Cảm Nhận Khổ 2 Bài Nói Với Con ❤️️12 Bài Cảm Nghĩ Hay

14+ Bài Văn Phân Tích Nói Với Con Khổ 2 Hay Nhất ✅ Tham Khảo Tuyển Tập Những Bài Văn Đặc Sắc Cảm Nhận Khổ Bài Nói Với Con.

NỘI DUNG BÀI VIẾT

Toggle
  • Cách Phân Tích Nói Với Con Khổ 2
  • Dàn Ý Phân Tích, Cảm Nhận Khổ 2 Bài Nói Với Con
  • 14+ Mẫu Cảm Nhận, Phân Tích Nói Với Con Khổ 2
    • Phân Tích Nói Với Con Khổ 2 Ngắn Nhất
    • Phân Tích Khổ 2 Bài Nói Với Con của Y Phương
    • Cảm Nhận Bài Thơ Nói Với Con Khổ 2 Hay
    • Cảm Nhận Bài Thơ Nói Với Con Đoạn 2
    • Phân tích nói với con 2 khổ đầu
    • Phân Tích Khổ 2 Của Bài Nói Với Con Đặc Sắc
    • Cảm Nhận Về Khổ 2 Bài Nói Với Con
    • Văn Mẫu Phân Tích Về Đoạn 2 Bài Nói Với Con
    • Bài văn cảm nhận nói với con khổ 2
    • Đoạn văn phân tích nói với con khổ 2 ngắn gọn
    • Cảm Nhận Đoạn 2 Bài Thơ Nói Với Con Ngắn Hay
    • Phân tích nói với con khổ 2 học sinh giỏi
    • Phân Tích Đoạn Hai Bài Thơ Nói Với Con Hay
    • Bài Văn Cảm Nhận Khổ 2 Nói Với Con Giàu Hình Ảnh

Cách Phân Tích Nói Với Con Khổ 2

Để phân tích khổ thứ hai của bài thơ “Nói với con” của Y Phương, chúng ta cần tập trung vào việc làm nổi bật những phẩm chất cao quý của “người đồng mình” mà tác giả muốn truyền đạt. Dưới đây là cách phân tích chi tiết:

Mở bài: Giới thiệu bài thơ và tác giả, cũng như ý nghĩa của khổ thơ trong toàn bộ tác phẩm.

Thân bài:

  1. Phân tích từ ngữ và hình ảnh:
    • “Người đồng mình”: Cụm từ thể hiện sự gắn bó, yêu thương và đồng cảm với những người cùng quê hương, cùng cội nguồn.
    • “Cao đo nỗi buồn, xa nuôi chí lớn”: Sử dụng không gian “cao” và “xa” để biểu thị cho những khó khăn và thách thức, đồng thời cũng là tâm hồn rộng mở, phóng khoáng của người đồng mình.
  2. Phân tích ý nghĩa:
    • Khổ thơ thể hiện sự kiên cường, lạc quan của người đồng mình trước những gian khó của cuộc sống.
    • “Sống trên đá không chê đá gập ghềnh, sống trong thung không chê thung nghèo đói”: Là lời khẳng định về sức sống mạnh mẽ, không khuất phục trước hoàn cảnh.
    • “Sống như sông như suối, lên thác xuống ghềnh”: Hình ảnh ẩn dụ cho cuộc sống tự do, phóng khoáng, không ngừng chảy trôi và vượt qua mọi trở ngại.
  3. Phân tích giá trị nhân văn:
    • Bài thơ gửi gắm thông điệp về việc giáo dục thế hệ trẻ, truyền đạt những giá trị truyền thống và đạo lý làm người.
    • “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương”: Biểu tượng cho ý chí tự lập, tự cường và khát vọng xây dựng quê hương.

Kết bài: Khẳng định lại giá trị của khổ thơ và bài thơ, cũng như tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát huy những phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình.

Đây là cách phân tích khổ thứ hai của bài thơ “Nói với con” một cách sâu sắc và toàn diện, giúp hiểu rõ hơn về thông điệp và giá trị nhân văn mà Y Phương muốn truyền tải qua tác phẩm của mình. Để có cái nhìn chi tiết hơn, bạn có thể tham khảo các bài phân tích khổ thơ này bên dưới.

Tặng bạn tuyển tập văn mẫu ➡️ Phân Tích Nói Với Con Của Y Phương

Dàn Ý Phân Tích, Cảm Nhận Khổ 2 Bài Nói Với Con

Scr.vn chia sẻ cho bạn mẫu dàn ý cảm nhận về khổ 2 bài thơ Nói với con chi tiết dưới đây, hãy tham khảo để triển khai thành bài văn hoàn chỉnh nhé!

I. Mở bài:

  • Giới thiệu chung về Y Phương và tác phẩm Nói với con.
  • Dẫn dắt vào khổ 2 bài thơ.

II. Thân bài:

* Vẻ đẹp phẩm chất của “người đồng mình”:

  • “Người đồng mình”: Những người cùng sinh sống trên một mảnh đất, vùng quê.
  • Người đồng mình “thương lắm”: sự đồng cảm, thấu hiểu, sẻ chia.
  • Tính từ “cao”, “xa”: mượn chiều kích của không gian để thể hiện tâm hồn rộng mở, phóng khoáng, bền gan, vững chí của “người đồng mình”.
  • “Gập ghềnh”, “nghèo đói”, “lên thác xuống ghềnh” kết hợp với từ phủ định “không chê”. “không lo” làm nổi bật sức sống mạnh mẽ, tấm lòng thủy chung, tinh thần lạc quan của con người.
  • “Sống như sông như suối”: sống cuộc đời tự do, phóng khoáng.

b. Lời dặn dò sâu sắc, thấm thía của cha:

  • “Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn”: mong muốn con hãy gìn giữ và phát huy những giá trị làm người cao quý của “người đồng mình”.
  • Nhắn nhủ con hãy sống tự tin, lạc quan, bền gan vững chí trong cuộc sống.
  • “Lên đường”: hành động trong tư thế chủ động, lấy phẩm chất của “người đồng mình” để vượt gian khó trên mỗi bước đường con đi.
  • “Không bao giờ nhỏ bé”: Con hãy sống một cuộc đời đường hoàng, bản lĩnh, tự tin để xứng đáng với gia đinh đình, với quê hương mình.

III. Kết bài: Khẳng định lại giá trị nội dung và vẻ đẹp nghệ thuật của đoạn thơ.

14+ Mẫu Cảm Nhận, Phân Tích Nói Với Con Khổ 2

Dưới đây là ba bài văn phân tích khổ thứ hai của bài thơ “Nói với con” của nhà thơ Y Phương, mỗi bài văn sẽ có cách tiếp cận và diễn giải khác nhau:

Phân Tích Nói Với Con Khổ 2 Ngắn Nhất

Khổ thứ hai của bài thơ “Nói với con” là lời khuyên của người cha dành cho con cái về cách sống và đối mặt với thử thách. “Người đồng mình” ở đây không chỉ là người cùng dân tộc mà còn là biểu tượng cho sức mạnh tinh thần và ý chí vươn lên.

“Cao đo nỗi buồn, xa nuôi chí lớn” là lời nhắc nhở con phải biết ước mơ và hướng tới những điều cao đẹp, dù cuộc sống có nhiều gian nan.

Phân Tích Khổ 2 Bài Nói Với Con của Y Phương

Gợi ý cho các em học sinh bài văn cảm nhận khổ 2 bài Nói với con ngắn gọn nhưng vẫn bao hàm được những ý diễn đạt chính.

Quê hương là đề tài quen thuộc và trở thành nguồn cảm hứng bất tận để người nghệ sĩ thể hiện tình yêu sâu sắc, thấm thía. Nếu nhà thơ Đỗ Trung Quân bày tỏ tình cảm đó bằng những vần thơ tha thiết cùng giai điệu êm dịu “Quê hương là chùm khế ngọt – Cho con trèo hái mỗi ngày…” thì tác giả Y Phương lại giãi bày tình yêu thiêng liêng đó thông qua những lời tâm tình của người cha dành cho người con.

Tình cảm cha con, gia đình đã được khái quát thành tình cảm quê hương hết sức tự nhiên. Điều này đã được thể hiện rõ qua khổ thơ thứ hai của bài thơ. Tác giả đã ngợi ca sức sống, những phẩm chất cao đẹp của người miền núi cùng mong ước thế hệ sau nối tiếp, phát huy những truyền thống của dân tộc, quê hương.

“Người đồng mình thương lắm con ơi…..Không lo cực nhọc”

Tác giả vẫn sử dụng lối nói giàu hình ảnh “người đồng mình” – cách xưng hô quen thuộc, trìu mến của người vùng cao để gợi lên sự thân thương, gần gũi nhưng cùng chung một gia đình. Hệ thống từ ngữ chọn lọc, đặc biệt là động từ “thương” kết hợp với từ chỉ mức độ “lắm” để thể hiện sự đồng cảm, sẻ chia về tinh thần đối với những những khó khăn, vất vả, sóng gió. Để vượt qua những điều đó, con người quê hương đã đo nỗi buồn bằng độ cao của bầu trời vời vợi, lấy xa của đất để làm thước đo đong đếm ý chí con người.

“Cao” và “xa” trong không gian đất trời đều là những khoảng không hữu hạn không điểm dừng, gợi lên tưởng đến những dãy núi cao, trùng điệp cùng sự rộng lớn, xa xăm. Sự chọn lọc ngôn ngữ tài tình, điêu luyện của nhà thơ đã thể hiện sự tăng tiến của ý chí con người: khó khăn, thử thách càng lớn thì bản lĩnh “người đồng mình” càng trở nên mạnh mẽ hơn, vượt qua cuộc sống đói nghèo, cơ cực của “đá gập ghềnh”, “thung nghèo đói”.

Trải qua mọi thiếu thốn, họ vẫn lạc quan, mạnh mẽ “sống” với tâm hồn phóng khoáng như thiên nhiên: “Sống như sông như suối”. Tác giả đã sử dụng thủ pháp đối lập “lên thác” – “xuống ghềnh” để thể hiện một cuộc sống lam lũ, vất vả chốn núi rừng. Từ đó, nhà thơ đã khái quát những vẻ đẹp truyền thống của người vùng cao:

“Người đồng mình thô sơ da thịtChẳng mấy ai nhỏ bé đâu conNgười đồng mình tự đục đá kê cao quê hươngCòn quê hương thì làm phong tục”

Cách gọi thân thương “Người đồng mình thô sơ da thịt” ẩn chứa niềm tự hào về những con người giản dị, chất phác, thật thà, đồng thời là lời ngợi ca ý chí, cốt cách không hề “nhỏ bé” của họ. Phẩm chất tốt đẹp của người dân miền cao đã được phác họa trong một tầm vóc kì vĩ, lớn lao hoàn toàn đối lập với vẻ ngoài “thô sơ da thịt”.

Đặc biệt, cách nói hình ảnh “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương” tạo nên một lối nói độc đáo, vừa diễn tả quá trình dựng nhà, dựng cửa làm nên truyền thống của người miền núi, vừa là hình ảnh ẩn dụ diễn tả ý thức tự tôn, tinh thần đề cao, nâng tầm, làm giàu đẹp mảnh đất quê hương. Những phong tục tập quán, truyền thống văn hóa của quê hương chính là điểm tựa tinh thần nâng đỡ và tạo động lực cho con người vượt qua mọi gian nan, thử thách.

Sau khi nêu bật những phẩm chất của “người đồng mình” bằng giọng điệu ngợi ca, tự hào, tác giả Y Phương đã khép lại bài thơ bằng những lời dặn dò ân cần, trìu mến:

“Con ơi tuy thô sơ da thịtLên đườngKhông bao giờ nhỏ bé đượcNghe con.”

Trong những câu thơ chan chứa tình yêu thương, chúng ta có thấy được niềm tin yêu, hi vọng mà người cha đã gửi gắm. Đó là mong ước khi khôn lớn, trưởng thành, tự tin “Lên đường” sải bước trên đường đời, người con vẫn khắc sâu những phẩm chất của “người đồng mình” và “không bao giờ được nhỏ bé” để bản lĩnh, kiên cường mạnh mẽ bước qua những gian khó, thử thách của cuộc đời. Lời dặn dò vì thế trở thành một bài học quý giá và có ý nghĩa giáo dục sâu sắc đối với thế hệ trẻ trong mọi thời đại.

Như vậy, bằng tài năng trong việc sử dụng ngôn từ, hình ảnh, tác giả Y Phương đã làm nổi bật những vẻ đẹp, phẩm chất cao quý của “người đồng mình”. Tất cả đã được thể hiện thông qua thể thơ tự do phù hợp với lối nói, tư duy khoáng đạt của người miền núi cùng giọng điệu thơ linh hoạt cùng sự kết hợp nhuần nhuyễn các biện pháp nghệ thuật.

Tham khảo văn mẫu ➡️Cảm Nhận Khổ Thơ Đầu Bài Nói Với Con ❤️️ 10 Bài Hay Nhất

Cảm Nhận Bài Thơ Nói Với Con Khổ 2 Hay

Văn mẫu cảm nhận bài thơ Nói với con khổ 2 hay sau đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho các em học sinh trong quá trình làm bài.

“Nói với con” là bài thơ tiêu biểu nhất của Y Phương. Qua khổ thơ 2, mượn lời nhắc nhở con về cội nguồn sinh thành, người cha khéo léo ca ngợi những vẻ đẹp trong phẩm chất cao quý của “người đồng mình”, ngợi ca bản sắc văn hóa của quê hương xứ sở. Những phẩm chất ấy không có gì lớn lao nhưng hết sức đáng tự hào và gìn giữ, là hành trang mà con cần phải mang theo khi bước vào cuộc đời lớn.

Phẩm chất cao quý của “người đồng mình” cứ hiện dần qua lời tâm tình của người cha. Đó là một cuộc sống tràn đầy niềm vui và lòng lạc quan:

“Cao đo nỗi buồnXa nuôi chí lớn”.

Cách đảo ngữ đầy thú vị khiến cho ý thơ cao vời, thanh thoát. Người miền núi lấy núi, lấy suối, lấy sông làm đơn vị đo. Tập quán ấy đi vào lời thơ Y phương trở nên hết sức ấn tượng. Người đồng mình cũng lắm suy tư (nỗi buồn). Người đồng mình tuy nghèo khó nhưng lúc nào cũng biết “nuôi chí lớn”. Họ mạnh mẽ, kiêu hãnh sinh tồn giữa đại tự nhiên đầy khắc nghiệt và bí ẩn. Chưa bao giờ họ bị khuất phục. Đó chính là phẩm chất đáng tự hào mà Y Phương muốn nói đến.

Đó còn là tấm lòng thuỷ chung của “người đồng mình” với nơi chôn rau cắt rốn:

“Sống trên đá không chê đá gập ghềnhSống trong thung không chê thung nghèo đói”

Bằng những điệp từ, điệp ngữ, cách so sánh cụ thể, kết hợp với kiểu câu ngắn dài khác nhau, lời tâm tình của người cha đã góp phần khẳng định người miền núi tuy cuộc sống hôm nay còn vất vả, khó nhọc, “lên thác xuống ghềnh” nhưng họ vẫn sống mạnh mẽ, khoáng đạt “như sông như suối”, bền bỉ, gắn bó và tha thiết với quê hương. Từ đó người cha mong muốn con phải có nghĩa tình chung thuỷ với quê hương. Biết chấp nhận và vượt qua những khó khăn, thử thách bằng ý chí, nghị lực và niềm tin của mình.

“Người đồng mình” mộc mạc, dung di, giàu ý chí và niềm tin. Họ tuy “thô sơ da thịt” nhưng không hề nhỏ bé về tâm hồn và ý chí. Họ biết lo toan và mong ước. Họ biết tự lực, tự cường xây dựng quê hương, duy trì truyền thống với những tập quán tốt đẹp của “người đồng mình”:

“Người đồng mình đục đá kê cao quê hươngCòn quê hương thì làm phong tục”

Câu thơ có 2 lớp nghĩa. Về nghĩa tả thực: Đục đá kê cao quê hương là hành động có thật thường thấy ở miền núi. “Quê hương” vốn là khái niệm trừu tượng, chỉ nơi chốn sinh thành của một người nào đó. Họ thường xây dựng nhà cửa trên những miền đất cao đầy sỏi đá để có cơ ngơi vững chắc, chống chọi lại với thiên nhiên khắc nghiệt. Từ ngàn năm xưa họ sống với đá, sống trên đá. Đá núi trở thành một phần quen thuộc trong cuộc sống của họ, biểu trưng cho ý chí kiên cường, rắn rỏi, không bao giờ bị khuất phục.

Nghĩa ẩn dụ: Nói đục đá kê cao quê hương. Hình ảnh thơ khái quát về tinh thần tự tôn, ý thức bảo tồn cội nguồn. Tình yêu và niềm tự hào của con và tất cả “người đồng mình” cũng vững bền như đá núi vậy. Đó là một niềm tin vĩnh cửu, không gì thay đổi được. người cha muốn ca nằm lòng điều đó dẫu cuộc sống sau này có thay đổi như thế nào.

Kết thúc bài thơ là lời nhắn nhủ, dặn dò và hi vọng của người cha mong muốn con mình phải tự hào về truyền thống tốt đẹp của quê hương mình. Hãy lấy những tình cảm đó làm hành trang để vững bước trên đường đời rộng lớn”

“Con ơi tuy thô sơ da thịtLên đườngKhông bao giờ nhỏ bé đượcNghe con”.

Hình ảnh người đồng mình “thô sơ da thịt” lặp lại hai lần như muốn con ghi nhớ sâu sắc về hình ảnh con người và quê hương mình. “Người đồng mình” tuy mộc mạc, chân chất nhưng có lẽ sống cao đẹp. Trên đường đời con phải sống cao thượng, tự trọng để xứng đáng với “người đồng mình” đã từng sống, từng yêu như thế.

Con là đại diện của người đồng mình, con mang theo những phẩm chất của người đồng mình thế nên “bao giờ nhỏ bé được”, dù con đường phía trước còn đầy chông gai. Con hãy tự tin bước đi, bởi sau lưng con có gia đình, có quê hương, bởi trong tim con sẵn ẩn chứa những phẩm tốt đẹp và quý báu của “người đồng mình” rồi.

Hai tiếng “nghe con” chứa đựng tấm lòng yêu thương và niềm tin sâu nặng cha đặt nơi con. Hai tiếng ấy khép lại bài thơ để lại một dư âm nhẹ nhàng mà âm vang xao xuyến.

Với thể thơ tự do, mạch cảm xúc tự nhiên, cách nói giàu hình ảnh vừa mộc mạc mà vẫn giàu chất thơ, cụ thể mà giàu sức khái quát, bài thơ thể hiện tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ, những phẩm chất cao quý của “người đồng mình”, của quê hương nguồn cội. Khổ thơ 2 của bài thơ giúp ta hiểu thêm về sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của một dân tộc miền núi, gợi nhắc tình cảm gắn bó với truyền thống, với quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống.

Tham khảo thêm ➡️Cảm Nhận Bài Thơ Nói Với Con ❤️️ 16 Bài Cảm Nghĩ Hay Nhất

Cảm Nhận Bài Thơ Nói Với Con Đoạn 2

Bài văn cảm nhận bài thơ Nói với con đoạn 2 chi tiết sẽ giúp các em học sinh nhanh chóng ôn tập và chuẩn bị cho bài viết trên lớp của mình.

Y Phương là một nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam, ông sinh ra và lớn lên tại tỉnh Cao Bằng- cái nôi văn hóa của người Tày. Có lẽ chính vẻ đẹp của non nước Cao Bằng hùng vĩ, nên thơ cũng như bản sắc văn hóa độc đáo của dân tộc Tày đã thấm sâu vào tâm hồn nhà thơ, góp phần làm nên chất nghệ sĩ trong ông.

Với quan niệm nghệ thuật đa chiều cùng cảm quan tinh tế của người nghệ sĩ, ông đã để lại cho văn học nước nhà nhiều bài thơ hay. Một trong số đó phải kể đến thi phẩm Nói với con- một bông hoa trong sáng và tinh khôi viết về cuộc sống và con người nơi miền Đông Bắc của Tổ Quốc. Khổ hai bài thơ đã tập trung khắc họa vẻ đẹp của “người đồng mình”.

Với người cha, tâm hồn con không chỉ được nuôi dưỡng bởi văn hóa độc đáo của quê hương, được bao bọc, chở che bởi thiên nhiên thơ mộng, hữu tình mà hơn thế con còn được sống trong tình cảm nồng hậu, nghĩa tình của người quê hương. Cơ thể con, tiếng nói con, sức sống của con được bồi đắp bao vẻ đẹp phẩm chất của “người đồng mình”:

“Người đồng mình thương lắm con ơiCao đo nỗi buồn, xa nuôi chí lớn”

“Người đồng mình” là cách gọi gần gũi, thân thiết chỉ những người cùng sinh sống trên một mảnh đất, vùng quê. “Người đồng mình” – nghe sao thân thương đến lạ!, thật gần gũi, thật tự nhiên biết bao. Ở đây, mọi người đều sống chung trong một gia đình lớn, luôn bảo vệ và chia sẻ với nhau, thấu hiểu cả những nhọc nhằn vất vả, những mong ước và chí nguyện của nhau.

Người đồng mình “thương lắm ”, “thương” bởi cuộc sống còn nhiều gian khó, “thương” bởi những nhẫn nại, âm thầm, “thương” cả ý chí, bản lĩnh của người đồng mình trên mảnh đất quê hương. “Thương” ở đấy chính là sự cảm thông, thấu hiểu và sẻ chia.

“Cao đo nỗi buồn, xa nuôi chí lớn”

Tác giả đã sử dụng các tính từ “cao”, “xa”- những tính từ đặc tả không gian địa lý của vùng đất Cao Bằng, nơi mà “người đồng mình” đang sống. Một chốn không gian xa phố thị phồn hoa, nơi đây chỉ có núi cao hiểm trở. Tính từ “cao”, “xa” còn để chỉ nỗi buồn và chí lớn của con người nơi đây. Người đồng mình nén “nỗi buồn” ở lại để “chí lớn” đi xa. Tác giả đã mượn chiều kích của không gian để thể hiện tâm hồn rộng mở, phóng khoáng, thể hiện sự bền gan, vững chí của “người đồng mình”.

Lời thơ giản dị thấm đẫm lòng tự hào của người cha khi kể về “người đồng mình”, qua đó, ta còn thấy được một trái tim nhạy cảm, một tâm hồn đồng điệu của tác giả với nhân dân mình, hiểu và thương cuộc sống của nhân dân mình. Từ tiếng thơ tự hào ấy, tác giả cất tiếng lòng mình gửi gắm mong muốn đến con, rằng con hãy sống một cuộc đời bản lĩnh, sống ân nghĩa, thủy chung, tiếp nối những giá trị vĩnh cửu của “người đồng mình:

“Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn….Không lo cực nhọc”.

Ba tiếng “dẫu làm sao” chất chứa cả những nhọc nhằn, vất vả của cuộc sống, chứa đựng cả những đấu tranh tâm lý bên trong người cha. “Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn” là một nốt lặng thiết tha nhưng cũng là một tiếng nói đầy quyết liệt, mong muốn con hãy gìn giữ và phát huy những giá trị làm người cao quý của “người đồng mình”.

Những tính từ “gập ghềnh”, “nghèo đói”, thành ngữ” lên thác xuống ghềnh” càng khắc họa những gian nan, trắc trở, những bấp bênh, vất vả của cuộc sống. Đó là những thử thách mà bất kì ai cũng sẽ phải trải qua, bởi vậy mà cha mong con hãy dùng bản lĩnh để vượt qua. Điệp từ “sống” đứng đầu câu kết hợp với các từ phủ định “không chê” đã khẳng định một thái độ sống đầy tích cực trên hành trình cuộc đời.

Hình ảnh so sánh độc đáo “sống như sông như suối’ mang trong đó cả một lời khuyên ý vị của cha cho con, rằng con hãy sống một cuộc đời tự do, rộng mở, dẫu bao thác ghềnh vẫn vượt qua, tưới mát đời bằng những giọt trong xanh.

“Người đồng mình thô sơ da thịtChẳng mấy ai nhỏ bé đâu conNgười đồng mình tự đục đá kê cao quê hươngCòn quê hương thì làm phong tục.”

“Người đồng mình” được tiếp tục sử dụng khẳng định sự gắn kết thiêng liêng của con với con người quê hương mình. Biện pháp tương phản qua hai hình ảnh “thô sơ da thịt” và “chẳng mấy ai nhỏ bé” đầy mộc mạc, giản dị càng tô đậm ý chí, nghị lực phi thường của người lao động nơi đây. Ở họ luôn khao khát được vươn ra biển lớn, luôn sống với những ước mơ, hoài bão của mình khát khao vươn đến những điều tốt đẹp.

Nét vẽ gân guốc “người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương” khắc họa rõ nét tinh thần tự lực, tự cường, dựng xây quê hương giàu đẹp, bằng bàn tay và khối óc của mình họ hun đúc nền văn hóa độc đáo cho chính dân tộc mình. Quê hương cũng vậy, càng giàu đẹp, thịnh vượng thì đời sống con người càng thay đổi, vui tươi và hạnh phúc. Những câu thơ cuối khổ là khúc hát lên đường cũng là lời nhắn nhủ đầy tâm tình của cha:

“Con ơi tuy thô sơ da thịtLên đườngKhông bao giờ nhỏ bé đượcNghe con.”

Giọng diệu thiết tha, trìu mến, chất chứa tin yêu của cha trên hành trình con đi phía trước. “Lên đường” – hành động ấy con phải thực hiện trong tư thế chủ động, lấy phẩm chất của “người đồng mình” để vượt gian khó trên mỗi bước đường con đi. Chúng ta có thể còn “thô sơ” còn nghèo khó, còn cực khổ, còn vất vả, còn thiếu thốn nhưng không bao giờ “nhỏ bé”.

Chúng ta sống trên đá, mang vóc hình của núi đá, vì vậy hãy mang cả ý chí mạnh mẽ, sự cứng cỏi và kiên cường của đá núi để tự tin bước vào đời. Hãy sống một cuộc đời đường hoàng, bản lĩnh, tự tin để xứng đáng với gia đinh đình, với quê hương mình.

Bằng thể thơ tự do, giọng điệu thiết tha, trìu mến, những hình ảnh giản dị, mộc mạc, mà chân thực, giàu chất thơ, Y Phương đã viết nên những vần thơ đầy đẹp đẽ. Đoạn thơ đã gợi nhắc trong mỗi chúng ta tình cảm gắn bó với con người, với truyền thống đẹp đẽ của quê hương, dân tộc mình và nuôi dưỡng ý chí vượt lên khó khăn để vững bước vào đời.

Xem thêm ➡️Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ Sang Thu ❤️️bên cạnh bài Cảm Nhận Khổ 2 Bài Nói Với Con

Phân tích nói với con 2 khổ đầu

Chia sẻ ngay cho các em học sinh một bài văn mẫu về chủ đề Cảm nhận về khổ 2 bài thơ Nói với con hay nhất dưới đây để tham khảo.

Ai đã đọc qua bài thơ “Nói với con” của Y Phương hẳn sẽ xuất hiện không ít cảm xúc, nỗi xúc động về tình cảm gia đình cũng như tình quê hương thắm thiết. Nổi bật trên nền cảnh núi rừng Tây Bắc là vẻ đẹp đời sống và phẩm chất của “người đồng mình” cần cù nhẫn nại, gắn kết muôn đời với quê hương, với cội rễ sinh thành khiến ta thêm trân trọng và mến yêu được thể hiện rõ nét qua đoạn 2 bài thơ.

Ở đoạn 2 bài thơ “Nói với con”, Nhà thơ Y Phương đã dùng những lời thơ mộc mạc, chân thành để khắc họa hình ảnh “người đồng mình” trong mối liên hệ giữa con người và nguồn cội sinh thành. Tuy cuộc sống khó khăn, gian khổ, nhưng lúc nào họ cũng ngời sáng ý chí vươn lên:

“Người đồng mình thương lắm con ơiCao đo nỗi buồnXa nuôi chí lớn”.

Từ “thương lắm” xuất phát từ tấm lòng đồng cảm, tri ân những con người đã bao đời làm nên bản sắc của cuộc sống “người đồng mình”. Giữa đại ngàn bao la, “người đồng mình” muôn đời vẫn không thôi ước vọng vươn cao, vươn xa.

Cách dùng đảo ngữ tinh tế khiến cho lời thơ thanh thoát lạ thường. Dù biết là khó khăn, nhưng ước mơ không bao giờ vơi cạn. Đó chính là nguồn cội sức mạnh giúp họ sinh tồn và vươn tới cuộc sống tươi đẹp. Y Phương thấu hiểu, trân trọng và lấy điều đó làm bài học dạy con. Một lần nữa, vẻ đẹp đời sống và phẩm chất của “người đồng mình” hiện lên thật cao đẹp:

“Dẫu làm sao thì cha vẫn muốnSống trên đá không chê đá gập ghềnhSống trong thung không chê thung nghèo đói”.

Biện pháp điệp cấu trúc “sống – không chê” và nghệ thuật so sánh vẽ ra hình ảnh cuộc sống của người đồng mình đầy khó nhọc nhưng hào hùng, mạnh mẽ. Cuộc sống có thể gian khổ nhưng tâm hồn lúc nào cũng thanh cao, lạc quan, yêu đời. Họ biết chấp nhận và trân trọng cuộc sống vốn có; biết cải tạo nó theo chiều hướng tốt đẹp và gìn giữ cho muôn đời sau. Càng khó khăn, gian khổ, họ càng biết nương tựa vò nhau, dựng xây một lối sống bao dung, hài hòa với thiên nhiên:

“Sống như sông như suốiLên thác xuống ghềnhKhông lo cực nhọc”.

Với giọng điệu dịu dàng, yêu thương và trìu mến, cùng cách diễn tả mộc mạc, chất phác đúng chuẩn chất giọng dân tộc Tày – quê hương tác giả, ở vùng Cao Bằng cùng với lối ví von, so sánh thường thấy trong trong các bài thơ dịu nhẹ, Y Phương đã chỉ ra được nét đặc sắc qua lời tâm tình của người cha đối với con.

Con thường được lớn lên trong sự chở che, nuôi dưỡng của cha mẹ. Với cách tư duy riêng, tác giả đã nói lên sự vất vả ở các vùng quê miền núi khó khăn, “gập ghềnh”, “nghèo đói”. Đó cũng là niềm tự hào, lời ca ngợi vẻ đẹp đời sống và phẩm chất của “người đồng mình” mà nhà thơ đã dành tặng cho quê hương, dân tộc mình.

Tính cách người miền núi lại vô tư, không toan tính hay ích kỉ, keo kiệt, giữ của cho riêng mình. Họ có gì họ cho nấy. Phép so sánh “Sống như sông như suối” gợi lên vẻ đẹp tâm hồn và ý chí của người đồng mình: đó là sức sống mạnh mẽ, bền bỉ. Tuy gian nan và cực nhọc, họ vẫn ngập tràn khí phách, tâm hồn lãng mạn, khoáng đạt như hình ảnh bạt ngàn của sông núi. Tuy mộc mạc và giản dị nhưng lại giàu có về ý chí, tâm hồn. Tình cảm của họ trong trẻo, dạt dào như dòng suối không bao giờ cạn, niềm tin yêu cuộc sống, con người.

“Người đồng mình thô sơ da thịtChẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”

Một lần nữa, “người đồng mình” được lặp lại với biết bao trìu mến. Người đồng mình “tuy thô sơ da thịt” nhưng “chẳng mấy ai nhỏ bé”. Dù trong bất kì hoàn cảnh nào, “người đồng mình” cũng luôn đề cao danh dự, nhân phẩm và biết gìn giữ, bảo vệ lấy như chính sinh mệnh của mình. Họ không vì đời sống vật chất mà đánh đổi lương tâm, phản bội núi rừng, phản bội quê hương.

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hươngCòn quê hương thì làm phong tục”.

Niềm tự hào về sức mạnh sinh tồn và vẻ đẹp văn hóa “người đồng mình” khiến cho lời thơ càng thêm tha thiết. Tuy đó chưa hẳn là những giá trị lớn lao khi so sánh với những giá trị tương đồng nhưng sẽ là lớn nhất, quý nhất đối với “người đồng mình”. Họ tự hào và kiêu hãnh khi đã dựng nên quê hương trên núi đá, sinh tồn ngay giữa vùng đất dữ dội và chinh phục thế giới xung quanh bằng chính sức mạnh của văn hóa cộng đồng.

Họ hiểu rõ, nếu không gìn giữ và phát huy sức mạnh ấy, một ngày nào đó, quê hương của họ sẽ sớm tàn lụi, mọi công sức của cha ông đều tiêu tan trước sức mạnh của tự nhiên vĩ đại. Họ cũng hiểu rõ, ở ngoài kia luôn có những điều tốt đẹp hơn nhưng họ mong muốn mọi thế hệ mai sau không vì sự hẹp hòi, ích kỉ của bản thân mà thay đổi mình:

“Con ơi tuy thô sơ da thịtLên đườngKhông bao giờ nhỏ bé đượcNghe con”.

Cách diễn đạt của tác giả kèm với biện pháp nghệ thuật đã góp phần khiến bài văn trở nên sinh động và giàu tính nhạc hơn. Việc điệp cấu trúc đã tạo nên nét riêng cho bài thơ giúp độc giả có những ấn tượng sâu sắc hơn mà ít bài thơ khác có thể đi sâu vào lòng người đến vậy.

Y Phương dùng cả hai biện pháp trên chủ yếu để nhấn mạnh, nhắc nhở, “khắc cốt ghi tâm” người con rằng tuy có vất vả, gian lao thế nào thì cũng không chê bai, trách móc mà hãy hòa mình vào nó. Có gì ăn nấy, sống thanh thản thoải mái, không chạy đua với cuộc sống thành thị, đua đòi. Nhà thơ đã một phần thay lời cha dặn con phải chịu khó, chung thủy với đất rừng, quê hương, tổ tiên mà mỗi ai cũng cần phải giữ lấy nhưng ít ai làm được.

Lời thơ tha thiết, thủ thỉ, tâm tình, dặn dò. Lời cha gửi gắm đến con về bổn phận phải biết tự hào, yêu thương, tôn trọng và gìn giữ truyền thống quê hương cũng là lời nhắc nhở chúng ta phải sống có trách nhiệm với quê hương, đất nước.

Người ta chỉ có thể tách con người ra khỏi quê hương chứ không thể tách quê hương ra khỏi con người. Qua vẻ đẹp đời sống và phẩm chất của “người đồng mình” cùng tình cảm thiết tha của nhà thơ Y Phương, đoạn thơ 2 bài thơ “Nói với con” đã giúp ta hiểu thêm về sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của một người miền núi. Đồng thời gợi nhắc tình cảm gắn bó với truyền thống, quê hương mà bấy lâu nay ta đã chôn vùi

Tham khảo➡️ Cảm Nhận Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá ❤️️ ngoài bài Cảm Nhận Khổ 2 Bài Nói Với Con

Phân Tích Khổ 2 Của Bài Nói Với Con Đặc Sắc

Cùng học hỏi cách viết văn thông qua bài văn cảm nhận khổ 2 của bài Nói với con đặc sắc sau đây.

Trong nền văn học Việt Nam, Y Phương là nhà thơ có phong cách sáng tác vô cùng độc đáo qua tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của người miền núi. Điều này đã được thể hiện rõ thông qua bài thơ “Nói với con”. Bài thơ là lời người cha nói với con về cội nguồn sinh dưỡng của con. Đặc biệt, qua khổ thơ thứ hai, tác giả đã ca ngợi sức sống mạnh mẽ, bền bỉ của quê hương mình, mong con tiếp nối và phát huy truyền thống tốt đẹp đó.

Bằng lời nói giản dị, mộc mạc gợi bao yêu thương và gần gũi, trong khổ thơ thứ hai, tác giả đã tái hiện thành công vẻ đẹp của người đồng mình. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp điệp ngữ thông qua cụm từ “Người đồng mình” được lặp đi lặp lại nhằm khẳng định vẻ đẹp của “người đồng mình” chính là phẩm chất của quê hương.

Đặc biệt, trong khổ thơ, cách tư duy giàu hình ảnh người miền núi đã được tác giả vận dụng qua câu thơ: “Cao đo nỗi buồn/ Xa nuôi chí lớn”. Bằng lối nói cân xứng, nhịp nhàng, đăng đối giữa hai câu thơ, kết hợp sử dụng những tình từ vốn để diễn tả khoảng cách không gian như “cao”, “xa”, nhà thơ Y Phương đã khắc họa thành công vẻ đẹp của “người đồng mình”. Đó là tầm cao của lối sống tâm hồn và ý chí nghị lực phi thường của người đồng mình. Dù cuộc sống phải trải qua nhiều khó khăn, cực nhọc, nhưng họ vẫn giữ được sự lạc quan.

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh…..Không lo cực nhọc

Thông qua biện pháp tu từ điệp ngữ kết hợp hình ảnh so sánh cụ thể “Sống như sông như suối” cùng việc vận dụng các kiểu câu ngắn dài khác nhau, cuộc sống cùng phẩm chất của “người đồng mình” đã được khắc họa rõ nét. Dẫu phải trải qua nhiều khó khăn, “lên thác xuống ghềnh” nhưng họ vẫn sống khoáng đạt, mạnh mẽ như sông như suối. Đặc biệt là luôn giữ vững tinh thần lạc quan, niềm vui đối diện và vượt qua mọi thử thách, gian nan bằng ý chí, nghị lực và niềm tin để gắn bó với quê hương:

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hươngCòn quê hương thì làm phong tục

Thông qua việc sử dụng động từ “tự đục đá kê cao”, câu thơ đã diễn tả hành động dựng nhà dựng cửa quen thuộc của người miền núi. Tuy nhiên, quê hương vốn là một khái niệm trừu tượng, bởi vậy hình ảnh trên còn là biểu tượng ẩn dụ cho tinh thần tự tôn, ý thức bảo vệ cội nguồn của đồng bào miền núi. Bằng sự lao động cần cù, nhẫn nại, họ đang làm nên những phong tục, tập quán tốt đẹp cho quê hương. Câu thơ đã chất chứa niềm tự hào của người cha khi nói về quê hương của mình.

Qua khổ thơ thứ hai, chúng ta còn thấy được ước mong của người cha. Qua câu thơ “Dẫu làm sao thì cha cũng muốn”, tác giả đã thể hiện mong muốn con hãy kế tục xứng đáng những phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình. Đặc biệt, người cha mong muốn người con đem những truyền thống tốt đẹp của quê hương trở thành hành trang để con vững bước vào đời:

Con ơi, tuy thô sơ da thịtLên đườngKhông bao giờ nhỏ bé đượcNghe con

Bằng những hình ảnh cụ thể, mộc mạc cùng giọng điệu thiết tha, trìu mến, lời dặn dò, nhắn nhủ của người cha đã được thể hiện một cách trực tiếp. Dù con đường phía trước còn nhiều chông gai, và con người chỉ “thô sơ da thịt” nhưng con “không bao giờ nhỏ bé được”.

Câu thơ thể hiện mong muốn người con luôn vững bước trên đường đời bởi hành trang của con có gia đình, quê hương, bởi trong tim con vẫn luôn ẩn chứa những phẩm chất quý báu của người đồng mình. Đồng thời, người cha mong con hãy tự tin bước vào đời, hãy kế tục và phát huy xứng đáng những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Lời cha dặn là lời gửi trao thiêng liêng là lời chuyển giao của các thế hệ người Việt Nam.

Như vậy, thông qua khổ thơ thứ hai, tác giả Y Phương đã khắc họa thành công những vẻ đẹp, phẩm chất của con người, quê hương. Qua đó gửi gắm bức thông điệp về ý chí, nghị lực cùng niềm tin, ước mong con vững bước, trưởng thành và sống xứng đáng với quê hương. Tình yêu thương đối với người con đã hòa với tình yêu dân tộc, quê hương, tạo thành một tình cảm thiêng liêng, cao đẹp.

Xem thêm ➡️Cảm Nhận 2 Khổ Thơ Cuối Bài Sóng ❤️️bên cạnh bài Cảm Nhận Khổ 2 Bài Nói Với Con

Cảm Nhận Về Khổ 2 Bài Nói Với Con

Bài văn mẫu cảm nhận về khổ 2 bài Nói với con ấn tượng sẽ giúp các em học sinh tham khảo những ý văn hay cũng như cách diễn đạt khéo léo, hấp dẫn thu hút người đọc.

Y Phương sinh năm 1948, tên thật là Hứa Vĩnh Sước, là nhà thơ người dân tộc Tày. Ông nổi tiếng với lối viết tự nhiên, giàu hình ảnh, lời thơ trong sáng, tự nhiên, giản dị, mang đậm âm hưởng của người dân tộc miền núi phía Bắc. Y Phương là một trong số ít các nhà thơ dân tộc thiểu số có tác phẩm được đưa vào chương trình giáo dục văn học Việt Nam.

Nói với con là tác phẩm nổi tiếng nhất của nhà thơ, với cách viết gần gũi thông qua lời tâm tình của người cha với đứa con nhỏ, đặc biệt trong khổ thơ thứ hai, tác giả đã kín đáo bộc lộ được vẻ đẹp phẩm chất, tâm hồn của người đồng mình trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, dẫu còn nhiều khó khăn vất vả.

Nếu như ở khổ thơ thứ nhất tác giả tập trung thể hiện vẻ đẹp của người đồng mình thông qua cuộc sống lao động, trong những nét phong tục tập quán đặc sắc, thì đến khổ thơ thứ hai tác giả tập trung vào những nét đẹp tâm hồn, phẩm chất quý giá của người đồng bào dân tộc miền núi phía Bắc:

“Người đồng mình thương lắm con ơiCao đo nỗi buồn, xa nuôi chí lớn”

Tác giả tiếp tục sử dụng cụm từ “người đồng mình” tức là chỉ dân tộc mình, thể hiện sự gắn kết, thân thuộc của những con người có cùng nguồn cội, chung sống hòa hợp với nhau như một đại gia đình. Chính vì thế khi đóng vai trò là một thành viên trong gia đình lớn ấy người cha đã nói lên mấy chữ “thương lắm con ơi” thể hiện tấm lòng đồng cảm sâu sắc, thấu hiểu cho những nỗi vất vả, khó nhọc của những con người sống tận nơi vùng núi xa xăm.

Thế nhưng những khó khăn của hoàn cảnh cũng chẳng ngăn được ý chí, tấm lòng của họ, “Cao đo nỗi buồn, xa nuôi chí lớn”. “Cao” và “xa” là hai từ ngữ ám chỉ khoảng cách địa lý và không gian sinh sống của người đồng mình với những điều kiện hết sức khó khăn.

Đó là nơi rừng sâu, núi cao đầy hiểm trở, lại xa xôi so với phố thị đồng bằng, phương tiện qua lại hầu như hiếm hoi. Thế nhưng không vì thế mà “người đồng mình” chịu lùi bước, cam chịu cuộc sống vất vả, lầm lũi, mà trái lại chính những điều kiện ngặt nghèo, không gian sống đặc biệt đã trở thành nền tảng nuôi dưỡng trong lòng họ ý chí vượt khó mạnh mẽ, sự cố gắng không ngừng nghỉ.

Câu thơ “Xa nuôi chí lớn” dù ngắn ngủi, giản đơn nhưng bộc lộ rõ ý chí kiên cường, bản lĩnh vững vàng, không ngại gian khó của người đồng mình trong cuộc sống.

Lời thơ mộc mạc, chất liệu thô sơ nhưng thể hiện thật chân thành tấm lòng thương cảm ngậm ngùi của tác giả đối với cuộc sống của người đồng mình, đồng thời là tấm lòng lòng tự hào trước những vẻ đẹp tâm hồn đáng quý của dân tộc. Từ đó người cha nhắn nhủ với đứa con của mình những lối sống đẹp đẽ, cần phải học tập và phát huy để có thể kế thừa truyền thống, lập nên ý chí kiên cường của bản thân, hòa vào sức mạnh dân tộc mình.

“Dẫu làm sao thì cha cũng muốn…..Lên thác xuống ghềnh không lo cực nhọc”

Lời người cha dặn con nghe thật giản dị, mà thấm thía với các chất liệu tự nhiên như hình ảnh sông, suối, núi đá, thác ghềnh, thung lũng,… Hình ảnh thơ giản dị, gần gũi giúp cho vần thơ thêm phần tự nhiên, chân chất, gây ấn tượng mạnh với độc giả. Lời dạy của một người cha đối với đứa con nhỏ thật sâu sắc, cảm động, cha không dạy con những thứ gì quá xa xôi mà nói với con bằng những vật thể tự nhiên gắn liền với đời sống, lối so sánh giản dị, dễ dàng khắc ghi vào đầu trẻ thơ.

Khuyên con rằng dẫu sống ở đâu là núi đá hay thung sâu cũng đừng bao giờ ghét bỏ, chùn bước trước điều kiện khó khăn vất vả. Thay vào đó hãy tìm cách khắc phục chúng, tìm cách thích nghi, linh hoạt như sông suối chảy từ rừng sâu, dù trải qua thác ghềnh, muôn vàn khó khăn, nhưng cuối cùng vẫn vươn ra biển lớn.

Trong cuộc sống này cũng vậy, đặc biệt là khi con sinh ra và lớn lên ở vùng núi phía Bắc xa xôi thì lại càng phải kiên cường, cố gắng gấp bội, không chỉ là phục vụ cuộc sống, mà còn phải góp sức xây dựng quê hương sớm ngày giàu mạnh. Không chỉ đơn thuần là lời khuyên cha dành cho con, mà ở những câu thơ này tác giả cũng khéo léo thể hiện vẻ đẹp phẩm chất của người đồng mình, ấy là sự thích nghi với mọi hoàn cảnh, không ngại gian khó, sẵn sàng đối mặt với sự thiếu thốn, cư trú ở nơi hiểm trở mà vẫn vui vẻ sinh sống làm ăn.

Không chỉ ở ý chí vượt khó, sự kiên cường trong tâm hồn mà vẻ đẹp phẩm chất của người đồng mình còn được thể hiện thông qua những phong tục tập quán có từ bao đời nay rằng:

“Người đồng mình thô sơ da thịtChẳng mấy ai nhỏ bé đâu conNgười đồng mình tự đục đá kê cao quê hươngCòn quê hương thì làm phong tục”

Tuy rằng người dân tộc thiểu số phía Bắc những năm sau kháng chiến còn khó khăn nhiều, trong công cuộc lao động họ chủ yếu dùng chính đôi bàn tay không để sản xuất, khai hoang đất đai, tạo lập cuộc sống mới, xây dựng quê hương mình.

Sự chai sần của từng đôi tay lao động và những vóc người nhỏ bé đã làm nên một vùng trời phía Bắc ngày càng trù phú, tốt đẹp, và để khẳng định sự nỗ lực, kiên cường trong lao động sản xuất ấy, Y Phương đã tinh tế viết rằng “Người đồng mình tuy thô sơ da thịt/Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”, ý rằng dẫu chỉ có đôi bàn tay không, với vóc người nhỏ bé, thế nhưng ý chí của người đồng mình luôn lớn lao, vững vàng hơn tất cả.

Sống trên núi đá hoang sơ, cằn cỗi, đôi bàn tay chai sần “tự đục đá kê cao quê hương”, làm nên diện mạo mới, cuộc sống mới cho dân tộc mình, tạo nên những giá trị vật chất, tinh thần cho quê hương xứ sở, dẫu rằng còn lắm gian lao vất vả và hơn hết là cần một sự kiên trì mạnh mẽ.

Nối tiếp câu thơ sau “Còn quê hương thì làm phong tục”, hai từ “quê hương” ở đây không đơn thuần là chỉ một vùng đất, mà nó còn là đại diện cho lớp lớp những con người đi trước đã tạo dựng, kết tinh, để lại cho thế hệ sau nhưng giá trị văn hóa, những phong tục truyền thống tốt đẹp. Trở thành bản sắc dân tộc, là thứ mà người đồng mình luôn cố gắng giữ gìn, đồng thời cố gắng phát huy hơn nữa, để nâng lên tầm vóc quê hương, xứ sở mình.

Nói với con là một trong những tác phẩm viết về đề tài người dân tộc miền núi phía Bắc đặc sắc và đáng chú ý nhất trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Bằng lối tư duy trong sáng, sinh động, lời thơ giản dị mang âm hưởng miền núi, chất liệu thơ lấy từ cuộc sống sinh hoạt, gần gũi, chất phác, tác phẩm đã mang đến cho người đọc những cảm nhận độc đáo.

Nó không chỉ đơn thuần thể hiện tình yêu thương tha thiết người cha dành cho đứa con nhỏ bằng những lời dạy vừa dịu dàng vừa nghiêm khắc, mà hơn thế nữa thông qua đó tác giả còn thể hiện được những vẻ đẹp phẩm chất tâm hồn đáng quý của người đồng mình, những con người luôn nỗ lực, cố gắng, ý chí kiên cường trong cuộc sống, bền bỉ trong lao động để xây dựng quê hương, đất nước.

Tham khảo👉 Cảm Nhận Khổ 3 Và 4 Bài Sóng ❤️️ngoài văn mẫu Cảm Nhận Khổ 2 Bài Nói Với Con

Văn Mẫu Phân Tích Về Đoạn 2 Bài Nói Với Con

Tham khảo cách hành văn mới lạ, cuốn hút người đọc với bài văn mẫu cảm nhận về đoạn 2 bài Nói với con chọn lọc.

Y Phương là một trong những nhà thơ dân tộc Tày nổi tiếng. Những bài thơ của ông thường thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ, lời thơ hay, giàu hình ảnh về những con người miền núi. Một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông phải kể đến bài thơ “Nói với con”, đây là bài thơ về tình cảm gia đình, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của con ngừời, quê hương đất nước.

Một trong những đoạn trích ấn tượng nhất là khổ thứ 2 của bài thơ. Đây là khổ thơ thể hiện lòng tự hào về sức sống mãnh liệt, bền bỉ, những truyền thống tốt đẹp cao cả của quê hương.

“Người đồng mình thương lắm con ơi

Cao đo nỗi buồn

Xa nuôi chí lớn

Tác giả sử dụng cụm từ “Người đồng mình” cho thấy sự gắn bó, yêu thương cội nguồn của người dân nơi đây. Người đồng mình chính là người vùng mình, đây là tiếng địa phương của dân tộc miền núi, tiếng mẹ đẻ hay nói đúng hơn là tiếng của cội nguồn. Lời nói của cha dành cho con mới chân thành, tha thiết và tình cảm làm sao.

Với cách gọi thân mật “người đồng mình” cha đang truyền cho con tình cảm, sự yêu thương và nhớ về cội nguồn dân tộc. Người cha cung mong con hãy biết trân trọng, giữ gìn những đức tính tốt đẹp, phẩm chất cao quý của dân tộc mình. Đặc biệt cụm từ “thương lắm con ơi” nghe tha thiết, tình cảm mà chân thành biết bao nhiêu.

Khi đọc xong câu thơ này chúng ta có cảm giác như đang được nhìn thấy hình ảnh ánh mắt trìu mến của cha kể về con người, quê hương đất nước. Cảm giác cha dành cho quê hương, người quê mình là tình yêu nồng nàn, tất cả đều đáng yêu và đáng thương, đáng trân trọng. Câu nói “thương lắm con ơi”, tuy mộc mạc mà chân thành, đi vào lòng người.

Tình yêu của cha dành cho “người đồng mình” còn thể hiện qua sự thấu hiểu thương cảm với những vất vả khó khăn mà mọi người đang phải chịu. Đó là “cao đo nỗi buồn” – nỗi buồn quanh năm của người dân tộc nằm giữa mây đá, núi rừng. Họ thường xuyên phải xa bản làng, bước chân trải dài trên đỉnh non cao nguy hiểm, trắc trở vô cùng để có thể sống và tồn tại.

Đó là nỗi vất vả, cái nghèo, cái đói vẫn còn đang bám lấy dân tộc mình. Để rồi, cha lại tự hào “xa nuôi chí lớn” khi nói với con. Người vùng mình tuy vất vả nhưng ai cũng mang trong mình một chí hướng lớn lao, nghị lực muốn bay cao bay xa hơn trong tương lai.

Chỉ hai câu thơ ngắn đã khẳng định niềm tự hào về phẩm chất tốt đẹp của dân tộc, tự hào về nghị lực sống của người dân nơi đây.

Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói”

Một lời chia sẻ chân thành tự tận đáy lòng người cha, đó là dù hoàn cảnh có khó khăn vất vả thế nào cha vẫn không “chê” quê hương, cha vẫn sẽ vượt qua. Đây chính là lời khẳng định về sự gắn bó nghĩa tình, thủy chung sâu nặng của “người đồng mình” với quê hương, dân tộc.

Ba câu thơ sử dụng từ ngữ rất giàu hình ảnh, gợi lên cho chúng ta một không gian sống đơn sơ, giản dị, nghèo đói. Đặc biệt, điệp từ “sống” và “không chê” cho ta thấy tấm lòng người cha son sắc biết bao nhiêu. Hoàn cảnh dù có nghèo đói, có khó khăn, có gập ghềnh thế nào cha cũng mong con hãy vượt lên tất cả bằng tất cả tình yêu và nghị lực của con.

“Sống như sông như suối

Lên thác xuống ghềnh

Không lo cực nhọc”

Phân tích khổ 2 bài nói với con – Đây chính là lời nhắn nhủ, động viên con hãy sống mạnh mẽ như dòng sông, dòng suối, dù cho lên thác xuống ghềnh con cũng sẽ vượt qua mọi gian nan phía trước. Tác giả thật tài tình khi sử dụng những ngôn từ giàu hình ảnh và gắn liền với người dân tộc.

Sông, suối, thác ghềnh đều là những hình ảnh quá đỗi quen thuộc đối với người dân tộc miền núi. Sử dụng những hình ảnh này để nói lên sự gian khó, vất vả đồng thời cũng ca ngợi sự kiên trì, nghi lực phi thường của người dân nơi đây. Cuộc sống không hề yên ả như mặt hồ thu, mà nó là “lên thác xuống ghềnh”, nhưng người dân nơi đây vẫn không sợ, họ sẵn sàng đương đầu với mọi thử thách phía trước. Đây chính là tâm ý mà người cha muốn truyền lại cho con.

Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm phong tục.”

Sang đoạn thơ này chúng ta càng thấy được lời khẳng định chắc nịch về người đồng mình. Hình ảnh người đồng mình hiện lên “thô sơ da thịt”, một vẻ đẹp bình dị, rắn rỏi, khỏe khoắn. Hình ảnh của người lao động, băng rừng vượt suối. Ngôn từ mộc mạc, giản dị lột tả đầy đủ vẻ đẹp bên ngoài của người dân tộc. Đặc biệt, hình ảnh bên ngoài đối lập hoàn toàn với bên trong “chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”.

Nếu vẻ đẹp bên ngoài thô sơ, không hoàn mỹ thì ngược lại, vẻ đẹp tâm hồn lại được đề cao và lớn lao vô cùng. Người đồng mình ai cũng đều nuôi chí lớn, khát vọng sống một cuộc đời tươi đẹp và đủ nghị lực để thực hiện khát vọng đó. Không có ai là “nhỏ bé” – đó là sự nhỏ bé trong tâm hồn chứ không phải vẻ ngoài. Hai câu thơ được đặt cạnh nhau, đối lập nhau, càng tôn lên vẻ đẹp tâm hồn của người dân tộc miền núi. Họ sống giữa núi rừng bạt ngạt nên trái tim, tâm hồn và khát vọng cũng lớn lao như núi rừng vậy. Để rồi:

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm phong tục.”

Họ xây dựng quê hương đất nước bằng chính hai bàn tay của mình. Hình ảnh “đục đá” là một hình ảnh cho thấy một công việc vô cùng nặng nhọc vất vả, đòi hỏi sự kiên trì, nhẫn nại. Đây là hình ảnh ẩn dụ thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc, ý thức bảo vệ quê hương. Hình ảnh “đục đá” vừa mộc mạc chân thành mà giàu hình ảnh.

Qua ý thơ, chúng ta có thể hình dung người dân lao động miền núi với khát vọng “đục đá kê cao quê hương” để tôn tạo lên vẻ đẹp văn hóa dân tộc, vượt qua bao thiên tai bão lu, bọm đạn hung tàn để giữ gìn và bảo vệ dân tộc. Và “Còn quê hương thì làm phong tục” càng khẳng định rằng, khi ta làm giàu cho quê hương, quê hương sẽ sẽ đem đến sự phát triển cho con người về đời sống, tinh thần và vật chất.

“Con ơi tuy thô sơ da thịt

Lên đường

Không bao giờ nhỏ bé được

Nghe con.”

Nhịp thơ chậm rãi chân thành, nghe như lời nhắn nhủ tha thiết từ trái tim người cha. Một lần nữa người cha khẳng định người đồng mình “thô sơ da thịt”, đó là hình ảnh đáng trân quý và tự hào. Hình ảnh của sự vất vả, lam lũ nơi núi rừng bạt ngàn. Hình ảnh khỏe khoắn, rắn rỏi của người dân lao động miền núi. Vẻ ngoài tuy không đẹp, tuy thô sơ, chân chất mộc mạc nhưng người cha nhắn con hãy nhớ, dù đi đâu, con cũng không bao giờ ngừng nuôi chí lớn, hãy luôn tự hào về quê hương dân tộc, hãy sống với khát vọng và đam mê.

Người dân quê ta có thể nhỏ bé về vóc dáng, thô sơ về vóc dáng nhưng khí phách, tinh thần thì thật lớn lao. Sự đối lập giữa hình thể và tâm hồn càng khẳng định niềm tự hào về những con người dân tộc miền núi, càng cho thấy được tình yêu thương, tự hào của người cha dành cho quê hương.

Câu cuối “nghe con” nghe vừa nhẹ nhàng mà vừa dứt khoát như lời nhắn nhủ và khẳng định. Trên đường đời, dù con có đi đâu làm gì cũng hãy tự hào về dân tộc, về những con người của núi rừng, luôn mang trong mình khát khao, nghị lực, khí phách lớn lao.

Chỉ qua khổ 2 của bài thơ Nói Với Con chúng ta đã thấu hiểu phần nào những khát vọng lớn lao của người dân tộc miền núi. Bằng biện pháp miêu tả, ẩn dụ, đối lập tác giả đã vẽ lên một bức tranh về cuộc sống của người dân miền núi, khí phách, hiên ngang. Lời thơ giản dị, chân thành nhưng chạm đến trái tim bạn đọc, cảm nhận được tình yêu to lớn của người cha dành cho con hay chính xác hơn là dành cho quê hương đất nước.

Bài văn cảm nhận nói với con khổ 2

Tham khảo cách viết văn cảm nhận khổ thơ thứ 2 bài Nói với con sinh động trong bài văn mẫu được chọn lọc chia sẻ dưới đây:

Y Phương là nhà thơ dân tộc Tày, thuộc tỉnh Cao Bằng. Từ người lính thời chống Mĩ, anh trở thành nhà thơ. Thơ của Y Phương mang một vẻ đẹp riêng, “thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của người miền núi”.

Nói với con của Y Phương là một bài thơ hay, một bông hoa nghệ thuật đầy sắc hương của núi rừng biên giới phía Bắc. Đây là phần thứ hai của bài thơ:

Người đồng mình thương lắm con ơiCao đo nỗi buồn….Không bao giờ nhỏ bé đượcNghe con.

Ở phần đầu, Y Phương đã viết: “Người đồng mình yêu lắm con ơi”, thì ở phần hai, mở đầu đoạn thơ ông lại nhân giọng. Lời cha nói với con nghe thật ngọt ngào thiết tha: “Người đồng mình thương lắm con ơi”. “Người đồng mình” là đồng bào quê hương mình, là bà con dân tộc Tày, dân tộc Nùng, nơi “nước non Cao Bằng”, nơi “gạo trắng nước trong”. Phải yêu, phải thương “người đồng mình” rất đẹp, rất đáng tự hào. Không bao giờ lùi bước trước mọi thử thách khó khăn. Tâm càng sáng, chí càng cao càng bền, tầm nhìn càng xa càng rộng:

Cao đo nỗi buồnXa nuôi chí lớn

Cha nói với con, dạy bảo con về đạo lí làm người. Trong bất cứ thời gian nào, hoàn cảnh nào “cha vẫn muốn”, cha vẫn mong con biết ngẩng cao đầu và sống đẹp. Quê hương sau những năm dài chiến tranh còn nhiều khó khăn chưa đẹp, chưa giàu. Đường đến các bản còn ”gập ghềnh”, còn nhà sàn vách nứa, thung còn “nghèo đói” thiếu thốn khó khăn. Con nhớ là “không chê không chê…”:

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh Sống trong thung không chê thung nghèo đói.Con phải biết sống mạnh mẽ, kiên cường “như sông như suối”. Con phải giàu chí khí và có bản lĩnh, dù phải “lên thác xuống ghềnh” vẫn “không lo cực nhọc”.

Các điệp ngữ: “không chê… không chê”, “sống trên… sống trong… sống như…” đã làm cho vần thơ phong phú âm điệu nhạc điệu, lời cha dặn con vô cùng thiết tha. Cách ví von, cách vận dụng thành ngữ làm cho lời cha dặn vừa cụ thể mộc mạc, vừa hàm nghĩa, sâu lắng, ân tình:

Sống như sông như suốiLên thác xuống ghềnhKhông lo cực nhọc.

Các từ ngữ, hình ảnh: “thô sơ da thịt”, “nhỏ bé”, “tự đục đá kê cao quê hương” đã thể hiện bản chất, bản lĩnh sống của đồng bào mình, bà con quê hương mình. Ba tiếng “người đồng mình” được nhắc đi nhắc lại nhiều lần đã biểu lộ niềm yêu mến tự hào quê hương không thể kể xiết.

“Người đồng mình” sống giản dị mộc mạc “thô sơ da thịt”, chịu khó chịu khổ, kiên nhẫn trong lao động làm ăn. Chẳng bao giờ “nhỏ bé”, chẳng bao giờ sống tầm thường trong cuộc đời và trước thiên hạ. Cha nói với con là nói về đạo lí làm người, cha nhắc con phải biết sống đẹp, sống mạnh mẽ, sống có nhân cách. Con phải biết nêu cao lòng tự hào, biết giữ lấy và phát huy truyền thống cao đẹp của “người đồng mình”, của quê hương mình:

Người đồng mình thô sơ da thịtChẳng mấy ai nhỏ bé đâu conNgười đồng mình tự đục đá kê cao quê hươngCòn quê hương thì làm phong tục.

Con chuẩn bị lên đường, như cánh chim bay tới chân trời xa (đi học, đi bộ đội, đi làm ăn?). Cha dặn con, cha khích lệ con, “tuy thô sơ du thịt”, nhưng không thể, không được sống tầm thường, sông “nhỏ bé” trước thiên hạ. Bài học làm người mà cha dạy con tuy ngắn gọn mà thấm thía và lay động biết bao:

Con ơi tuy thô sơ da thịt Lên đườngKhông bao giờ nhỏ bé đượcNghe con.

Y Phương đã có một cách nói cụ thể, nói bằng hình ảnh mang phong cách dân tộc mình, “người đồng mình”. Lời thơ bình dị, tình cảm chân thành, giọng thơ tha thiết. Cha nói với con, cha dạy con bài học làm người, biết giữ gìn phẩm giá và đạo lí: yêu mến tự hào quê hương, sống có chí khí, sống đẹp như “người đồng mình” đã bao đời nay.

Nói với con là một bài thơ hay thể hiện tình thương con, niềm tin của người cha đối với đứa con yêu quý. Kết thúc bài thơ là tiếng cha khích lệ con lên đường.

Đọc thơ của Y Phương, chúng ta bồi hồi nhớ lại lời ru của mẹ hiền thời thơ ấu:

Con ơi muốn nên thân người,Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha.

Tiết lộ🌼 Cảm Nhận 2 Khổ Thơ Đầu Bài Sóng ❤️️bên cạnh bài Cảm Nhận Khổ 2 Bài Nói Với Con

Đoạn văn phân tích nói với con khổ 2 ngắn gọn

Khổ thơ thứ hai còn là lời dạy về tình yêu quê hương, đất nước. “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương” không chỉ là hình ảnh về sự lao động cần cù mà còn là biểu tượng cho tinh thần tự hào dân tộc, lòng yêu nước sâu sắc. Người cha mong muốn con cái luôn nhớ về nguồn cội và đóng góp cho sự phát triển của quê hương.

Trong khổ thơ này, tác giả sử dụng hình ảnh “sống trên đá không chê đá gập ghềnh, sống trong thung không chê thung nghèo đói” để thể hiện quan điểm sống mạnh mẽ, không lùi bước trước khó khăn. Đây là bài học về sự kiên cường, tự lập mà người cha muốn con mình học hỏi và noi theo.

Cảm Nhận Đoạn 2 Bài Thơ Nói Với Con Ngắn Hay

Đón đọc bài văn cảm nhận đoạn 2 bài thơ Nói với con ngắn hay với nhiều ý nghĩa và thông điệp sâu sắc dưới đây.

Chắc hẳn trong trái tim mỗi người con yêu nước luôn có hình ảnh quê hương. Quê hương đã in đậm và trở thành một phần máu thịt trong mỗi chúng ta. Viết về đề tài này, nhà thơ Y Phương đã bày tỏ những tình cảm của mình đối với quê hương qua lời tâm tình với con trong bài thơ “Nói với con” đặc biệt là ở khổ 2.

Đứa con không chỉ được sinh ra, lớn lên trong tình yêu thương của cha mẹ mà còn được nuôi dưỡng bởi tình yêu của “người đồng mình”:

“Người đồng mình” là cách nói giản dị, mộc mạc của người dân tộc. Cụm từ này dùng để chỉ những con người cùng chung vùng miền, mở rộng ra là những người cùng quê hương, tổ quốc. Đứa trẻ không những được lớn lên trong vòng tay yêu thương và sự giáo dục của cha mẹ, gia đình mà nó còn được lớn lên trong sự thân thuộc, nghĩa tình của những người xung quanh, những người làng xóm tốt bụng. Họ chung sống như một gia đình lớn, “tối lửa tắt đèn” có nhau, luôn giúp đỡ nhau những khi gặp khó khăn, hoạn nạn.

“Người đồng mình” vất vả với công việc nhưng cuộc sống của họ không nhàm chán, ngược lại, họ rất yêu cuộc sống, yêu lao động bởi họ biết dùng câu hát để khơi dậy tinh thần lạc quan của mình. Tiếng hát giúp cuộc sống của họ có thêm nhiều màu sắc và giúp tâm hồn họ trở nên phong phú hơn.

Quê hương được tạo nên bởi những con người giàu ý chí, nghị lực:

“Người đồng mình thương lắm con ơi…..Không lo cực nhọc”

“Người đồng mình” có những đức tính thật đáng quý. Dù cuộc sống của họ có nghèo đói, khó khăn chồng chất khó khăn nhưng họ luôn giữ vững một lòng quyết tâm không bao giờ bỏ cuộc. Họ vẫn sống bền bỉ, gắn bó tha thiết với quê hương dù quê hương còn đói nghèo. Nghệ thuật đối lập ở các từ “cao đo”-“xa nuôi”, “nỗi buồn”-“chí lớn” đã giúp người đọc thấy được sức sống kiên cường của con người nơi đây.

Tác giả lấy sự từng trải, nỗi buồn để mang đo với độ cao và lấy chí lớn để đo độ xa. Sống giữa nghèo đói, thác ghềnh nhưng họ không nhụt chí trước hoàn cảnh, ngược lại họ còn dốc hết sức mình, “không lo cực nhọc” để khắc phục những điều đó. Những đức tính đó cũng là đức tính mà người cha muốn con mình có được trong quá trình rèn luyện.

“Đá gập ghềnh”, “thung nghèo đói”, “lên thác xuống ghềnh” là những hình ảnh ẩn dụ cho những vất vả, nhọc nhằn được kết hợp với điệp từ “không chê” đã thể hiện thái độ chấp nhận và sự kiên gan bền chí vượt qua mọi khó khăn của người dân nơi đây. Phép so sánh “sống như sông như suối” đã giúp người con và chúng ta thấy được sức sống mãnh liệt của họ.

Lời nhắn nhủ của người cha dành cho con ở bốn câu thơ tiếp theo dường như trầm lắng, sâu sắc hơn:

“Người đồng mình thô sơ da thịtChẳng mấy ai nhỏ bé đâu conNgười đồng mình tự đục đá kê cao quê hươngCòn quê hương thì làm phong tục”

Tuy “thô sơ da thịt” nhưng “người đồng mình” lại không hề yếu ớt, nhỏ bé. Họ mang vẻ đẹp ngoại hình bình dị mà chân chất, mộc mạc.Tâm hồn họ luôn hướng đến quê hương, họ sẵn sàng “đục đá”, làm những công việc nặng nhọc để dựng xây quê hương phát triển. Lòng tự hào dân tộc, sự khéo léo, đức tính cần cù của họ đã làm nên những phong tục tập quán tốt đẹp mang bản sắc văn hóa riêng của dân tộc mình. Nếu là những con người nhỏ bé, không có sức mạnh thì chắc hẳn họ đã không làm được những điều đó.

Khép lại bài thơ là dặn dò thấm thía của người cha dành cho đứa con thân yêu:

“Con ơi tuy thô sơ da thịtLên đườngKhông bao giờ nhỏ bé đượcNghe con”.

Người cha muốn con mình sống gắn bó, thủy chung, nghĩa tình với quê hương, biết vượt qua những gian khó bằng ý chí, nghị lực và sức mạnh của bản thân. Con không được phép quên đi nguồn cội, quê hương của mình vì chính quê hương là cái nôi nuôi dưỡng con trưởng thành.

Cha mẹ, những người dân quê hương và những truyền thống quý báu của dân tộc sẽ là những người đồng hành cùng con trong cuộc đời. Người cha mong con có thể giữ cho bản thân những đức tính quý giá của “người đồng mình”, ngoại hình tuy có nhỏ bé nhưng tinh thần, tâm hồn nhất định không được nhỏ bé, lùi bước trước gian nan. Bởi cuộc sống vốn muôn hình vạn trạng, con đường đời có muôn ngàn những chông gai, thử thách.

Bằng những lời thơ giản dị như lời tâm sự của cha dành cho con và các hình ảnh thơ giàu sức gợi, “Nói với con” của Y Phươngđã thể hiện tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống tốt đẹp và sức sống mạnh mẽ của quê hương. Ông cũng muốn nhắn gửi đến con về lòng tự tôn dân tộc. Đồng thời bài thơ cũng giúp chúng ta có thêm sự hiểu biết về cuộc sống và vẻ đẹp của những người con dân tộc miền núi.

Xem thêm➡️ Cảm Nhận Về Khổ 5 6 7 Bài Sóng ❤️️ bên cạnh bài Cảm Nhận Khổ 2 Bài Nói Với Con

Phân tích nói với con khổ 2 học sinh giỏi

Để hoàn thành bài viết của mình thì các em có thể tham khảo những ý văn hay trong bài văn mẫu cảm nhận về đoạn 2 bài thơ Nói với con điểm cao dưới đây.

Từ xưa đến nay, tình cảm gia đình vẫn luôn là tình cảm thiêng liêng và cao cả biết bao. Nó như dòng sữa ấm áp nuôi nấng ta khôn lớn trưởng thành. Nếu như Chế Lan Viên đã mượn những khúc hát ru thắm đượm tình người để thể hiện tình mẫu tử thiêng liêng cao quý trong bài thơ “Con cò” thì Y Phương – một nhà thơ dân tộc miền núi, lại tha thiết “Nói với con” về tình cảm cha con thắm thiết, hay rộng hơn cả đó chính là tình cảm đối với quê hương dân tộc, với bản làng. Đặc biệt được thể hiện tiêu biểu qua đoạn thơ thứ hai:

“Người đồng mình thương lắm con ơiCao đo nỗi buồn….Không bao giờ nhỏ bé được nghe conNghe con.”

Cảm nhận được tình nghĩa sâu nặng của gia đình và quê hương là chiếc nôi, là cội nguồn sinh trưởng của mỗi con người, người cha “nói với con” về những đức tính cao đẹp của người đồng mình, cha mong con hãy luôn biết tự hào vè bản làng quê hương, về những người dân tộc Tày trọng tình, trọng nghĩa. “Người đồng mình” (người quê mình) giàu tình cảm, nhẫn nhục chịu đựng những khó khăn gian khổ nhưng tâm hồn luôn phóng khoáng ấp ủ ước mơ.

“Người đồng mình thương lắm con ơiCao đo nỗi buồnXa nuôi chí lớn”

Lời của người cha “nói với con” là lời trao gửi tâm tình bằng tất cả tấm lòng và tình cảm của người cha. Giọng thơ nhẹ nhàng tha thiết, cách gọi thân mật “người đồng mình” thể hiện sự gắn bó thiêng liêng giữa mỗi con người với quê hương. Lời thơ gợi cảm, tự nhiên “thương lắm con ơi”, người cha ca ngợi và mong con biết trân trọng, giữ gìn những đức tính tốt đẹp, những phẩm chất cao quý của dân tộc mình.

Kết cấu câu thơ sóng đôi, cân đối, cách nói giản dị, mộc mạc “cao đo nỗi buồn”, là nỗi buồn của người dân tộc quanh năm giữa mây ngàn đá núi thường xuyên phải rời xa bản làng, bước chân của họ ngày càng trải dài trên đỉnh non cao. Qua đó ta thấy rằng người đồng mình sống vất vả, nghèo đói, cực nhọc, lam lũ. Họ nhẫn nhục chịu đựng nỗi buồn dai dẳng của mảnh đất quê hương.

“Xa nuôi chí lớn”, người cha muốn nói với con dân tộc mình ai cũng có một ý chí, nghị lực ai cũng muốn bay cao bay xa trong tương lai. Lời thơ ngắn gọn, khẳng định niềm tự hào về phẩm chất, truyền thống của dân tộc. Với niềm tự hào về ý chí, nghị lực và truyền thống tốt đẹp của “người đồng mình”, cha mong con luôn sống nghĩa tình, thuỷ chung với quê hương:

“Dẫu làm sao thì cha vẫn muốnSống trên đá không chê đá gập ghềnhSống trong thung không chê thung nghèo đói”

Điệp từ “sống” và điệp ngữ “không chê” thể hiện sự gắn bó nghĩa tình, chung thuỷ, sẵn sàng chấp nhận sẻ chia. Không gian gợi tả trên đá, trong thung nói lên những khó khăn vất vả của quê hương. Từ láy gợi hình “gập ghềnh” gợi nên cuộc sống bấp bênh không ổn định. Từ đó người cha mong con sống nghĩa tình, thuỷ chung với quê hương dẫu quê hương còn nhiều khó khăn vất vả. Đồng thời người cha khuyên con phải có ý chí, nghị lực vươn lên trong cuộc sống:

“Sống như sông như suốiLên thác xuống ghềnhKhông lo cực nhọc”

Hình ảnh so sánh cụ thể “sống như sông như suối”. Người cha khuyên con hãy sống cuộc đời rộng lớn, tự do, khoáng đạt, không thụ động chấp nhận thực tại mà luôn hướng tới tương lai không bao giờ cam chịu cuộc sống nhỏ bé tầm thường. Cách nói ẩn dụ “lên thác xuống ghềnh” kết hợp lời nói mộc mạc thường ngày “không lo cực nhọc”, cha khuyên con hãy sẵn sàng đương đầu với khó khăn, thử thách của cuộc đời, không được chùn bước, nản chí.

Bởi cuộc đời không bao giờ yên ả như một mặt nước hồ thu nên con hãy ngẩng cao đầu dũng cảm vượt qua chông gai, thử thách của cuộc đời. “Người đồng mình không chỉ giàu ý chí nghị lực mà còn giàu về đời sống tinh thần, tâm hồn phóng khoáng để xây dựng nên quê hương với những phẩm chất tốt đẹp:

“Người đồng mình thô sơ da thịtChẳng mấy ai nhỏ bé đâu conNgười đồng mình tự đục đá kê cao quê hươngCòn quê hương thì làm phong tục.”

Âm điệu thơ nhẹ nhàng, tha thiết như một lời tâm tình. Hai câu thơ đối nhau:

“Người đồng mình thô sơ da thịtChẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”

Hình ảnh cụ thể “thô sơ da thịt” cho ta thấy sự giản dị, mộc mạc của người đồng mình. Giọng thơ khẳng định “chẳng mấy ai nhỏ bé” thể hiện niềm tự hào về lẽ sống cao đẹp và tâm hồn phong phú của dân tộc. “Người đồng mình” không ai chịu tự bó mình trong cuộc đời nhỏ nhoi, tầm thường mà ngược lại ai cũng có ước mơ, hoài bão sống cuộc đời rộng lớn, ai cũng có khát vọng vươn lên. Cơ sở của sự khẳng định trên chính là truyền thống tốt đẹp của “người đồng mình”:

“Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hươngCòn quê hương thì làm phong tục”

Cách nói bằng hình ảnh mộc mạc, cụ thể “tự đục đá” mà ý thơ sâu sắc, người dân tộc bao đời nay chắt chiu, gầy dựng từng mầm sống nhỏ nhoi quê nghèo nhưng tình người lại giàu có vô cùng. “Người đồng mình” cần cù, chịu thương chịu khó luôn sống gắn bó với quê hương, luôn có ý thức đóng góp xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, ngày càng phát triển. “Còn quê hương thì làm phong tục” đã khẳng định rằng quê hương càng phát triển thì đem đến cho con người sự thay đổi lớn lao về đời sống vật chất và tinh thần.

Với lòng tự hào về truyền thống tốt đẹp của quê hương, người cha còn gửi đến con những lời nhắn nhủ tâm tình:

“Con ơi tuy thô sơ da thịtLên đườngKhông bao giờ nhỏ bé đượcNghe con.”

Nhịp thơ chậm rãi tha thiết, điệp ngữ “thô sơ da thịt” được lặp lại một lần nữa nhưng khẳng định thêm về phẩm chất cao đẹp của “người đồng mình”. Lời thơ chắc gọn như một mệnh lệnh “lên đường” vừa thể hiện mong ước tha thiết của người cha đối với con: khi bắt đầu bước vào hành trình của cuộc đời mình con hãy sống đúng với phẩm chất của “người đồng mình”.

Bởi vì “người đồng mình” có thể cực khổ, lam lũ nhưng luôn mạnh mẽ với chí lớn. Có thể “thô sơ”, mộc mạc với áo chàm nhưng không nhỏ bé về khí phách cho nên con không bao giờ được bằng lòng với cuộc sống bó hẹp, tầm thường phải biết trân trọng giữ gìn và phát huy truyền thống của quê hương, ngẩng cao đầu vượt qua chông gai, thử thách để tự tin khi bước vào đời. Kết thúc bài thơ chỉ có hai tiếng “nghe con”.

Câu thơ chắc gọn như một mệnh lệnh: đừng chối bỏ cội nguồn dân tộc, hãy khắc sâu tình cảm quê hương vào trong trái tim mình, luôn tôn trọng và phát triển truyền thống dân tộc. Đó là tấm lòng của cha dành cho con hay nói đúng hơn là quê hương của mỗi chúng ta.

Tóm lại, âm điệu thơ tha thiết, ngôn ngữ thơ mộc mạc, hình ảnh thơ vừa cụ thể, vừa khái quát, đậm chất trữ tình. Đoạn thơ thể hiện niềm tin tưởng, hy vọng của người cha đối với bước đường tương lai của con. Đồng thời giúp ta cảm nhận được điều tốt đẹp, được tình cảm gắn bó thuỷ chung của dân tộc miền núi. Từ đó gợi trong mỗi chúng ta tình cảm gắn bó với truyền thống, với quê hương xứ sở và ý chí vươn lên để tiến bộ, sống làm chủ cuộc đời, làm chủ bản thân.

Tham khảo👉 Cảm Nhận 4 Khổ Đầu Bài Sóng ❤️️ 10 Bài Văn Ngắn Hay

Phân Tích Đoạn Hai Bài Thơ Nói Với Con Hay

Học hỏi cách diễn đạt sinh động, mạch lạc thông qua bài văn cảm nhận về đoạn hai bài thơ Nói với con hay sau đây.

Lấy cảm hứng từ tình yêu thương con và ước mong thế hệ mai sau sẽ gìn giữ, phát huy những truyền thống của quê hương, dân tộc, nhà thơ Y Phương đã sáng tác bài thơ “Nói với con”. Bài thơ xuất phát từ tình cảm gia đình, mở rộng ra là tình yêu quê hương đất nước. Đặc biệt trong khổ thơ thứ hai, nhà thơ đã bộc lộ rất rõ niềm tự hào, kiêu hãnh về sức sống mạnh mẽ, đức tính tốt đẹp và truyền thống cao đẹp của quê hương, nhắn nhủ người con hãy phát huy truyền trống ấy.

Nếu như trong khổ thơ đầu là sự gợi nhớ về tình yêu thương của cha mẹ và sự đùm bọc của quê hương dành cho con thì đến khổ thơ thứ hai, người cha muốn nói với con về những đức tính cao đẹp của đồng bào mình, dặn dò con phải kế tục và phát huy một cách xứng đáng.

“Người đồng mình thương lắm con ơiCao đo nỗi buồnXa nuôi chí lớn”

Tiếng gọi “người đồng mình” sao mà thân thương, thân mật và gần gũi đến thế, trong phạm vi nhỏ đó là người cùng một bản, một vùng, rộng hơn đó là người cùng dân tộc cùng một đất nước. “Thương lắm” ở đây không chỉ đơn thuần là tình yêu thương mà còn chứa đựng sự đồng cảm, sẻ chia, giúp đỡ và đùm bọc lẫn nhau của con người.

“Cao” và “xa” là khoảng cách của đất trời, cũng chính là những thử thách khó khăn mà người đồng mình phải chiến đấu. Người đồng mình tuy sống trong khó khăn, đói khổ nhưng biết cách vượt lên tất cả, vẫn nuôi chí lớn và không ngừng nỗ lực phấn đấu vươn lên.

“Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn…..Không lo cực nhọc”

Mặc dù đá gập ghềnh, mặc cho thung nghèo đói nhưng cha vẫn muốn sống ở nơi mảnh đất quê hương, không vì những thiếu thốn gian khổ mà chối bỏ hay chê bai quê hương. Ngược lại phải lấy đó làm động lực để biết phấn đấu, biết vươn lên trong cuộc sống, làm nên nghị lực phi thường trong hoàn cảnh khắc nghiệt.

Sống như sông, suối nghĩa là sống một cách lạc quan và mạnh mẽ, sống thủy chung với quê hương, biết chấp nhận khó khăn và vượt qua khó khăn bằng chính niềm tin, thực lực của mình. “Người đồng mình” sống trong vất vả nhưng mạnh mẽ và khoáng đạt, gắn bó chung thủy với quê hương, chấp nhận mọi khó khăn, thử thách và chiến đấu hết mình với niềm tin và ý chí của mình. Lên thác rồi lại xuống ghềnh, không màng mệt nhọc mà chỉ vững tin vào ngày mai tươi sáng, khi đó mọi khó khăn, đói nghèo sẽ tan biến.

“Người đồng mình thô sơ da thịtChẳng mấy ai nhỏ bé đâu conNgười đồng mình tự đục đá kê cao quê hươngCòn quê hương thì làm phong tục”

Hình ảnh người đồng mình “thô sơ da thịt” là ẩn dụ cho những cốt cách giản dị, mộc mạc, chất phác thật thà của người dân tộc. Tuy cũng chỉ là con người bình thường bằng da bằng thịt nhưng ý chí và tâm hồn của người đồng mình lại lớn lao chứ không hề “nhỏ bé”. Truyền thống đục đá kê cao nhà của người đồng mình mang ý nghĩa kê cao nhà cũng là kê cao quê hương, tự hào về quê hương và tự tay mình xây nên những truyền thống tốt đẹp làm cho quê hương giàu đẹp vươn lên.

“Con ơi tuy thô sơ da thịtLên đườngKhông bao giờ nhỏ bé đượcNghe con”

Tiếng gọi “con ơi” tha thiết, tâm tình, nhắn nhủ với con điều lớn lao nhất đó là lòng tự hào dân tộc và niềm tự tin khi con bước vào đời. Đã đến lúc con phải trưởng thành, rời xa quê hương để phát triển, đứng trước mọi hoàn cảnh, mọi khó khăn, con hãy vững tin và phải luôn tự hào với truyền thống của quê hương, hãy tự tin rằng mình không nhỏ bé mà phải vững bước trên đường đời. Hai tiếng “nghe con” là lời nhắn chứa chan tình yêu thương, nồi niềm và sự kỳ vọng con sẽ làm rạng rỡ, vẻ vang quê hương, đất nước.

Với giọng điệu thiết tha, trìu mến và đầy tình yêu thương, nhà thơ Y Phương đã thành công lan tỏa lời tâm tình của mình đến với mọi người. Hình ảnh “người đồng mình” vừa nổi bật lại thật thân thương trìu mến, ai cũng nhận ra mình cũng chính là “người đồng mình”. Từ đó thêm yêu quê hương đất nước, thêm sức mạnh để vươn lên trong cuộc sống, tự hào về truyền thống cao đẹp và vững tin sẽ xây dựng quê hương giàu đẹp bằng chính bàn tay của mình.

Chia sẻ thêm👉 Cảm Nhận Bài Thơ Sóng Của Xuân Quỳnh ❤️️ 12 Bài Văn Hay

Bài Văn Cảm Nhận Khổ 2 Nói Với Con Giàu Hình Ảnh

Để làm bài kiểm tra được điểm cao thì các em học sinh không nên bỏ qua bài văn mẫu cảm nhận khổ 2 Nói với con giàu hình ảnh dưới đây.

Lòng yêu thương con cái, ước mong thế hệ mai sau nối tiếp xứng đáng, phát huy truyền thống của tổ tiên, dân tộc vốn là một tình cảm cao đẹp của người Việt Nam suốt bao đời nay. Bài thơ “Nói với con” của Y Phương một nhà thơ dân tộc Tày, cũng nằm trong nguồn cảm hứng nhân văn phổ biến ấy.

Đó là một bài thơ mà tác giả mượn lời một người cha chân tình, dặn dò con về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người, về những đặc điểm tính cách cao đẹp của quê hương, dân tộc với ước muốn đứa con hãy ghi nhớ, phát huy. Điều ấy đã thể hiện qua cách nói mộc mạc, giàu hình ảnh của người dân miền núi, đem đến cho bài thơ giọng điệu thiết tha, trìu mến, tin cậy:

“Người đồng mình nghe con”

Đoạn thơ được nối tiếp theo sau đoạn cảnh người cha khơi gợi cội nguồn sinh dưỡng giúp đứa con khôn lớn, trưởng thành. Bằng đoạn thơ trên, người cha đã ngợi ca những đức tính cao đẹp của con người quê hương nằm khơi gợi cho con lòng từ hào về sức sống mạnh mẽ, bền bỉ về truyền thống cao đẹp của quê hương và niềm mong ước con hãy tiếp tục xứng đáng với truyền thống ấy.

Bắt đầu đoạn thơ bằng cụm từ “người đồng mình” với ý nghĩa là người vùng mình, người miền mình, cách nói giản dị của miền núi và được lặp đi lặp lại ba lần trong đoạn trích, Y Phương đã gửi vào đó niềm tự hào của mình về những đức tính cao đẹp của người dân miền núi bằng tấm lòng yêu mến vô hạn.

Nếu trên kia “yêu lắm con ơi” là yêu cuộc sống vui tươi bình dị, yêu bản làng thơ mộng, yêu những tấm lòng chân thật nghĩa tình, thì đến đây niềm ước vọng càng thêm tha thiết: “thương lắm con ơi”. Tình cảm được nâng lên nhiều lần bởi sau từ “thương” đó là những những nỗi vất vả, gian khó của con người quê hương. Người cha biểu lộ tình cảm yêu thương chân thành về gian truân, thử thách cùng ý chí mà người đồng mình đã trải qua.

Người đồng mình không chỉ là những con người giản dị, tài hoa trong cuộc sống lao động mà còn là những con người biết lo toan và giàu mơ ước:

“Cao đo nỗi buồnXa nuôi chí lớn”.

Ta dễ dàng nhận ra tính tả thực và phép ẩn dụ tượng trưng đã được nhà thơ vận dụng ở đây. Với phép tả thực, Y phương đã vẽ ra cảnh người dân miền núi mà ở đây dân tộc Tày có cội nguồn sinh dưỡng là những vùng núi cao ngút ngàn, rất hoang vắng và rất buồn bởi cuộc sống nghèo khó, nhọc nhằn. Tuy buồn, tuy khó khăn gian khổ nhưng họ vẫn bám đất, bám bán làng, vẫn thủy chung cùng quê hương. Và càng ở cao, càng gian khổ mới thấy được tấm lòng quyết tâm gìn giữ cội nguồn sinh dưỡng của người dân miền núi.

Tư duy của người miền núi mộc mạc chân tình hiện lên trong cách so sánh độc đáo. Họ lấy hình sông, lấy dáng dáng để biểu thị vẻ đẹp của tinh thần và lối sống. Cách sắp xếp tính từ “cao”, “xa” trong sự tăng tiến, nâng cao mức độ cho thấy khó khăn, thử thách càng lớn thì ý chí con người càng mạnh mẽ, càng quyết tâm chinh phục, vượt qua.

Có thể nói, cuộc sống của người đồng mình còn nhiều nỗi buồn, còn nhiều bộn bề thiếu thốn song họ sẽ vượt qua tất cả, bởi họ có ý chí và nghị lực, họ luôn tin tưởng vào tương lai tốt đẹp của dân tộc và không ngừng mơ ước đến tương lai nơi mà chí lớn sẽ vươn tới.

Chính từ niềm mơ ước ấy, người cha đã nhẹ nhàng nhắc nhở đứa con hãy khắc ghi, rèn luyện, phát huy:

“Dẫu làm sao thì cha cũng muốn…..Lên thác xuống ghềnh không lo cực nhọc”

Đoạn thơ với những hình ảnh cụ thể như núi rừng quê hương được Y Phương nhắc lại theo phép liệt kê: “đá gập ghềnh”, “thung nghèo đói”, “như sông”, “như suối”, “lên thác xuống ghềnh”…”kết hợp với các điệp ngữ: “sống…không chê…”, nhà thơ đã gợi lại cuộc sống vất vả, gian nan đầy thử thách đối với người dân Tày giữa hoang sơ đại ngàn.

Phép so sánh “Sống như sông như suối” gợi vẻ đẹp tâm hồn và ý chí của người đồng mình. Gian khó là thế, họ vẫn tràn đầy sinh lực, tâm hồn lãng mạn, khoáng đạt như hình ảnh đại ngàn của sông núi. Tình cảm của họ trong trẻo, dạt dào như dòng suối, con sống trước niềm tin yêu cuộc sống, tin yêu con người.

Cách gợi của nhà thơ được đặt trong giọng điệu mạnh mẽ, chắc nịch, đầy quyết tâm và niềm tin tưởng. Một lần nữa y Phương trong vai người cha đã nhắc con nhớ rằng người đồng mình, người trong cùng bản làng của mình dù sống trong nghèo khổ, gian nan vẫn thủy chung gắn bó với quê hương, cội nguồn.

Thông qua đó, nhà thơ với vai trò người cha mong muốn đứa con phải biết tự hào về truyền thống quê hương, phải luôn tự tin, vững bước trên đường đời:

“Người đồng mình thô sơ da thịtChẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”.

Phẩm chất của người của con người quê hương còn được người cha ca ngợi qua cách nói đối lập tương phản giữa hình thức bên ngoài và giá trị tinh thần bên trong, nhưng rất đúng với người miền núi. Tuy “người đồng mình” không mấy đẹp đẽ ở hình thức nhưng luôn ẩn chứa một sức mạnh tinh thần lớn lao, không bao giờ nhỏ bé, không bao giờ thôi ước vọng vươn cao.

Lời thơ mộc mạc, giản dị nhưng chứa bao tâm tình. Sự tương phản này đã tôn lên tầm vóc của người đồng mình. Họ mộc mạc nhưng giàu chí khí, niềm tin. Họ có thể “thô sơ da thịt” nhưng không hề nhỏ bé về tâm hồn, về ý chí, về mong ước xây dựng quê hương.

Lời cha giản dị, ân cần trang nghiêm, chắc nịch đã giúp đứa con nhận ra rằng chính nhờ những “người đồng mình” như thế, những con người có ước mơ xây dựng quê hương với những truyền thống, phong tục tốt đẹp:

“Người đồng mình tự đụng đá kê cao quê hươngCòn quê hương thì làm phong tục”.

Câu thơ đã khái quát về tinh thần tự tôn dân tộc, về ý thức bảo vệ nguồn cội, bảo tồn những truyền thống quê hương tốt đẹp của người đồng mình. “Đục đá” là công việc vô cùng nặng nhọc, đòi hỏi phải bền bỉ, nhẫn nại. “Đục đá” vào ý thơ dã trở thành hình ảnh sinh động, gợi cảm.

Qua ý thơ, hình ảnh ấy giúp ta hình dung hiện thực người dân lao động miền núi bằng khát vọng và ý chí “đục đá kê cao quê hương” đã tôn tạo vẻ đẹp văn hóa của dân chọi với bao thiên tai, bão lũ, bao bọn giặc hung tàn để gìn giữ, bảo vệ quê hương của cả dân tộc.

Lòng mong muốn ấy còn được thể hiện trong giọng thơ thiết tha, trìu mến bởi ngữ điệu cảm thán: “con ơi”; “đâu con”; ở những lời tâm tình dặn dò:“nghe con” nhưng lại chắc nịch niềm tin của nối nói của người dân miền núi, vừa giàu hình ảnh vừa tự nhiên, xúc động lòng người. từ đó, ta cảm nhận điều lớn lao nhất là người cha muốn truyền lại cho đứa con là lòng tự hào với sức sống mạnh mẽ, bền bỉ với quê hương cao đẹp và niềm tin con bước vào đời:

“Con ơi tuy thô sơ da thịtLên đườngKhông bao giờ nhỏ bé đượcNghe con”.

Hành trang của người con mang theo khi “lên đường” không có gì khác ngoài niềm tự hào về quê hương, nguồn cội cùng với ý chí, quyết tâm và hi vọng lớn lao về một ngày mai tươi sáng. Người con lên đường khắc sâu lời cha dặn và không ngừng nhắc nhở mình thực hiện điều tâm nguyện ấy. Lời dặn của cha thật mộc mạc, dễ hiểu, thấm thía, ẩn chứa niềm hi vọng lớn lao của cha, hi vọng đứa con sẽ tiếp tục vững bước trên đường đời,tiếp nối truyền thống và làm vẻ vang quê hương.

Bằng những từ ngữ, hình ảnh giàu sức gợi cảm, lối nói miền núi mộc mạc, cách ví von sinh động, giọng điệu thiết tha trìu mến, nhịp điệu lúc nhanh lúc chậm đầy khát vọng làm người, đoạn thơ ca ngợi những đức tính tốt đẹp của người đồng mình, cha mong con sống có tình nghĩa với quê hương, phải giữ đạo lí “uống nước nhớ nguồn” của cha ông từ bao đời để lại. Hơn nữa, con phải biết chấp nhận gian khó và vươn lên bằng ý chí của mình.

Y Phương đã rất tinh tế khi lựa chọn hình ảnh và giọng điệu khi biểu đạt. Hình như ông đã không hề “mĩ lệ hóa” hay tô vẽ gì thêm cho hình ảnh thơ. Cứ thế, rất tự nhiên, hình ảnh núi non và “người đồng mình” đi vào thơ ông một cách chân thực, hồn nhiên mà sâu sắc đến kì lạ.

Không thể bỏ lỡ cơ hội 🔜Nhận Thẻ Cào 100k Miễn Phí🔜

Những bài văn phân tích trên đều hướng tới việc làm sâu sắc hơn hiểu biết của người đọc về khổ thơ thứ hai, qua đó hiểu rõ hơn về thông điệp và tầm quan trọng của bài thơ trong việc giáo dục thế hệ trẻ. Mỗi bài văn đều có cách nhìn và cảm nhận riêng, nhưng tất cả đều hướng đến việc khám phá và phân tích sâu sắc các giá trị nhân văn mà bài thơ mang lại.

Từ khóa » Cảm Nhận đoạn 2 Bài Nói Với Con