình, làng xóm là những kỉ niệm đẹp đẽ, bình dị và thân thuộc với những ai xa quê. Đối với nhà thơ Tế Hanh, quê hương là làng chài ven biển “nước bao vây cách biển nửa ngày sông”; với nhà thơ Đỗ Trung Quân thì “Quê hương là chùm khế ngọt”, “là con diều biếc”… Nhưng riêng với Bằng Việt, quê hương của ông gợi về bằng một hình ảnh rất quen thuộc, bình dị, mộc mạc – BẾP LỬA. Ra đời năm 1963, bài thơ “Bếp lửa” còn là những dòng cảm xúc nói lên lòng kính yêu với bà và niềm nhớ mong về bà của tác giả.

Khổ thơ thứ 5 khắc hoạ hình ảnh người bà đã gồng mình gánh vác mọi lo toan để các con yên tâm công tác. Bà không chỉ là chỗ dựa cho đứa cháu thơ, là điểm tựa cho các con đang chiến đấu mà còn là hậu phương vững chắc cho cả tiền tuyến, góp phần không nhỏ vào cuộc kháng chiến chung của dân tộc. Tình cảm bà cháu hòa quyện trong tình yêu quê hương, Tổ quốc.

Vì sao mà tấm lòng người bà chứa đựng được biết bao điều như vậy ? Vì trong tấm lòng đó luôn âm ỉ một ngọn lửa :

Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhenMột ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵnMột ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…

Từ hình ảnh bếp lửa cụ thể ở câu trên, tác giả chuyển thành hình ảnh ngọn lửa trong lòng bà. Như thế, bếp lửa không chỉ được nhen lên bằng nhiên liệu củi rơm mà còn được nhen lên từ ngọn lửa của sức sống, lòng yêu thương “luôn ủ sẵn” trong lòng bà, của niềm tin vô cùng “dai dẳng”, bền bỉ và bất diệt.

Ngọn lửa là những kỉ niệm ấm lòng, là niềm tin thiêng liêng kì diệu nâng bước cháu trên suốt chặng đường dài. Ngọn lửa là sức sống, lòng yêu thương, niềm tin mà bà truyền cho cháu. Cùng với hình tượng “ngọn lửa”, các từ ngữ chỉ thời gian: “rồi sớm rồi chiều”, các động từ “nhen”, “ủ sẵn”, “chứa” đã khẳng định ý chí,bản lĩnh sống của bà, cũng là của người phụ nữ Việt Nam giữa thời chiến.

Điệp ngữ – ẩn dụ “một ngọn lửa” cùng kết cấu song hành đã làm cho giọng thơ vang lên mạnh mẽ, đầy xúc động tự hào. Từ hình ảnh bếp lửa cụ thể, bài thơ đã gợi đến ngọn lửa với ý nghĩa trừu tượng, khái quát. Bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa – ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho các thế hệ nối tiếp.

Không phải ngẫu nhiên mà ngay từ khi vừa mới ra đời cho đến tận hôm nay “Bếp lửa” vẫn luôn có chỗ đứng riêng của nó. Bằng những hình ảnh chân thực cùng tất cả tình cảm chân thành Bằng Việt đã thật sự chạm đến trái tim người đọc qua từng câu, từng chữ của mình.

Khám phá thêm 💕 Phân Tích Bài Thơ Đồng Chí Chính Hữu 💕 10 Bài Hay Nhất

Cảm Nhận Khổ 4 5 Bài Thơ Bếp Lửa – Mẫu 15

Bài văn cảm nhận khổ 4 5 bài thơ Bếp lửa dưới đây sẽ giúp các em học sinh có những định hướng làm bài cụ thể nhất.

Bằng Việt cũng có riêng ông một kỉ niệm, đó chính là những tháng năm sống bên bà, cùng bà nhóm lên cái bếp lửa thân thương. Không chỉ thế, điều in đậm trong tâm trí của Bằng Việt còn là tình cảm sâu đậm của hai bà cháu. Chúng ta có thể cảm nhận điều đó qua bài thơ “Bếp lửa” của ông. Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ “Bếp lửa” được ông sáng tác năm 1963 lúc 19 tuổi và đang đi du học ở Liên Xô.

Bài thơ đã gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu với bà, với gia đình, quê hương, đất nước. Trong 2 khổ thơ 4 và 5 của tác phẩm – chiến tranh, một danh từ bình thường nhưng sức lột tả của nó thì khốc liệt vô cùng, nó đã gây ra đau khổ cho bao người, bao nhà. Và hai bà cháu trong bài thơ cũng trở thành một nạn nhân của chiến tranh: gia đình bị chia cắt, nhà bị giặc đốt cháy rụi…

“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụiHàng xóm bốn bên trở về lầm lụiĐỡ đần bà dựng lại túp lều tranhVẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:Bố ở chiến khu bố còn việc bốMày viết thư chớ kể này kể nọCứ bảo nhà vẫn được bình yên!”

Cuộc sống càng khó khăn, cảnh ngộ càng ngặt nghèo, nghị lực của bà càng bền vững, tấm lòng của bà càng mênh mông. Qua đó, ta thấy hiện lên một người bà cần cù, nhẫn nại và giàu đức hi sinh. Dù cho ngôi nhà, túp lều tranh của hai bà cháu đã bị đốt nhẵn, nơi nương thân của hai bà cháu nay đã không còn, bà dù có đau khổ thế nào cũng không dám nói ra vì sợ làm đứa cháu bé bỏng của mình lo buồn.

Bà cứng rắn, dắt cháu vượt qua mọi khó khăn, bà không muốn đứa con đang bận việc nước phải lo lắng chuyện nhà. Điều đó ta có thể thấy rõ qua lời dặn của bà: “Mày có viết thư chớ kể này kể nọ / Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”.

Lời dặn của bà nôm na giản dị nhưng chất chứa biết bao tình. Gian khổ, thiếu thốn, bao nỗi nhớ thương con bà đều phải nén vào trong lòng để yên lòng người nơi tiền tuyến. Hình ảnh người bà không chỉ còn là người bà của riêng cháu mà còn là một biểu tượng rõ nét cho những người phụ nữ Việt Nam giàu đức hi sinh, thương con quý cháu. Kết thúc khổ thơ, Bằng Việt đã nâng hình ảnh bếp lửa trở thành hình ảnh ngọn lửa, một ngọn lửa:

“Rồi sớm rồi chiều, lại Bếp lửa bà nhen,Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn,Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”.

Hình ảnh ngọn lửa toả sáng trong câu thơ, nó có sức truyền cảm mạnh mẽ. Ngọn lửa của tình yêu thương, ngọn lửa của niềm tin, ngọn lửa ấm nồng như tình bà cháu, ngọn lửa đỏ hồng soi sáng cho con đường đứa cháu. Bà luôn nhắc cháu rằng: nơi nào có ngọn lửa, nơi đó có bà, bà sẽ luôn ở cạnh cháu.

“Đọc xong bài thơ, nhắm mắt lại tưởng tượng, bạn sẽ hình dung thấy ngay hình ảnh bếp lửa hồng và dáng người bà lặng lẽ ngồi bên. Hình ảnh có tính sóng đôi này hiện lên thật sống động, rõ ràng như thể nét khắc, nét chạm vậy…” (Văn Giá). Bài thơ Bếp lửa nói chung và các khổ thơ 4, 5 nói riêng sẽ sống mãi trong lòng bạn đọc nhờ sức truyền cảm sâu sắc cuả nó. Bài thơ đã khơi dậy trong lòng chúng ta một tình cảm cao đẹp đối với gia đình, với những người đã tô màu lên tuổi thơ trong sáng của ta.

Tiếp theo tham khảo 🌹 Mở Bài Đồng Chí 🌹 20 Đoạn Văn Mẫu Ngắn Hay Nhất

Cảm Nhận Bài Thơ Bếp Lửa Khổ 6 – Mẫu 16

Chia sẻ dưới đây văn mẫu cảm nhận bài thơ Bếp lửa khổ 6 để các em học sinh cùng tham khảo và vận dụng khi làm bài.

Bằng Việt thuộc thế hệ nhà văn trẻ được rèn luyện và trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ Bằng Việt trong trẻo, mượt mà, tràn đầy cảm xúc, đề tài thơ thường đi vào khai thác những kỉ niệm, những kí ức thời thơ ấu và gợi những ước mơ tuổi trẻ. Thành công nổi bật đầu tiên của Bằng Việt là bài thơ Bếp lửa (1963).

Đó là một bài thơ viết về tình bà cháu, tình gia đình gắn liền với tình quê hương đất nước. Sau khi xuất bản, tác phẩm này đã được bạn đọc đón nhận, làm nên tên tuổi Bằng Việt như một trong những nhà thơ hồn hậu, chân thành và da diết. Đặc biệt, trong khổ thơ thứ 6, nhà thơ đã nâng bếp lửa lên thành hình tượng và để hình ảnh bà trở thành nền tảng vững chắc nâng bước tương lai cho người cháu bé nhỏ ngày nào.

Những khổ đầu bài thơ “Bếp lửa” là hình ảnh bếp lửa đã khơi nguồn cho dòng hồi tưởng cảm xúc về bà, là những hồi tưởng những kỷ niệm tuổi thơ sống bên bà và hình ảnh bà gắn liền với hình ảnh bếp lửa tuổi thơ. Hồi ức vẫn còn đó, hiện tại trong tâm trí nhà thơ chợt xuất hiện những dòng suy ngẫm và triết lý sâu xa, điều này được thể hiện rõ nét qua khổ thơ thứ 6:

“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưaMấy chục năm rồi, đến tận bây giờBà vẫn giữ thói quen dậy sớm”

Cảm xúc “biết mấy nắng mưa” được lặp lại giống ở khổ một, đầu bài thơ:

“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”

Có phải đó là lời nhấn mạnh, sự tô đậm những nỗi cơ cực của cuộc đời bà? Cuộc đời người bà gói gọn trong hai chữ “lận đận”. Bao nhiêu khó khăn, vất vả, gian nan, “biết mấy nắng mưa”, bà âm thầm chịu đựng để được lo lắng, chăm sóc cho con cháu.

Đã mấy chục năm rồi, chiến tranh đã đi qua, gian khổ nhọc nhằn vẫn chưa vơi bớt, bà vẫn “giữ thói quen dậy sớm”. Cuộc đời bà cứ gian nan, vất vả như vậy tưởng chừng như không bao giờ dứt. Bà là người thức khuya dậy sớm, chịu nhiều vất vả nhất trong nhà nhưng bà cũng chính là người nhóm lên trong gia đình ngọn lửa của tình yêu thương:

“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượmNhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùiNhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vuiNhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”

Từ “nhóm” được lặp đi lặp lại nhiều lần trong khổ thơ như lời khẳng định: bà chính là người nhóm lên trong lòng cháu ngọn lửa của tình yêu thương, của đức hy sinh cao cả. Khi nhóm lên “lửa ấp iu nồng đượm”, bà đã dạy cho cháu tình yêu thương những người ruột thịt. Nhóm tình quê “khoai sắn ngọt bùi”, bà dạy cháu tình yêu thương xóm làng, yêu mảnh đất quê nghèo. Còn khi “nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui”, bà dạy cháu phải luôn mở lòng ra với mọi người xung quanh.

Bên cạnh đó, bà cũng nhắc nhở cháu rằng không bao giờ được quên đi những năm tháng nghĩa tình, những năm tháng khó khăn mà hai bà cháu đã cùng trải qua. Không chỉ nhóm lên ngọn lửa đó ấm nồng và cháy sáng mãi trong lòng mọi người. Người bà kì diệu ấy đã nhóm dậy, khơi gợi, giáo dục và bồi đắp cho người cháu về cả thể xác lẫn tâm hồn, về ước mơ, lẽ sống của “tâm tình tuổi nhỏ”.

“Bếp lửa” của bà khó khăn, nhọc nhằn, vất vả. Bà nuôi cháu khôn lớn bằng bếp lửa ấy. Vậy mà giờ đây, cháu đã du học tận trời Nga xa xôi, xa bà, xa quê hương, xa Tổ quốc. Cuộc đời của cháu như một câu chuyện cổ tích. Và ở đấy, bà là bà tiên hiền hậu, luôn nâng đỡ từng bước đi của cháu.

Cháu đã trưởng thành từ bếp lửa của bà. Từ cuộc sống nghèo khổ, bà ươm mầm ước mơ cho cháu đi du học phương xa. Tất cả những gì cháu có được ngày hôm nay chính là nhờ ngọn lửa trong bà, ngọn lửa ấy chắp cánh cho người cháu tự tin bay vào cuộc đời cao rộng.

Đứa cháu không thể trưởng thành, hay dù trưởng thành về thể xác nhưng tâm hồn cũng chẳng thể lớn khôn nếu không được nuôi dưỡng bằng ngọn lửa, bằng chính tấm lòng của người bà rất đỗi yêu thương. Người bà có một sức mạnh kì diệu từ trái tim, đã nhóm dậy trong tâm hồn đứa cháu biết bao tình cảm cao đẹp, chắp cánh cho ước mơ bay cao, bay xa để mai này cháu khôn lớn thành người.

Âm điệu câu thơ dạt dào, lan tỏa như lửa ấm hay đó chính là cảm xúc đang dâng trào trong trái tim để rồi nhà thơ phải thốt lên:

“Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”

Câu thơ chỉ có tám chữ mà có sức khái quát cả suy nghĩ lẫn tình cảm của tác giả dành cho hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh “người bà – người giữ lửa”, nhóm lửa, truyền lửa, người xây đắp nên tuổi thơ cho cháu. Bà và bếp lửa đã trở thành một mảnh tâm hồn, một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của tác giả dù cho lúc này, hai bà cháu đang chia xa.

Qua việc vận dụng âm điệu thơ trữ tình, sâu lắng; ngôn ngữ thơ bình dị, hình tượng bếp lửa sáng tạo cùng với các điệp ngữ, ẩn dụ đặc sắc, khổ thơ thứ 6 đã khắc họa chân thực, xúc động hình ảnh người bà giàu tình yêu thương, đức hi sinh; tình bà cháu ấm nồng, sâu nặng thiết tha…

Qua đó, tác giả đã bộc lộ thật xúc động tâm trạng nhớ nhung cùng với tình yêu thương xen lẫn cảm phục đối với người bà đáng kính. Đọc xong bài thơ, người đọc như được sưởi chung với Bằng Việt hơi ấm của tình yêu thương của gia đình, của cội nguồn, của Tổ quốc.

Chia sẻ thêm cùng bạn 🌼 Kết Bài Đồng Chí 🌼 20 Đoạn Văn Mẫu Ngắn Hay Nhất

Cảm Nhận Bài Thơ Bếp Lửa 2 Khổ Cuối – Mẫu 17

Những gợi ý cảm nhận bài thơ Bếp lửa 2 khổ cuối dưới đây sẽ giúp các em học sinh hoàn thành tốt và đạt kết quả cao cho bài kiểm tra viết.

Ai sinh ra và lớn lên cũng mang theo bên mình một hành trang chứa đựng bao kỷ niệm của một thời tuổi thơ. Cái tuổi thơ của một thời trong trẻo bên người thân. Và với riêng nhà thơ Bằng Việt thì ông đã có cho mình một tuổi thơ như thế, tuổi thơ bên người bà, những kỷ niệm mà cho mãi đến sau này khi đã trưởng thành, khi xa nhà thì những kỷ niệm đó vẫn trở về hiện hữu.

Những kỷ niệm về bà bên chiếc bếp lửa chính lý do mà bài thơ Bếp lửa ra đời. Tác phẩm đã thể hiện tình cảm bà cháu tha thiết qua những dòng hồi tưởng của tác giả chân thành và cảm động. Điều này được bộc lộ rõ nét qua hai khổ cuối của bài.

Khổ thơ đầu là những suy ngẫm sâu sắc của nhà thơ, của đứa cháu về cuộc đời của bà:

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưaMấy chục năm rồi, đến tận bây giờBà vẫn giữ thói quen dậy sớm

Một lần nữa, tác giả khẳng định cuộc sống của bà còn nhiều vất vả, thiếu thốn “lận đận, biết mấy nắng mưa”. Bà cần mẫn, chịu thương chịu khó, thức khuya “dậy sớm” vì con vì cháu. Những vần thơ chan chứa bao nghĩa nặng tình sâu của đứa cháu đối với bà. Bà quen dậy sớm để tiếp tục nhóm lên ngọn lửa:

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượmNhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùiNhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vuiNhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ

Điệp từ “nhóm” được nhắc lại bốn lần gắn với hành động nhóm bếp, nhóm lửa của bà. Bà nhóm lên những gì? Đầu tiên là nhóm bếp lửa “ấp iu nồng đượm” để sưởi ấm cho bà cháu qua cái lạnh của sương sớm. Bà nhóm bếp luộc khoai luộc sắn cho cháu ăn đỡ đói lòng, đem đến cho đứa cháu nhỏ cái ngọt bùi của sắn khoai, của tình thương yêu vô hạn.

Rồi “nồi xôi gạo mới sẻ chung vui” của bà thay lời dạy cháu phải biết mở lòng với mọi người xung quanh, phải biết đoàn kết, gắn bó với xóm làng. Cuối cùng, “nhóm dậy tâm tình tuổi nhỏ” – bà không chỉ là người chăm lo cho cháu đầy đủ về vật chất mà còn là người làm cho tuổi thơ của cháu thêm đẹp, thêm lung linh huyền ảo. Theo mạch suy ngẫm đó, nhà thơ đi đến khái quát rất tự nhiên và hợp lí:

Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!

Đúng vậy. Bếp lửa thật giản dị, phổ biến trong mỗi gia đình Việt Nam, nhưng bếp lửa cũng thật cao quý, kì diệu và thiêng liêng vì nó luôn gắn liền với bà – người giữ lửa, nhóm lửa, truyền lửa, người tạo nên tuổi thơ của cháu.

Bếp lửa nhóm lên không chỉ bằng nhiên liệu bên ngoài mà được nhóm lên từ chính ngọn lửa trong lòng bà. Bếp lửa trở thành một mảnh tâm hồn, một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của cháu. Hơn thế, qua bếp lửa của bà, người đọc cảm nhận thật sâu sắc linh hồn của một dân tộc vất vả gian lao mà tình nghĩa.

Trong bài thơ, mười lần xuất hiện bếp lửa là mười lần tác giả nhắc tới bà. Người bà đã, đang và sẽ mãi mãi là người quan trọng nhất đối với cháu dù ở bất kì phương trời nào. Bốn câu kết thể hiện một cách xúc động tình thương nhớ, niềm kính yêu và biết ơn của đứa cháu bé bỏng nay đã đi xa:

Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàCó lửa trăm nhà, tiền vui trăm ngảNhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở.Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?

Cháu đã lớn khôn, đã được sống trong cuộc đời mới thật vui thật đẹp, giữa ngọn khói trăm tàu lửa trăm nhà. Nhưng cháu vẫn không thể quên bếp lửa đơn sơ ấm áp của bà để rồi mỗi ngày đều tự hỏi: “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”. Câu hỏi mà cũng là lời khẳng định: Cháu sẽ không bao giờ quên và chẳng thể nào quên được bà và bếp lửa vì đó chính là nguồn cội, là nơi mà tuổi thơ cháu đã được nuôi dưỡng và lớn lên từ đó.

Chúng ta biết rằng bài thơ này được viết khi tác giả đang là sinh viên du học tại Liên Xô. Ở nơi xứ lạ xa xôi, tác giả nhớ về bếp lửa về bả cũng đồng nghĩa nhở về tổ ấm gia đình với niềm vui sum họp, nhớ thương quê hương đất nước. Như nhà thơ I – li – a Ê – ren – bua đã viết : “Lòng yêu nhà yêu làng xóm yêu miền quê … trở lên lòng yêu tổ quốc.

“Bếp lửa” là một bài thơ hay, kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố biểu cảm, tự sự và trữ tình, nhiều hình ảnh ẩn dụ đặc sắc. Tình bà cháu trong bài thơ là tình cảm thiêng liêng, cảm động. Bà dành cho cháu những hi sinh thành lặng. Bà là mái ấm chở che, bao bọc tuổi thơ dại khổ của cháu trước những mất mát, đau thương của cuộc sống.

Và người cháu dù lớn khối, xa vòng tay bà vẫn nhớ đến bà với lòng tin yêu và biết ơn sâu sắc. Ngọn lửa bà trao cho, cháu được cháu giữ vẹn nguyên để trở thành ngọn lửa trường tồn bất diệt. Bài thơ đã khơi dậy trong lòng người đọc một tình cảm đẹp đối với gia đình, quê hương, đất nước.

Đón đọc tuyển tập 🌼 Cảm Nhận Về Bài Thơ Đồng Chí 🌼 Top Những Bài Hay Nhất

Cảm Nhận Bài Thơ Bếp Lửa Khổ Cuối – Mẫu 18

Đón đọc văn mẫu cảm nhận bài thơ Bếp lửa khổ cuối dưới đây để nắm được những nội dung kiến thức xoay quanh đoạn thơ.

Tình cảm gia đình luôn là tình cảm hết sức thiêng liêng cao đẹp trong tâm tưởng của mỗi một con người Việt Nam. Viết về đề tài này, nhà thơ Bằng Việt đã có những vần thơ rất hay thông qua tác phẩm “Bếp lửa”. Qua bài thơ, chúng ta thấy được vẻ đẹp của tình bà cháu qua dòng hồi tưởng về quá khứ được sống trong sự bao bọc, chở che của người bà. Và sự đùm bọc, yêu thương đó đã trở thành hành trang đi theo suốt cuộc đời tác giả. Điều này đã được thể hiện rõ nét qua khổ thơ cuối của bài thơ:

“Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàuCó lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”

Bài thơ “Bếp lửa” được kiến tạo theo mạch cảm xúc hồi tưởng từ cảm xúc đến hiện tại. Sau khi nhớ về những kỉ niệm bên bà và bếp lửa năm lên bốn tuổi, tám tuổi và những năm kháng chiến, tác giả Bằng Việt đã quay trở về thực tại để gửi gắm nỗi nhớ mong luôn khắc khoải, thường trực trong tâm trí về người bà cùng những tháng năm được sống trong sự chở che, đùm bọc, thương yêu.

Khổ thơ cuối được mở đầu bằng những câu thơ miêu tả sự đổi khác của cuộc sống thực tại. Ở dòng thơ đầu tiên, với dấu phẩy được ngăn cách ở giữa, chia tách câu thơ làm đôi: “Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu” đã gợi sự đổi thay về thời gian cũng như không gian. Đó là sự vận động từ quá khứ, hồi ức đến hiện tại, đồng thời không gian căn bếp thân thuộc trong tâm tưởng cũng được thay thế bằng những khoảng trời rộng lớn của thế giới bên ngoài.

Điệp từ “trăm”, “có” kết hợp với thủ pháp liệt kê đã nhấn mạnh hơn nữa những thay đổi đó. Cuộc sống hiện tại giờ đây nhộn nhịp hơn với “ngọn khói trăm tàu”,”lửa trăm nhà”, “niềm vui trăm ngả”. Tác giả Nguyễn Duy cũng đã từng miêu tả cuộc sống mới sau khi đất nước giành được độc lập qua những chi tiết “ánh điện”, “cửa gương”, “đèn điện”, “phòng buyn – đinh” trong bài thơ “Ánh trăng”.

Như vậy, sự thay đổi của cuộc sống con người luôn là một vận động mang tính quy luật và tất yếu. Nhưng trong tâm hồn người cháu vẫn luôn khắc khoải, thường trực nỗi nhớ về người bà: “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”. Câu hỏi tu từ đã tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng bởi ở khổ thơ đầu của bài thơ, tác giả cũng nhắc đến hình ảnh người bà và bếp lửa với ý nghĩa là nơi bắt đầu nỗi nhớ:

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớmMột bếp lửa ấp iu nồng đượmCháu thương bà biết mấy nắng mưa!”

Như vậy, nơi bắt đầu nỗi nhớ chính là hình ảnh quen thuộc, ấm áp của tình bà cháu, và kết thúc bài thơ, hình ảnh đó tiếp tục xuất hiện và được nhấn mạnh hơn nữa thông qua câu hỏi tu từ, cho thấy nỗi nhớ về người bà tần tảo sớm hôm luôn khắc khoải và thường trực trong tâm hồn của tác giả dẫu cho thời gian không ngừng chảy trôi và nhịp sống đã đổi khác.

Nỗi nhớ của tác giả về những năm tháng tuổi thơ được sống trong tình yêu thương của người bà không chỉ tái hiện câu chuyện cảm động về tình cảm bà cháu thiêng liêng, cao quý mà còn thể hiện vẻ đẹp của lối sống “uống nước nhớ nguồn”. Dẫu cuộc sống đổi thay theo hướng hiện đại nhưng người cháu vẫn luôn “chẳng lúc nào quên nhắc nhở” bản thân trân trọng những giá trị, những kỉ niệm thuộc về quá khứ.

Nếu như sự “giật mình” thức tỉnh của nhà thơ Nguyễn Duy về lối sống ân nghĩa thủy chung được gợi nên từ “vầng trăng tình nghĩa” thì tác giả Bằng Việt lại không ngừng tự nhắc nhở bản thân nhớ về những gì đã qua. Dù cuộc sống đổi khác nhưng quá khứ vẫn luôn sống động trong tâm hồn tác giả.

Như vậy, thông qua nỗi nhớ thường trực, khắc khoải của người cháu, chúng ta có thể thấy được tình cảm sâu nặng đối với cội nguồn. Đồng thời, nỗi nhớ đó đã góp phần tô đậm hơn nữa tình cảm bà cháu thiêng liêng, cao quý. Tất cả đã được làm nổi bật thông qua hệ thống hình ảnh thơ hết sức bình dị, gần gũi nhưng vẫn giàu sức gợi, tạo nên dòng cảm xúc chân thành, tha thiết nhưng vẫn ẩn chứa những bài học triết lí về đạo lí “uống nước nhớ nguồn” và trân trọng quá khứ.

Tiếp tục tham khảo 🌳 Sơ Đồ Tư Duy Đồng Chí Chính Hữu 🌳 14 Mẫu Vẽ Tóm Tắt

Từ khóa » Nhen Bếp Lửa