Cảm Nhận Khổ Thơ 1 Tây Tiến
Có thể bạn quan tâm
Cảm nhận về khổ thơ 1 bài Tây tiến
- I. Dàn ý Cảm nhận của anh chị về khổ thơ 1 Tây tiến
- 1. Dàn ý Cảm nhận của anh chị về khổ thơ 1 Tây tiến - Mẫu 1
- 2. Dàn ý Cảm nhận của anh chị về khổ thơ 1 Tây tiến - Mẫu 2
- II. Văn mẫu Cảm nhận của anh chị về khổ thơ 1 Tây tiến
- 1. Cảm nhận của anh chị về khổ thơ 1 Tây tiến - Mẫu 1
- 2. Cảm nhận của anh chị về khổ thơ 1 Tây tiến - Mẫu 2
- 3. Cảm nhận của anh chị về khổ thơ 1 Tây tiến - Mẫu 3
- 4. Cảm nhận của anh chị về khổ thơ 1 Tây tiến - Mẫu 4
- 5. Cảm nhận của anh chị về khổ thơ 1 Tây tiến - Mẫu 5
- 6. Cảm nhận của anh chị về khổ thơ 1 Tây tiến - Mẫu 6
- 7. Cảm nhận của anh chị về khổ thơ 1 Tây tiến - Mẫu 7
- 8. Cảm nhận của anh chị về khổ thơ 1 Tây tiến - Mẫu 8
- 9. Cảm nhận của anh chị về khổ thơ 1 Tây tiến - Mẫu 9
- 10. Cảm nhận của anh chị về khổ thơ 1 Tây tiến - Mẫu 10
- 11. Cảm nhận của anh chị về khổ thơ 1 Tây tiến - Mẫu 11
- 12. Cảm nhận của anh chị về khổ thơ 1 Tây tiến - Mẫu 12
- 13. Cảm nhận của anh chị về khổ thơ 1 Tây tiến - Mẫu 13
- 14. Cảm nhận của anh chị về khổ thơ 1 Tây tiến - Mẫu 14
- 15. Cảm nhận của anh chị về khổ thơ 1 Tây tiến - Mẫu 15
- 16. Cảm nhận của anh chị về khổ thơ 1 Tây tiến - Mẫu 16
- 17. Cảm nhận của anh chị về khổ thơ 1 Tây tiến - Mẫu 17
Trình bày cảm nhận của anh, chị về khung cảnh thiên nhiên và hình ảnh người lính trong đoạn đầu của bài thơ Tây tiến vừa được VnDoc.com sưu tập và xin gửi tới bạn đọc cùng tham khảo. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết tại đây.
I. Dàn ý Cảm nhận của anh chị về khổ thơ 1 Tây tiến
1. Dàn ý Cảm nhận của anh chị về khổ thơ 1 Tây tiến - Mẫu 1
1. Mở bài
Giới thiệu nhà thơ Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến. (Quang Dũng là nhà thơ với giọng thơ phóng khoáng, trẻ trung, tươi mới. Và giọng thơ ấy được thể hiện rõ trong bài thơ Tây tiến).
2. Thân bài
a. Khổ thơ đầu
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.”
Câu cảm thán thể hiện sự tiếc nuối của tác giả về những ngày cùng binh đoàn Tây Tiến.
“nhớ chơi vơi”: trơ trọi, cô độc, mỗi nhớ vô định luôn thường trực.
Từ biểu cảm “ơi” + từ láy chơi vơi: âm hưởng tha thiết, ngân vang mãi trong lòng người.
→ Nỗi nhớ da diết, trào dâng, tha thiết vang lên bao trùm cả không gian và thời gian.
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,Mường Lát hoa về trong đêm hơi.”
“Sài Khao, Mường Lát” là những địa danh mà binh đoàn đặt chân qua gợi những kỉ niệm về một vùng núi cao, sương mờ → không gian thơ mộng, trữ tình.
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,….…………………………………Nhà ai Pha Luông, mưa xa khơi.”
“khúc khuỷu, thăm thẳm” gợi sự hiểm trở, gian nan của thiên nhiên.
“heo hút cồn mây” gợi độ cao của núi và độ sâu của dốc, vắng lặng, hoang vu.
"ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” diễn tả độ gập ghềnh, trắc trở của rừng núi giúp bạn đọc hình dung ra khó khăn, gian khổ mà người chiến sĩ Tây Tiến phải trải qua.
“Pha Luông, mưa xa khơi” đứng ở trên cao phóng ánh nhìn ra xa, thu vào tầm mắt của người lính Tây Tiến là cảnh làng xóm Pha Luông mờ ảo trong lớp sương vô cùng thơ mộng. → Đây là món quà xứng đáng cho những nỗi lực của người chiến sĩ.
“Anh bạn dãi dầu không bước nữaGục lên súng mũ bỏ quên đời!”
Những khó khăn, gian khổ đôi khi làm người chiến sĩ nản chí, muốn buông xuôi.
Sự ra đi của những người đồng đội là niềm đau xót cho những người ở lại.
→ Những con người dạt dào tình cảm.
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét,Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.”
Người chiến sĩ ngày đêm đối mặt với nguy hiểm luôn rình rập nơi rừng thiêng nước độc.
Bằng sự hài hước, dí dỏm các chiến sĩ coi những nguy hiểm đó là chỉ là những tiếng gầm thét, những sự “trêu người” bên tai.
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khóiMai Châu mùa em thơm nếp xôi.”
Người chiến sĩ nhớ về ngày mùa ở Mai Châu: những ngày mùa, những gia đình lên khói nấu cơm đầu mùa, những hương vị nếp xôi và cả những cô gái nơi đây.
3. Kết bài
Khẳng định lại giá trị của bài thơ: Tây Tiến đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc, nhiều năm tháng qua đi nhưng bài thơ vẫn giữ nguyên giá trị đẹp đẽ của nó và góp phần làm phong phú kho tàng văn học Việt Nam.
2. Dàn ý Cảm nhận của anh chị về khổ thơ 1 Tây tiến - Mẫu 2
1. Mở Bài
Tây Tiến được xem là đứa con đầu lòng tráng kiện và tài hoa của Quang Dũng và của cả nền thơ kháng chiến của văn học Việt Nam.
Với khổ thơ đầu là nỗi nhớ tha thiết miền đất Tây Bắc và vẻ đẹp vượt vượt lên khó khăn gian khổ của người lính Tây Tiến.
2. Thân Bài
* Tác giả:
Quang Dũng quê ở Đan Phượng, Hà Tây (nay là Hà Nội), ông là một nghệ sĩ đa tài.
Phong cách thơ ông gói gọn trong mấy từ: Phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa.
* Tác phẩm:
Tây Tiến sáng tác cuối năm 1948, ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng hồi tưởng lại về những ngày tháng ở binh đoàn Tây Tiến.
Cảm hứng bao trùm bài thơ là cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng.
* Phân tích:
- Hai dòng thơ đầu: Nỗi nhớ bao trùm, mạch cảm hứng chủ đạo của bài thơ
“Sông Mã”, “Tây Tiến” đều như trở thành những người thân thương ruột thịt mà Quang Dũng dành trọn tình cảm nhớ thương.
“Nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ lạ lùng của những người lính từ phố thị.
→ Núi rừng Tây Bắc đã khắc vào tâm hồn của họ những kỷ niệm không bao giờ quên, đồng thời cũng là nỗi trống trải lạc lõng trong lòng tác giả.
- Hai câu thơ tiếp:
“Sài Khao”, “Mường Lát” là những địa danh gợi nhắc về địa bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiến, mở rộng sang các không gian khác trong bài thơ.
Nỗi nhớ ở đây dường như dàn trải khắp vùng không gian rộng lớn, mỗi một nơi bước chân tác giả đi qua, ông đều dành những tình cảm yêu thương đặc biệt, trở thành kỷ niệm khắc sâu trong lòng.
Những kỷ niệm nhỏ như sự “mỏi” sau chặng hành quân, ngọn đuốc hoa bập bùng trong đêm tối đều chứng minh nỗi nhớ lớn lao của tác giả.
- Bốn câu thơ tiếp “Dốc…xa khơi”:
Gợi sự hiểm trở của núi rừng Tây Bắc, sự vất vả và những nỗ lực kiên cường của người lính chiến khi hành quân.
“Súng ngửi trời” là hình ảnh nhân hóa thú vị, thể hiện tâm hồn lãng mạn, hồn nhiên và hài hước của người lính chiến trong gian khổ.
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” là vẻ đẹp của sự sống, sự thi vị lãng mạn giữa núi rừng hoang vu, gợi sự bình yên, chốn dừng chân cho người lính.
- Hai câu thơ “Anh bạn…quên đời”:
Sự hy sinh cao cả của người lính chiến, tư thế hiên ngang, oai hùng sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc.
Niềm xót xa cùng với sự cảm phục tinh thần hy sinh của Quang Dũng dành cho đồng đội.
- Bốn câu kết đoạn: “Chiều chiều…nếp xôi”
Vẻ oai linh, hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc với kết cấu thơ tân kỳ, dùng động từ mạnh, thêm vào đó là sự nguy hiểm rình rập nơi rừng thiêng nước độc của ác thú.
Sự bừng tỉnh khỏi kỷ niệm của tác giả, quay về hiện thực với nỗi nhớ tha thiết, nồng nàn, nhớ tình quân dân ấm nồng với nắm xôi, hương lửa những ngày còn chiến đấu.
3. Kết Bài
Suốt 14 dòng thơ đầu xoay xung quanh nỗi nhớ khôn nguôi về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, về vẻ đẹp vượt lên trên khó khăn gian khổ của người tính, sự hy sinh cao cả, nét lãng mạn trong tâm hồn người lính trẻ giữa những gian khổ chất chồng.
Bằng ngòi bút hào hoa và lãng mạn Quang Dũng đã diễn tả một cách chân thực nhất những nỗi nhớ khắc khoải trong tâm hồn của người lính chiến về một thời kháng chiến đã đi qua.
II. Văn mẫu Cảm nhận của anh chị về khổ thơ 1 Tây tiến
1. Cảm nhận của anh chị về khổ thơ 1 Tây tiến - Mẫu 1
Phải thế chăng mà bài thơ đã mở đầu bằng nỗi nhớ da diết như những con sóng trào dâng trong lòng:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.”
Đoạn thơ mở đầu bằng một tiếng gọi tha thiết, ngân dài, tha thiết: "Sông Mã xã rồi Tây Tiến ơi!". Tiếng gọi được khơi nguồn từ núi cao, vực sâu, dốc thẳm, sương dày và ngân dài như thể tích tụ, dồn nén bấy lâu nay. Dường như Quang Dũng đang đứng giữa không gian mênh mông, bát ngát, cất lên tiếng gọi. “Sông Mã” vừa là hình ảnh thiên nhiên miền Tây gắn liền với bao ngày tháng gian khổ của đoàn binh Tây Tiến, vừa như chứng nhân lịch sử chứng kiến mọi vui buồn của cuộc đời chiến binh. Liệu có sự nhầm lẫn gì chăng khi cảm xúc của nhà thơ hướng về sông Mã nhưng lại gọi “Tây Tiến ơi”? Có lẽ đó chính là sự đồng điệu và hòa hợp giữa tâm hồn của những người chiến sĩ, bởi họ đều có chung một dòng cảm xúc, cùng chung một mục tiêu chiến đấu, cùng một lý tưởng. Nhớ về Tây Tiến, chính là nhớ về dòng sông Mã oai hùng.
Từ lời gọi tha thiết dành cho Tây Tiến, nỗi nhớ như ngày càng dâng trào, càng xa Tây Tiến bao nhiêu, Quang Dũng lại càng nhớ Tây Tiến bấy nhiêu. Cụm từ “Xa rồi” chỉ khoảng cách về không gian, vì đường lên Tây Bắc, lên với binh đoàn Tây Tiến Năm nào "thăm thẳm một chia phôi" không biết bao giờ mới có thể trở lại. “Xa rồi” còn chỉ về thời gian, vì sông Mã và Tây Tiến mãi mãi là mùa xuân ấy, mùa xuân đã qua đi không thể trở lại bao giờ. Tính từ “xa rồi” tạo ra một khoảng không gian xa xăm, vời vợi, mênh mông vừa gợi một nỗi bâng khuâng, man mác, một nỗi hụt hẫng trong lòng. Phải chăng, mỗi tên gọi thân thương ấy, “sông Mã”, “Tây Tiến” như đang đứng ở mỗi đầu nỗi nhớ mà hướng về nhau, thao thức, khắc khoải vì nhau. Giữa khoảng không gian nhớ thương quá rộng lớn, mênh mang, da diết, cồn cào, tâm trí của nhà thơ không biết đặt để vào đâu cho phải, thế nên mới tạo ra một cách dùng từ thật lạ: “nhớ chơi vơi”. Nỗi nhớ ấy dành cho "rừng núi", một hình ảnh tả thực thiên nhiên miền Tây, một vùng rừng núi hoang sơ, hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội nhưng cũng rất thi vị, nên thơ. Hình ảnh rừng núi còn gắn liền với địa bàn hoạt động của những người lính Hà Thành lần đầu đến với vùng đất xa xôi này.
Quả thật, nỗi nhớ như len lỏi khắp mọi vần thơ. Nhưng, thơ ca là sáng tạo. Bình thường sẽ chết! Và Quang Dũng đã thật tài hoa khi lấy cái “chơi vơi" ấy để dành cho nỗi nhớ Sông Mã, dành cho Tây Tiến.
Từ nỗi nhớ chơi vơi về những ngày tháng gian khổ đã qua, từ mênh mông núi rừng Tây Bắc ấy, hình ảnh người lính đã hiện ra thật chân thực giữa khung cảnh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc vừa thi vị, lãng mạn, lại vừa dữ dội, hoành tráng khác thường:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.”
Hai địa danh Sài Khao, Mường Lát vốn dĩ là những mốc không gian địa lý in đậm kỷ niệm của một thời chiến binh nay trở thành mốc thời gian lịch sử giúp người chiến sĩ năm nao nhớ lại những kỷ niệm trong bao chặng đường hành quân vất vả. Với bút pháp lãng mạn, kết hợp bút pháp hiện thực, Quang Dũng đã miêu tả vừa chân thực vừa nên thơ con đường hành quân gian khổ và người lính Tây Tiến trên những chặng đường đầy gian khổ đó. Thời tiết ở miền Tây vô cùng dữ dội, khắc nghiệt. Hành quân giữa rừng núi có hương hoa rừng và mờ mịt hơi sương, những người lính mỏi mệt như bị chìm lấp đi trong sương khói.
Như loài hoa hướng dương sinh ra chỉ để hướng về mặt trời, như ánh nắng mặt trời sinh ra chỉ để hướng về mặt đất. Thơ ca cũng thế. Thơ sinh ra chỉ để hướng con người đến một cuộc sống tốt đẹp. Lưu Trọng Lư đã từng nói thế này: "Một câu thơ hay là một câu thơ có sức gợi". Làm gì có ai quyến luyến những vần thơ khô khan không cảm xúc? Phải vậy chăng mà những vần thơ của Quang Dũng lại càng đi sâu vào vẻ đẹp lãng mạn, hào hung, hào hoa của người lính Tây Tiến:
“Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Câu thơ đẹp như một tuyệt tác của thiên nhiên. Vừa lạ lẫm, vừa huyền ảo, vừa thơ mộng và cũng rất chi là mơ hồ, ảo diệu. Câu thơ này có nhiều cách hiểu. Ta có thể hiểu là người lính Tây Tiến hành quân trên chặng đường mờ mịt hơi sương và mùi thơm ngào ngạt của hương hoa rừng, đem đến cảm giác như đang đi trong "đêm hơi" . Hay có thể hiểu đó chính là lời ngợi ca mỗi người lính Tây Tiến được ví như một bông hoa tuyệt đẹp của núi rừng đang trở về tụ hội? Dù hiểu theo cách nào, người đọc vẫn cảm nhận được những khó khăn, gian khổ mà người lính đã trải qua. Hiểu về hiện thực khốc liệt của chiến tranh để thêm cảm phục, thêm yêu vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, mộng mơ của họ.
Sau những cảm nhận đầy thơ mộng, lãng mạn về bức tranh thiên nhiên và hồn người, những câu thơ tiếp theo Quang Dũng đã vẽ ra khung cảnh thiên nhiên trong ký ức và tâm trạng như sự sóng đôi trái ngược với những vần thơ trên:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha luông mưa xa khơi.”
Trong hai câu đầu, Quang Dũng sử dụng những từ láy (khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút) có giá trị gợi cảm, gợi hình cao. Các từ này lại được đặt liên tiếp nhau để đặc tả sự gian nan trùng điệp dồn dập vây quanh người lính. “Dốc khúc khuỷu” gợi tả những chặng đường nhiều núi đèo hiểm trở, gập ghềnh, lúc hiện ra quanh co đèo dốc, lúc lại chìm ẩn đi trong cái thăm thẳm, rợn ngợp, mênh mông. "Dốc thăm thẳm" là cách viết độc đáo của Quang Dũng, vừa gợi tả chiều cao, vừa gợi tả chiều sâu, như một con dốc không có giới hạn cuối cùng, đầy hoang sơ, hiểm trở. Nhưng chưa dừng lại ở đó, câu thơ thứ hai miêu tả độ cao của những ngọn núi nơi đây:
“Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
“Heo hút” diễn tả sự hoang vu, vắng vẻ, hiu hắt, rợn ngợp. Câu thơ gợi ra hình ảnh người lính Tây Tiến đứng trên đỉnh núi cao hoang vu, trơ trọi, xung quanh bốn bề gió thổi vi vút. Nghệ thuật đảo ngữ với từ "heo hút" đứng đầu câu đã khắc họa rõ sự hùng vĩ, dữ dội của thiên nhiên miền Tây tư thế hiên ngang của những của những người lính trẻ. Trong câu thơ này, Quang Dũng đã sử dụng nghệ thuật nhân hóa qua ba chữ "súng ngửi trời". Cảm giác của người đọc liên tưởng tới khung cảnh đầu mũi súng chạm vào mây, người lính tinh nghịch dí dỏm liên tưởng tới hình ảnh súng đang chạm tới trời. Chi tiết này càng thể hiện sự hào hoa, lãng mạn trong chất thơ của Quang Dũng.
Trước thiên nhiên khắc nghiệt, người lính Tây Tiến không bị chìm đi mà lại nổi lên đầy thách thức, lạc quan, yêu đời. Có lẽ, Quang Dũng là nhà thơ đầu tiên trong văn học dân tộc đưa chất lính tráng nhiên, vô tư đến thế.
Nhưng, những khó khăn chưa dừng lại ở đó. Câu thơ tiếp như nhân lên gấp bội sự thử thách, khốc liệt của thiên nhiên:
“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”
Ngàn thước là ước từ chỉ số lượng không xác định. "Lên", "xuống" là hai động từ đối lập nhau về nghĩa. Dốc núi đột ngột lên cao rồi lại đột ngột gãy gập, đổ xuống một cách bất ngờ đầy hiểm nguy tưởng như đỉnh núi bị đứt gãy giữa không trung. Đúng là chỉ "đọc câu thơ và nghe đã muốn mòn chân mỏi gối" (Trần Lê Văn).
Thế nhưng sau tất cả những gian khổ hiểm nguy, người lính vẫn tìm kiếm được sự sống của con người khi dừng lại ngắm nhìn những nếp nhà Pha Luông – một nét vẽ nhẹ nhàng thả xuống êm đềm giữa những câu thơ gân guốc ở phía trên:
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
“Nhà ai”, một ngôi nhà không xác định, nhạt nhoà trong mưa nhưng gợi cảm giác thân thương, gần gũi. “Mưa xa khơi” gợi liên tưởng đến một biển mưa mênh mông giữa núi rừng Tây Bắc. Sau khi “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”, người chiến sĩ Tây Tiến như đứng trên đỉnh cao mà nhìn xuống thung lũng phủ kín trong màn mưa trắng. Phải có những phút giây như thế này, người chiến sĩ Tây Tiến mới có thể vượt qua được những thử thách mới đầy dữ dội của thiên nhiên với “thác gầm thét”, “ cọp trêu người”...
Tiến trên bước đường hành quân, chiến đấu đầy vất vả, hi sinh nhưng vẫn lạc quan, lãng mạn, yêu đời, luôn hướng về tương lai phía trước:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Nhà thơ nói về "anh bạn" chính là nói về những đồng chí, đồng đội của mình, ngày nối ngày, đêm nối đêm, mưa nắng đói rét bệnh tật thiếu thốn mệt mỏi tới mức kiệt sức. Hoạt động và chiến đấu trên địa bàn rộng lớn, hùng vĩ, hiểm trở, hoang sơ, dữ dội của miền Tây, những chiến sĩ đã trải qua bao dãi dầu sương gió. Mái tóc, khuôn mặt như bạc màu vì nắng lửa, mưa rừng, sương mờ, gió núi. Mệt mỏi, cực khổ, chịu nhiều thử thách, gian nan; nhiều người lính đã "dãi dầu không bước nữa". Sự kết hợp giữa hai cụm từ "dãi dầu" và "không bước nữa" đem đến cho người đọc cảm nhận thật sâu sắc về những khó khăn, gian khổ trên con đường hành quân với những dốc núi thăm thẳm, khúc khuỷu, quanh co, trùng điệp. Dường như người lính đã hoàn toàn kiệt sức sau mỗi chặng đường:
“Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Chữ "gục" có thể hiểu là sự mệt mỏi khiến người lính tạm thời ngủ gục trên súng mũ như muốn quên đi tất cả những khó khăn , gian khổ ấy. "Gục" cũng là cách nói giảm, nói tránh diễn tả sự hi sinh của người lính vì Tổ quốc. Nói về mất mát, gian khổ, hi sinh nhưng không bi lụy. Có một điều kì lạ làm sáng cả ý thơ là người lính Tây Tiến đến lúc gục xuống vẫn trong tư thế người lính. Họ đã hi sinh nhưng gục lên súng mũ. Gục lên hành trang chiến trận của mình. Họ thể hiện tinh thần coi cái chết nhẹ nhàng, thanh thản. Phải chăng, đó cũng là tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh của những người lính trẻ?
Hai câu thơ tiếp theo là bức tranh thiên nhiên hoang sơ, bí ẩn, dữ dội luôn đe dọa, rình rập con người:
"Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người"
Hai trạng từ chỉ thời gian tiếp diễn "chiều chiều", "đêm đêm" diễn tả sự tuần hoàn, lặp đi lặp lại. Chiều qua, đêm tới, ngày nào cũng vậy, thời gian luôn là nỗi đe dọa khủng khiếp với những người lính trẻ. Buổi chiều, những con thác oai linh gầm thét, đe dọa, chứa đầy bí ẩn linh thiêng của núi rừng hoang đại, hoang vu. Đêm đêm, ở Mường Hịch, cọp dữ rình bắt người ăn thịt. Đó là sự thật tàn khốc mà thiên nhiên miền Tây luôn rình rập, đe dọa, uy hiếp con người. Chữ "gầm", "trêu" qua ngòi bút tài hoa của Quang Dũng đã nhân cách hóa sống động các hình ảnh thiên nhiên vốn vô tri, vô cảm, như một lời nói đùa tếu táo nhằm giảm bớt đi sự đau thương, nhưng sự đau thương vẫn nhân lên gấp bội. Bởi có sự đùa trêu nào tàn khốc xót xa bằng cách lấy đi cả mạng sống của con người.
Như vậy, người lính Tây Tiến đâu chỉ đối mặt với cái giá lạnh sương muối như cắt da cắt thịt, những dốc núi hoang vu, hùng vĩ, hiểm trở như lên đến tận trời xanh, những trận sốt rét rừng đầy nguy hiểm, mà hàng ngày họ phải đương đầu với thác gầm, cọp dữ và không ít người đã ngã xuống bởi thác hiểm, rừng thiêng.
Thế nhưng, giữa nơi rừng thiêng nước độc qua con mắt hào hoa lãng mạn của chiến binh Tây Tiến một thời người ta vẫn nhìn thấy được những khung cảnh bình yên, nỗi nhớ chợt ùa về Mai Châu xinh đẹp:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” .
Câu thơ mở đầu với đảo ngữ “nhớ ôi” nhấn mạnh nỗi nhớ thương da diết, thấm thía. Đó là khoảnh khắc những bữa ăn của đồng bào chuẩn bị cho cán bộ cách mạng, để rồi sau bao tháng ngày nhớ lại, vẫn thấy vương vấn đâu đây nếp nhà cơm lên khói, những bữa cơm tỏa thơm nếp xôi. Đặc biệt, ở trong câu thơ, Quang Dũng đã sử dụng cụm từ “mùa em”. Đất trời có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông nhưng trong những vần thơ của nhà thơ Quang Dũng lại có một mùa thật lạ đó là “mùa em”. “Mùa em” ở đây cũng chính là mùa của sự đủ đầy, mùa của tình quân dân.
Đoạn thơ mở đầu đã cho thấy vẻ đẹp thiên nhiên núi rừng Tây Bắc và chân dung những người lính Tây Tiến đáng khâm phục. Tình yêu quê hương, đất nước hòa quyện với tình đồng chí, đồng đội và tình yêu thiên nhiên, yêu con người tha thiết.
2. Cảm nhận của anh chị về khổ thơ 1 Tây tiến - Mẫu 2
Hình ảnh người lính là đề tài quen thuộc khơi nguồn cảm hứng cho các nhà văn, nhà thơ. Quang Dũng cũng là một tác giả có đóng góp quan trọng cho thơ văn của chủ đề này qua bài thơ Tây Tiến. Bài thơ chứa đựng những giá trị, ý nghĩa sâu xa, đặc sắc, đặc biệt là đoạn thơ đầu tiên.
Tây Tiến là đơn vị bộ đội thành lập năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào, địa bàn hoạt động suốt miền núi Tây Bắc từ Châu Mai, Châu Mộc sang Sầm Nứa cho tới miền Tây Thanh Hoá. Cuối năm 1948 Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác, bài thơ là những hồi tưởng của ông về thời kì huy hoàng của binh đoàn. Mở đầu bài thơ là nỗi nhớ về ngày xưa cũ:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.”
Câu cảm thán thể hiện sự tiếc nuối của tác giả về những ngày cùng binh đoàn Tây Tiến hoạt động, chiến đấu nay đã trôi xa chỉ còn lại kí ức và nỗi nhớ. Nỗi nhớ ấy được khắc họa bằng từ láy “chơi vơi”. Đó là nỗi nhớ lênh đênh, vô định nhưng luôn thường trực trong lòng người chiến sĩ. Không chỉ nhớ những người đồng chí, đồng đội, anh còn nhớ cả rừng núi, nhiên nhiên, những nơi mình đã đặt chân qua. Tất cả luôn thường trực trong kí ức, da diết, ngân vang bao trùm cả không gian và thời gian.
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,Mường Lát hoa về trong đêm hơi.”
“Sài Khao” là nơi đoàn quân mỏi mòn trong lớp sương mờ dày đặc để đi đến chiến trường; "Mường Lát” gắn với những đêm ẩm ướt đọng đầy hơi nước và hương hoa. Đó là những địa danh mà binh đoàn đi gợi những kỉ niệm về một vùng núi cao, sương mờ, không gian tuy khó khăn, thiếu thốn nhưng cũng vô cùng thơ mộng, trữ tình.
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,…Nhà ai Pha Luông, mưa xa khơi.”
Từ láy “khúc khuỷu, thăm thẳm” gợi sự hiểm trở của thiên nhiên. Đường hành quân của người chiến sĩ không những dài mà còn gập ghềnh, khúc khuỷu, sâu hun hút chất chứa nhiều nguy hiểm. Bên cạnh đó, người lính còn phải vượt qua những ngọn núi cao, dốc sâu vắng lặng, hoang vu cảm giác mũi súng chạm đến tận trời xanh; cứ thế, lên cao lại xuống thấp vô cùng khó khăn, gian khổ.
Tuy nhiên, sau những gian khổ đó, người chiến sĩ lại nhận về phần thưởng xứng đáng đó là hình ảnh “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Đứng ở trên cao phóng ánh nhìn ra xa, thu vào tầm mắt của mình là cảnh làng xóm Pha Luông mờ ảo trong lớp sương vô cùng thơ mộng hiếm nơi nào có được. Tuy nhiên, bên cạnh vẻ đẹp, sư phấn chấn đó cũng là những nỗi buồn sâu thẳm:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữaGục lên súng mũ bỏ quên đời!”
Những khó khăn, gian khổ đôi khi làm người chiến sĩ nản chí, muốn buông xuôi. Và cả sự ra đi, hi sinh của những người đồng chí giống như anh em ruột thịt của mình càng làm cho người lính Tây Tiến đau xót. Cùng nhau chung sống, chiến đấu là thế nhưng lại có người ở người đi thử hỏi sao không khỏi buồn rầu? Nhưng không vì thế mà người chiến sĩ buông xuôi, mà đó là minh chứng cho tấm lòng dạt dào tình cảm yêu thương của họ.
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét,Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.”
Từ láy “chiều chiều, đêm đêm” gợi tần suất thường xuyên, liên tục của những gian khó. Người chiến sĩ luôn phải đối mặt với nguy hiểm rình rập nơi rừng thiêng nước độc bằng tiếng cọp, bằng thác dữ có thể cướp đi sinh mạng của họ bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, họ chọn cách đối mặt với chứng bằng sự dí dỏm, hài hước bằng cách coi như đó là những lời trêu đùa bên tai để cố gắng, vững tin chiến đấu.
Không chỉ nhớ về khó khăn, gian khổ, người lính Tây Tiến còn nhớ về những kỉ niệm cùng người dân ở vùng đất nơi mình đi qua:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khóiMai Châu mùa em thơm nếp xôi.”
Người chiến sĩ nhớ về ngày mùa ở Mai Châu, những gia đình lên khói nấu cơm đầu mùa, những hương vị nếp xôi của và cả những cô gái nơi đây. Tất cả đều là những kỉ niệm vô cùng đẹp đẽ, đáng yêu, đáng trân quý.
Đoạn thơ không chỉ khắc họa thành công vẻ đẹp hào hoa, bi tráng của người lính Tây Tiến mà còn mang đến cho bạn đọc cách nhìn mới mẻ về những con người này. Bằng thể thơ tự do, những miêu tả sáng tạo, thú vị, giọng điệu hài hước, vui tươi, nhà thơ đã làm nên một tác phẩm giàu ý nghĩa và đậm tính nhân văn.
Tây Tiến đã mang đến một màu sắc khác lạ góp phần làm phong phú kho tàng thơ văn Việt Nam. Nhiều năm tháng qua đi những tác phẩm vẫn giữ nguyên vẹn giá trị ban đầu của nó và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng nhiều thế hệ bạn đọc.
3. Cảm nhận của anh chị về khổ thơ 1 Tây tiến - Mẫu 3
Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài làm thơ, vẽ tranh, viết văn, soạn nhạc nhưng thành công nhất là thơ. Ông là nhà thơ nổi tiếng của văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp với một hồn thơ lãng mạn, tài hoa, thơ giàu chất nhạc, chất họa, được mệnh danh là nhà thơ của "Xứ Đoài mây trắng" với những tác phẩm nổi tiếng như: " Mây đầu ô", "Thơ văn Quang Dũng"...Trong đó tiêu biểu là bài thơ "Tây Tiến". Bài thơ không chỉ là nỗi nhớ của Quang Dũng về đoàn quân Tây Tiến mà còn khắc họa rõ nét cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, dữ dội qua đoạn thơ:
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi...Mai Châu mùa em thơm nếp xôi"
Bài thơ "Tây Tiến" ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt. Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt -Lào, đồng thời đánh tiêu hao lực lượng địch. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên, học sinh, trí thức Hà Nội, chiến đấu trong những hoàn cảnh gian khổ nhưng họ sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm. Quang Dũng là đại đội trưởng ở đơn vị Tây Tiến, cuối năm 1948 khi rời đơn vị cũ chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh, Quang Dũng viết bài thơ Nhớ Tây Tiến. Khi in lại, tác giả đổi tên bài thơ là "Tây Tiến".
Mở đầu bài thơ bằng những dòng thơ chan chưa nỗi nhớ, lời thơ như chợt thốt lên đầy nhớ nhung và tiếc nuối:
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơiNhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi"
Dòng sông Mã như là điểm gợi để nhà thơ nhớ về đoàn quân Tây Tiến, với lời gọi tha thiết ngọt ngào. Nhà thơ đã rất tài tình khi sử dụng từ láy "chơi vơi" kết hợp với hiệp vần "ơi" mở ra một không gian vời vợi của nỗi nhớ đồng thời diễn tả tinh tế một cảm xúc mơ hồ, khó định hình, cứ lâng lâng khó tả trong lòng người ra đi nhưng cảm xúc rất chân thực của một người đồng đội đã rời xa đơn vị để rồi nỗi nhớ như tràn đầy cả không gian " Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi". Câu thơ có bảy từ thì có hai từ "nhớ". Điệp từ "nhớ" như tô đậm cảm xúc toàn bài thơ, không phải ngẫu nhiên mà nhan đề ban đầu của bài thơ tác giả đặt là " Nhớ Tây Tiến". Để rồi nỗi nhớ ấy cứ trở đi trở lại trong toàn bài thơ tạo nên giọng thơ hoài niệm sâu lắng, bồi hồi. Nỗi nhớ tha thiết, niềm thương da diết mà nhà thơ dành cho miền Tây, cho đồng đội cũ của mình, tất cả trở thành kỉ niệm không thể nào quên.
Không phải khi đến với "Tây Tiến" người đọc mới cảm nhận được nỗi nhớ mà ngay ở trong thơ ca Việt Nam khi nói về nỗi nhớ cũng đã từng diễn tả:
"Nhớ ai bổi hổi bồi hồiNhư đứng đống lửa như ngồi đống than"
Vậy nhưng đến với Quang Dũng nỗi nhớ sáng tạo hơn cả với nỗi nhớ "chơi vơi" là trạng thái trơ trọi giữa khoảng không, không thể bấu víu vào đâu, một mình với hoài niệm cứ lửng lơ, sâu lắng, bâng khuâng, tha thiết vọng vào lòng người đọc không thể nào quên. Nỗi nhớ bao trùm cả khoảng không gian và thời gian ấy Quang Dũng đã đưa người đọc đến với thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng thật êm đềm thơ mộng. Đó là những địa danh mà đoàn quân Tây Tiến đã đi qua, "Sài Khao", "Mường Lát", "Pha Luông", "Mường Hịch", "Mai Châu". Những địa danh khi đi vào thơ Quang Dũng nó không còn mang màu sắc trung tính, vô hồn trên bản đồ nữa mà gợi lên trong lòng người đọc không khí núi rừng xa xôi, lạ lẫm, hoang sơ và bí ẩn.
Không chỉ vậy những con đường hành cũng đầy những hiểm nguy:
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏiMường Lát hoa về trong đêm hơi"
Những con đường hành quân gian nan vất vả, trên đỉnh Sài Khao sương dày "lấp" cả đoàn quân, Quang Dũng dùng chữ "mỏi" như tái hiện hình ảnh đoàn quân mệt rã rời tuy vậy họ vẫn đi trong " sương lấp" thật hùng vĩ và tráng lệ. Đâu chỉ có thế, Mường Lát đêm về sương tỏa khắp không gian. Tác giả không nói "hoa nở" mà "hoa về" không nói sương mà là "đêm hơi" như càng nhấn mạnh vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, hào hoa của những người lính Hà Thành.
Con đường hành quân ấy còn vô cùng gập ghềnh, hiểm trở, đầy sự hiểm nguy giữa một bên là núi cao với một bên là vực sâu thăm thẳm:
"Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳmHeo hút cồn mây súng ngửi trờiNgàn thước lên cao ngàn thước xuống"
Không gian được mở ra ở nhiều chiều: chiều cao đến chiều sâu hút của những dốc núi, chiều sâu của vực thẳm, bề rộng của những thung lũng trải ra sau màn sương. Các từ láy giàu sức tạo hình khiến người đọc hình dung những con đường quanh co, dốc rồi lại dốc, những đỉnh đèo hoang vắng khuất vào mây trời. Cách ngắt nhịp 4/3 của câu thơ "Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống" tạo thành một đường gấp khúc của dáng núi. Như vậy ba dòng thơ liên tiếp trong đoạn thơ đã sử dụng nhiều thanh trắc gợi sự vất vả nhọc nhằn của những người lính Tây Tiến trên con đường hành quân.
Nếu như ba câu thơ trên gợi lên một cảm giác gập ghềnh hiểm trở thì đến mới câu thơ tiếp theo như một phút lắng lòng của những người lính Tây Tiên bên những ngôi nhà nơi xóm núi như cánh buồm thấp thoáng trên mặt biển trong không gian bình yên và êm ả của mưa giăng đầy thung lũng thành 'xa khơi". Đọc câu thơ người đọc thấy bình yên đến kì lạ, phải chăng những phút giây hiếm hoi ấy như tiếp thêm sức mạnh cho người lính chiến đấu tiếp với kẻ thù cũng như thiên nhiên khắc nghiệt nơi đây:
"Chiều chiều oai linh thác gầm thétĐêm đêm Mường Hịch cọp trêu người"
Quang Dũng nhớ đến âm thanh "gầm thét" của thác dữ, tiếng gầm gào của loài hổ dữ rình rập như muốn nuốt chửng người lính mỗi khi chiều đến, đêm về. Thời gian buổi chiều, về đêm lại càng nhấn mạnh thêm cảm giác hoang sơ của chốn "sơn lâm bóng cả cây già". Những từ ngữ và hình ảnh nhân hóa, từ láy được nhà thơ sử dụng để tô đậm ấn tượng về một vùng núi hoang vu dữ dội nơi thiên nhiên hoang dã đang ngự trị và chiếm vai trò chúa tể.
Chỉ bằng mấy dòng thơ đầu Quang Dũng đã tái hiện đầy đủ bức tranh của núi rừng miền Tây được vẽ bằng bút pháp vừa hiện thực, vừa lãng mạn, vừa giàu chất họa lại giàu chất nhạc. Nét vẽ vừa gân guốc, mạnh mẽ, dữ dội nhưng lại cũng rất mềm mại tạo nên vẻ đẹp hài hòa cho bức tranh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ mà đoàn quân Tây Tiến đi qua.
Đoạn thơ không chỉ là nỗi nhớ về thiên nhiên miền Tây mà trung tâm của nỗi nhớ ấy còn là những người lính, những đồng đội cũ được Quang Dũng thể hiện bằng vẻ đẹp bi tráng trên chặng đường hành quân đầy chông gai, nguy hiểm.
Ấn tượng trong lòng người đọc về người lính Tây Tiến có lẽ bởi vẻ đẹp lạc quan trong chặng đường hành quân gian khổ qua câu thơ đầy chất lính:
"Heo hút cồn mây súng ngửi trời"
Đó là hình ảnh tếu táo, lạc quan trong gian khổ với vẻ đẹp hồn nhiên qua cách nói hóm hỉnh "súng ngửi trời". Nếu viết "súng chạm trời", nhà thơ sẽ chỉ tả được độ cao của đỉnh dốc mà khi đứng trên đó, mũi súng của người lính Tây Tiến như chạm cả vào nền trời. Còn ở đây, Quang Dũng đã gợi được "chất lính" trẻ trung, vẻ tươi mới, sức sống dạt dào trong tâm hồn của người lính Tây Tiến vốn xuất thân từ những thanh niên trí thức trẻ Hà Nội. Đồng thời còn mang đến người đọc sự mới lạ, hóm hỉnh đầy chất lính, mũi súng của người lính được nhân hóa thành hình ảnh "súng ngửi trời" tinh nghịch, đầy chất thơ, mang cảm hứng lãng mạn đồng thời khẳng định chí khí quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao gợi cho người đọc đến với câu thơ của Tố Hữu:
"Rất đẹp hình anh lúc ráng chiềuBóng dài trên đỉnh dốc cheo leoNúi không đè nổi vai vươn tớiLá ngụy trang leo với gió đèo"
Và trên chặng đường hành quân ấy dù với cái nhìn lãng mạn, tinh nghịch thì người lính Tây Tiến không thể tránh được sự thật đã có những người đồng đội:
"Anh bạn dãi dầu không bước nữaGục lên súng mũ bỏ quên đời"
Khi nói về cuộc chiến tranh khốc liệt ấy. Tác giả đã không né tránh hiện thực của những mất mát đau thương trong cuộc chiến. Trong cuộc hành quân gian khổ đã có những người ngã xuống vì kiệt sức. vì mũi súng của kẻ thù. Nhưng Quang Dũng đã thể hiện cách nói giảm, nói tránh về cái chết vừa xót xa, vừa ngạo nghễ "không bước nữa" để rồi "bỏ quên đời" như một sự bình tĩnh, thản nhiên đón nhận cái chết, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng. Nhớ những người đồng đội đã ngã xuống nhưng không gợi cảm giác bi luỵ. Hơn thế nỗi mất mát, niềm cảm thương được nói bằng giọng thơ ngang tàng, kiêu hãnh "Gục lên súng mũ bỏ quên đời". Đó là một tư thế chết trong chiến đấu, trong sự hiên ngang, bất khuất.
Sau chặng đường hành quân đầy gian khổ, có những lúc đồng đội hi sinh, đoàn quân Tây Tiến đã có dịp dừng lại một bản làng-Mai Châu
"Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khóiMai Châu mùa em thơm nếp xôi"
"Nhớ ôi"là một từ cảm thán mang tình cảm dạt dào, tiếng lòng của những người lính Tây Tiến. Câu thơ đậm đà tình quân dân, sự gắn kết tình nghĩa thủy chung giữa những người lính Tây Tiến và đồng bào Tây Bắc. Họ dừng chân nơi xóm núi sau chặng đường dài vất vả, họ quây quần trong niềm vui ấm áp, niềm hạnh phúc bên những nồi cơm còn thơm làn gạo mới. Nhớ mùi thơm "nếp xôi" hương vị của núi rừng Tây Bắc, của tình người thân yêu da diết, đằm thắm, sự gắn kết tình nghĩa thủy chung, giữa những con người miền Tây Bắc của Tổ quốc với bộ đội kháng chiến. Tình cảm ấy mãi mãi không thể phai mờ trong lòng những người lính Tây Tiến. Như Chế Lan Viên từng viết về tình quân dân ấy trong bài thơ "Tiếng hát con tàu"
"Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịchVắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừngĐất Tây Bắc tháng ngày không có lịchBữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương"
Qua đoạn thơ trên Quang Dũng không chỉ thể hiện thành công nỗi nhớ về thiên nhiên và miền Tây hùng vĩ mà còn thành công với các biện pháp nghệ thuật như cảm hứng lãng mạn, bi tráng. Sử dụng ngôn từ đặc sắc về địa danh, từ tượng hình, từ Hán Việt, kết hợp hài hòa chất nhạc và họa thơ.
Đoạn thơ mở đầu trong bài thơ "Tây Tiến" dù chỉ mới là khúc dạo đầu của một bản tình ca về nỗi nhớ, song cũng đã kịp ghi lại những vẻ đẹp rất riêng của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc trên nền của bức tranh thiên nhiên dữ dội ấy, những người lính Tây Tiến hiện lên thật đẹp. Đồng thời thể hiện sự gắn bó của nhà thơ với thiên nhiên và con người nơi ấy là biểu hiện của một tấm lòng gắn bó với quê hương, đất nước. Đồng thời là tấm lòng trĩu nặng yêu thương với những người đồng đội, đồng chí của mình.
4. Cảm nhận của anh chị về khổ thơ 1 Tây tiến - Mẫu 4
“Tôi làm thơ này rất nhanh, làm xong, đọc trước đại hội được mọi người hoan nghênh nhiệt liệt. Hồi đó, tấm lòng và cảm xúc của mình ra sao thì viết vậy, tôi chả chút lí luận gì về thơ cả”, đó là chia sẻ của Quang Dũng về bài thơ “Tây Tiến”. Có lẽ chính sự chân thành và chân thực nhà thơ gửi vào từng hình ảnh, câu từ trong tác phẩm đã chinh phục người đọc, đem đến cho họ nhiều suy nghĩ, cảm xúc sâu sắc. Tám câu thơ đầu của bài thơ mang khá nhiều ý nghĩa, thể hiện cảm xúc và tài năng nghệ thuật của nhà thơ.
Quang Dũng là một nhà thơ hiện đại Việt Nam mang nét đẹp hồn hậu cùng ngòi bút tài hoa. Một người bạn của Quang Dũng, nhà thơ Trần Lê Văn từng chia sẻ rằng: “Quang Dũng là người sống nội tâm, nhẹ nhõm, vừa ảo vừa thực như chính những câu thơ phiêu diêu của ông: “Cơn gió bóng mây qua đỉnh Việt/ Mà như lau sậy có linh hồn”. Có lẽ chính bởi nét đẹp tâm hồn đó, mà nhiều người coi Quang Dũng như một cô đào, cô phong trong trường thơ kháng chiến, rằng ông ít quan tâm đến cách tân, hình thức, không chủ trương sa vào sự cầu kỳ, mà ngôn từ trong thơ lại đầy sức trẻ, tươi mới, tạo dựng được sự quyến rũ lạ thường để từ đó khẳng định vị thế, tên tuổi của ông trong làng thơ hiện đại nước nhà. Một bài thơ tiêu biểu của Quang Dũng có thể kể đến đó chính là “Tây Tiến” được sáng tác năm 1948, khi nhà thơ phải rời xa đơn vị của mình để chuyển sang một đơn vị khác tại Phù Lưu Chanh. Tám câu thơ đầu của tác phẩm đã gieo nhiều cảm xúc, nỗi niềm trong lòng người đọc.
Hai câu thơ mở đầu tác phẩm đã bộc lộ một nỗi nhớ thiết tha, dâng trào khiến nhân vật trữ tình phải thốt lên thành lời:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơiNhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Tiếng gọi “Tây Tiến ơi” gợi bao niềm thân thương đi cùng với tâm trạng “nhớ chơi vơi” đã khắc họa chân thực, rõ nét nỗi nhớ da diết, bao trùm lên cả không gian, thời gian. Những câu thơ tiếp theo, nhà thơ đã phác họa ra trước mắt người đọc một bức tranh thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ, hoang sơ nhưng cũng đầy dữ dội, hiểm trở để từ đó bức chân dung người lính càng thêm nổi bật:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏiMường Lát hoa về trong đêm hơiDốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳmHeo hút cồn mây súng ngửi trờiNgàn thước lên cao ngàn thước xuốngNhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Nhà thơ Quang Dũng đã đưa ra tên một loạt các địa danh như “Sài Khao”, “Mường Lát”, “Pha Luông” vừa giúp tăng tính chân thực, thuyết phục cho bài thơ, vừa góp phần gợi nên một sự hẻo lánh, xa xôi, hoang vắng. Tác giả đã linh hoạt sử dụng một loạt các từ láy đậm chất tạo hình: “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” để qua đó đem đến cho người đọc cái nhìn chân thực, sống động hơn về bức tranh núi rừng nơi đây. Những từ láy ấy khi kết hợp với nghệ thuật điệp ngữ: “Dốc lên…dốc lên…” gợi ra một địa hình hiểm trở với núi cao, đèo dốc chênh vênh, gợi ra hình ảnh những con đường đèo, đường rừng nơi người lính Tây Tiến hành quân qua đầy gập ghềnh, gian khó và thử thách ý chí, sự kiên trì, bền dạ của đoàn quân.
Một hình ảnh thơ vô cùng đẹp và giàu ý nghĩa nhà thơ tạo dựng trong đoạn thơ này đó chính là hình ảnh: “súng ngửi trời”. Trên cái nền hiện thực đầy gian khổ, thử thách ý chí người lính ấy, nhà thơ đã đem đến cho người đọc một hình dung vô cùng trẻ trung, hóm hỉnh và đậm chất Quang Dũng. Cách nói “súng ngửi trời” của nhà thơ không chỉ thể hiện sự cao rộng mênh mang của đất trời Tây Bắc, mà còn khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến với tư thế chủ động, hiên ngang và tâm thế sẵn sàng đối diện khó khăn, sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc. Nhịp thơ ngắt đôi trong câu thơ: “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” tiếp tục gợi tả sự nguy hiểm tột cùng của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc. Tuy thiên nhiên nhiều khi dữ dội, khắc nghiệt vậy nhưng trong tâm hồn lạc quan, tươi trẻ của những người lính, họ không cảm thấy những điều đó quá nặng nề, mà trái lại, nhiều lúc lại rất nên thơ. Đó là hình ảnh “Mường Lát hoa về trong đêm hơi” hay “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Trong cách nhìn, cách nghĩ, cách cảm của người lính, cảnh vật thiên nhiên đất trời ấy lại đượm một vẻ gì rất đỗi nên thơ, làm say đắm lòng người.
Từng câu thơ, hình ảnh đến nhịp điệu hay giọng thơ trong tám câu đầu bài thơ “Tây Tiến” đã góp phần tạo nên sự đặc sắc cho giá trị nội dung tư tưởng cũng như hình thức nghệ thuật của cả bài thơ, không chỉ đem đến cho người đọc cái nhìn chân thực về bức tranh thiên nhiên núi rừng nhiều gian khổ trên đường hành quân mà còn phác họa đậm nét chân dung tâm hồn người lính Tây Tiến, đồng thời thể hiện sự trân trọng, nỗi nhớ thương nhà thơ dành cho đồng đội của mình.
5. Cảm nhận của anh chị về khổ thơ 1 Tây tiến - Mẫu 5
Tây Tiến được xem là đứa con đầu lòng tráng kiện và tài hoa của Quang Dũng và của cả nền thơ kháng chiến của văn học Việt Nam, đặc biệt là của những năm đầu trong cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ. Những chàng thư sinh áo trắng, rời bỏ bút mực xanh lên đường đi chiến đấu vì lòng yêu Tổ quốc, quê hương tha thiết, vì nền hòa bình của dân tộc, họ đi với trái tim kiêu hùng, anh dũng nhưng vẫn mang những nét lãng mạn, hào hoa của lớp trẻ tri thức Hà Nội. Điều ấy đã được nhà thơ Quang Dũng tái hiện một các xuất sắc trong bài thơ Tây Tiến bằng ngòi bút phóng khoáng, hồn hậu và rất mực tài hoa lãng mạn. Với khổ thơ đầu, nhà thơ đã hướng về nội tâm của người lính chiến, cũng chính là bản thân tác giả với những nỗi nhớ tha thiết miền đất Tây Bắc và vẻ đẹp vượt vượt lên khó khăn gian khổ của người lính Tây Tiến.
Quang Dũng quê ở Đan Phượng, Hà Tây (nay là Hà Nội), ông là một nghệ sĩ đa tài, vừa là nhạc sĩ, vừa là họa sĩ chính vì thế thơ ông rất giàu chất nhạc và chất họa. Quang Dũng còn là một người lính ưu tú, tham gia nhiều chiến trường khác nhau, nên những vần thơ của ông về người lính rất chân thật và sống động, với sức truyền cảm mạnh mẽ, phong cách thơ ông gói gọn trong mấy từ: Phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa. Binh đoàn Tây Tiến được thành lập vào đầu năm 1947, thành phần chủ yếu là những thanh niên Hà thành, nhận nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Việt- Lào, đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp. Địa bàn hoạt động trải rộng suốt từ vùng Sơn La, Hòa Bình, đến Sầm Nứa (Lào), rồi vòng về vùng phía tây Thanh Hóa, phải hành quân nhiều lần, điều kiện chiến đấu vô cùng gian khổ. Tây Tiến sáng tác cuối năm 1948, ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng hồi tưởng lại về những ngày tháng ở binh đoàn Tây Tiến. Ban đầu có tên là Nhớ Tây Tiến, sau đổi thành Tây Tiến, một nhan đề hàm súc, cô đọng, nhưng vẫn thể hiện rõ ràng cảm xúc chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ. Cảm hứng bao trùm bài thơ là cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng.
Nỗi nhớ về một Tây Bắc dữ dội, được thể hiện trong 14 câu thơ đầu.
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơiSài Khao sương lấp đoàn quân mỏiMường Lát hoa về trong đêm hơiDốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳmHeo hút cồn mây, súng ngửi trờiNgàn thước lên cao, ngàn thước xuốngNhà ai Pha Luông mưa xa khơiAnh bạn dãi dầu không bước nữaGục lên súng mũ bỏ quên đời!Chiều chiều oai linh thác gầm thétĐêm đêm Mường Hịch cọp trêu ngườiNhớ ôi Tây Tiến cơm lên khóiMai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Hai câu thơ đầu “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!/”Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”, gợi lên những nỗi nhớ, nỗi thương dâng trào về một thời đã qua, về một vùng đất đã xa. Lời gọi “Tây Tiến ơi” rất tha thiết khắc khoải, Tây Tiến không chỉ là một cái tên mà dường như nó đã trở thành người thân thương ruột thịt. Quang Dũng gọi tên “sông Mã” ngay từ những dòng thơ đầu, địa danh ấy cũng là hiện thân tiêu biểu của vùng rừng núi Tây Bắc. Trên quãng đường hành quân, dòng sông ấy không chỉ là một địa danh trên bản đồ địa lý mà đã trở thành người bạn, người tri kỷ, là chứng nhân lịch sử đã chứng kiến biết bao đau thương, gian khó, vui buồn của người lính chiến trong suốt cuộc trường chinh. Thế nên trong nỗi nhớ của Quang Dũng, trước hết là nhớ về binh đoàn Tây Tiến thân yêu, sau là về Tây Bắc với dòng sông Mã vương đầy kỷ niệm. Không chỉ có như vậy, trong ấn tượng, trong nỗi nhớ của nhà thơ còn có hình ảnh của rừng núi, đó là nỗi nhớ “chơi vơi” lạ lùng! Bởi với người lính xuất thân từ phố thị, thì hình ảnh rừng núi Tây Bắc hết sức lạ lẫm, đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng người lính chiến. Quang Dũng hai lần nhắc chữ “nhớ”, nhằm nhấn mạnh nỗi nhớ đang khắc khoải trong tâm hồn, đặc biệt “nhớ chơi vơi” lại là một cách diễn tả nỗi nhớ rất riêng của Quang Dũng. Đó là cảm giác, trơ trọi, hụt hẫng, chông chênh trong một nỗi hoài niệm xa xôi, bởi Tây Bắc đã xa lắm rồi, một Tây Bắc đầy sương mù, mây vờn quanh núi chơi vơi, hoang vắng, nhưng lắm oai hùng.
Nếu như 2 câu thơ đầu là nỗi nhớ bao trùm thì ở 12 câu thơ tiếp nỗi nhớ ấy đã được nhà thơ khắc sâu qua nhiều kỷ niệm ấn tượng. Đầu tiên là nỗi nhớ về Sài Khao, Mường Lát trong, “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi/Mường Lát hoa về trong đêm hơi”. Hai địa danh đã gợi nhắc về những địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến, từ đó kéo ra các không gian rộng lớn khác xuyên suốt cả bài thơ như Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu,… Dường như nỗi nhớ của nhà thơ dàn trải dài khắp chiều không gian, mỗi nơi mà nhà thơ từng bước chân đi qua thì tâm hồn nhà thơ đều cảm thấy yêu thương gắn bó, trích lời Chế Lan Viên “Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương”. Có thể nói mỗi một địa danh biểu trưng cho núi rừng Tây Bắc đều đã trở thành một kỷ niệm khắc sâu vào trong tâm khảm của nhà thơ không thể phai mờ, đó cũng là tình cảm thắm thiết sâu nặng, cũng trích lời Chế Lan Viên “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”.
Hình ảnh “sương lấp đoàn quân mỏi” vốn gợi hình ảnh đoàn quân Tây Tiến trở về Mường Lát trong màn sương mờ mờ ảo của núi rừng Tây Bắc, gợi lên vẻ đẹp lãng mạn của thiên nhiên núi rừng, đồng thời là vẻ đẹp đông đảo, đoàn kết của người lính chiến. Cảm giác “mỏi” hiện diện trong gân cốt người lính chiến, dường như vẫn còn như mới trong tâm hồn Quang Dũng, điều ấy càng chứng tỏ nỗi nhớ sâu sắc của tác giả, bởi kỷ niệm càng nhỏ bao nhiêu thì nỗi nhớ là càng to lớn bấy nhiêu, nhớ kỹ đến cả cái “mỏi” hành quân xa! “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”, hoa ở đây có thể hiểu là ngàn hoa của núi rừng, hiện thân cho vẻ đẹp của thiên nhiên, nhưng có lẽ chính xác hơn, thì hoa ấy là ánh sáng của ngọn đuốc bập bùng trong đêm tựa đóa hoa lửa trong những đêm hành quân mịt mờ trở về Mường Lát. Hình ảnh ngọn đuốc hoa vừa gợi lên nét lãng mạn, vừa hào hùng của một thời Tây Tiến…
Sau nỗi nhớ về Mường Lát về Sài Khao chính là kỷ niệm về những ngày hành quân chiến đấu đầy gian khổ, về vùng núi rừng Tây Bắc lắm hiểm trở, nguy nan.
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳmHeo hút cồn mây, súng ngửi trờiNgàn thước lên cao, ngàn thước xuốngNhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Điệp từ “dốc” gợi lên cảnh những đỉnh dốc nối tiếp nhau, hết đỉnh dốc này lại tới đỉnh dốc khác, chẳng biết bao giờ mới hết. Từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” gợi lên sự hiểm trở, quanh co, lắt léo gập ghềnh, thêm vào đó là sự chênh vênh của núi rừng, bên là vách núi bên là vực thẳm, sự hun hút của cung đường. Cả câu thơ gợi mở một không gian hành quân vừa cao lại vừa sâu rộng và người lính đang phải nỗ lực hết sức mình để vượt qua những chặng đường đầy nguy khó. Điệp ngữ “Ngàn thước” kết hợp với nghệ thuật tương phản “lên cao-xuống”, cũng tiếp tục vừa gợi ra độ cao chót vót của đỉnh dốc, vừa gợi ra độ sâu thăm thẳm của đáy dốc. Lời thơ làm nổi bật được tính chất hùng vĩ, hiểm trở nổi bật của núi rừng Tây Bắc và nỗ lực vượt lên trên những khó khăn địa hình hành quân của người lính chiến lúc bấy giờ. Nhưng dẫu thiên nhiên có hùng vĩ, trùng điệp, khúc khuỷu đến mấy thì cũng trở nên vô nghĩa dưới bước chân của binh đoàn Tây Tiến, người lính đã hiện lên với tầm vóc là một đối thủ xứng tầm của thiên nhiên. Từ láy “heo hút” thể hiện sự hoang vắng, lạnh lẽo của núi rừng, nơi dường như chưa từng có bước chân người đến, chính vì người lính hành quân trên những ngọn núi cao chót vót, nên những “cồn mây” mới như đang quanh quẩn, như đùa giỡn dưới chân, ngỡ rằng người chiến binh đang bước đi trên mây chứ chẳng phải núi rừng.
Hình ảnh “súng ngửi trời” là một hình ảnh nhân hóa thú vị và đầy sáng tạo của Quang Dũng, vì người lính hành quân qua những đỉnh núi, nơi có thể chạm đến mây, thì những khẩu súng khoác trên vai, mũi súng dường như đang chọc thủng trời xanh kia, nói là “súng ngửi trời” đó là cách cảm nhận thật tinh nghịch của người lính trẻ lãng mạn, hài hước và hồn nhiên. Câu thơ cuối có âm điệu thật khác so với ba câu thơ trên, lời thơ nhẹ nhàng trầm xuống, tưởng tượng như người lính chiến từ trên đỉnh núi cao mà phóng tầm mắt xuống, thấy những cảnh vật mơ hồ không sắc nét, nhưng đó là dấu hiệu của sự sống, “mưa xa khơi” gợi cảm giác khoan khoái mát lạnh của làn mưa trắng xóa. Đó là nét đẹp lãng mạn của núi rừng Tây Bắc, đồng thời cũng gợi lên trong tâm hồn người lính những cảm giác yên bình, về một chốn dừng chân, để tiếp thêm động lực cho những chặng đường trước mắt.
Sau những ngày hành quân gian khổ, thì hồi ức của Quang Dũng tiến về sự hi sinh của một người lính Tây Tiến.
“Anh bạn dãi dầu không bước nữaGục lên súng mũ bỏ quên đời!”
Các gọi “anh bạn” thể hiện tình cảm thân thiết trìu mến, cụm từ “không bước nữa” và “bỏ quên đời” đều là cách nói tránh về cái chết, điều đó là giảm đi sự đau thương mất mát, đồng thời nhấn mạnh sự hy sinh cao cả của người lính chiến. Tư thế hi sinh “gục lên súng mũ”, thể hiện tinh thần người lính chiến dẫu có hy sinh cũng không hề rời đi trách nhiệm, trang bị gắn bó với đời lính, đó là một tư thế ngang tàng, gan góc, quả cảm của người lính. Có thể nói trong hai dòng thơ trên có sự đau đớn xót xa của nhà thơ với người đồng đội đồng thời cũng là tấm lòng cảm phục với sự hy sinh anh hùng ấy. Lời thơ cũng cho thấy cái nhìn tỉnh táo và dũng cảm của Quang Dũng khi viết về chiến tranh, nhưng không hề giấu đi những nỗi đau mất mát.
Tiếp đến là nỗi nhớ về một thời gian khổ và lãng mạn, điều ấy được thể hiện rõ ràng trong 4 dòng thơ sau:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thétĐêm đêm Mường Hịch cọp trêu ngườiNhớ ôi Tây Tiến cơm lên khóiMai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Cấu trúc thơ tân kỳ độc đáo, dùng động từ mạnh mẽ trong câu “Chiều chiều oai linh thác gầm thét” thể hiện cái dữ dội, hùng vĩ hoang sơ của vùng núi rừng Tây Bắc. Bên cạnh đó, không chỉ dừng lại ở sự hoang sơ hùng vĩ, mà núi rừng nơi đây còn ẩn chứa những mối hung hiểm khôn lường, Quang Dũng viết “Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”, nơi rừng thiêng nước độc, lại còn có sự hiện diện của ác thú. Mải chìm trong những ký ức nhưng nhà thơ bỗng sực tỉnh “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói/Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”, Tây Tiến đã xa, Tây Bắc cũng đã xa lắm rồi, chỉ còn lại kỷ niệm. Nỗi nhớ ở đây được bộc lộ một cách tha thiết, cồn cào, nhớ cả về những bát cơm, hương khói lửa, nắm xôi ấm tình quân dân, đồng thời cũng gợi lên một thời kháng chiến vừa vất vả vừa lãng mạn, thi vị nên thơ.
Suốt 14 dòng thơ đầu xoay xung quanh nỗi nhớ khôn nguôi về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, về vẻ đẹp vượt lên trên khó khăn gian khổ của người lính, sự hy sinh cao cả, nét lãng mạn trong tâm hồn người lính trẻ giữa những gian khổ chất chồng. Bằng ngòi bút hào hoa và lãng mạn Quang Dũng đã diễn tả một cách chân thực nhất những nỗi nhớ khắc khoải trong tâm hồn của người lính chiến về một thời kháng chiến đã đi qua với giọng điệu phóng khoáng, hình ảnh thơ giàu sức gợi, nhịp thơ biến đổi, tất cả đã tạo nên một âm hưởng riêng, một phong cách riêng của người lính Tây Tiến.
6. Cảm nhận của anh chị về khổ thơ 1 Tây tiến - Mẫu 6
Trong dòng chảy thi ca Việt Nam, thơ ca cách mạng là một thời kì để lại được nhiều dấu ấn với những thi phẩm đặc sắc như Lên Tây Bắc, Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Việt Bắc (Tố Hữu), Đồng chí (Chính Hữu), Đất nước (Nguyễn Đình Thi),... Nhưng bài thơ được coi là "đứa con đầu lòng hào hoa và tráng kiện của thơ ca kháng chiến chống Pháp" chính là Tây Tiến của Quang Dũng. Bài thơ không chỉ tái hiện lại những tháng năm kháng chiến của đoàn quân Tây Tiến mà còn khắc họa được bức tranh thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ mà lại vừa lãng mạn nên thơ. 8 câu thơ đầu tiên đã gây ấn tượng mạnh mẽ với bạn đọc về hình ảnh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc.
Bài thơ Tây Tiến được sáng tác năm 1948 tại Phù Lưu Chanh, đơn vị mà Quang Dũng chuyển công tác đến sau khi kết thúc quãng thời gian một năm gắn bó cùng sát cánh, kề vai với đồng đội của quân đoàn Tây Tiến. Trong nỗi nhớ khôn nguôi về đồng đội và núi rừng Tây Bắc, nhà thơ đã không kìm được lòng mình, để tiếng nói của trái tim cất lên thành trang thơ. 8 câu thơ đầu tiên như một thước phim sống động tái hiện lại cảnh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ và hiểm trở khôn cùng.
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơiNhớ về rừng núi nhớ chơi vơi"
Hình ảnh con sông Mã hiện lên là một hình ảnh gắn liền với địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến, là chứng nhân của một thời dậy vang, máu lửa. Tiếng gọi "Tây Tiến ơi" thân thương, da diết như tiếng gọi một người bạn hữu đã lâu ngày xa cách. Điệp từ "nhớ" trong một câu toàn thanh bằng nhưng một nốt nhấn cao độ trong bản nhạc trầm, nỗi nhớ dường như luôn thường trực trong lòng nhà thơ bỗng trào dâng, lên tiếng. Hai câu thơ gieo vần "ơi" kết hợp với tính từ "chơi vơi" vang lên, khiến cho lòng ta cũng bất chợt lâng lâng, lửng lơ song lại ắp đầy, tuy nhẹ mà lại lắng sâu. Có lẽ chính bởi vậy, cho dù nhà thơ đã bỏ đi một chữ "nhớ" trong tiêu đề ban đầu của tác phẩm ("Nhớ Tây Tiến") thì cảm xúc cũng vẫn không thôi dào dạt. Nỗi nhớ trào dâng dường như thấm đẫm trong cảnh vật trên đường hành quân, trong những kỉ niệm của một thời kháng chiến. Tất cả một vùng ký ức sống lại, nồng nàn và thân thương, thiết tha và trọn vẹn tựa như một thước phim quay chậm, rồi từng nét cảnh núi rừng hiện lên trong bao ngày gian khó, từng giây phút gian nan bên đồng đội anh em, từng dáng hình của người sơn nữ dáng duyên, và cả hơi cơm đạm bạc mà ấm nồng tình quân dân cá nước,... cứ thế mà hiện lên đong đầy.
Nối tiếp hai câu thơ khắc hoạ nỗi nhớ, khung cảnh thiên nhiên Tây Bắc bắt đầu hiện ra, trước hết là những địa danh, những địa bàn hoạt động mà đội quân đã từng một thời gắn bó.
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏiMường Lát hoa về trong đêm hơi"
"Sài Khao", "Mường Lát" là tên của những bản núi mù sương, nghe tuy lạ lẫm, nhưng lại là những cái tên đã đồng hành cùng người lính Tây Tiến suốt những tháng năm kháng chiến. Hai câu thơ như gợi nhắc đến một nơi xa xôi bí ẩn nào đó và cũng chính sự bí ẩn ấy lại quyến rũ vô cùng. "Sương lấp đoàn quân mỏi" là chi tiết tả thực khắc họa những khó khăn gian nan mà người lính Tây Tiến gặp phải trên con đường hành quân. Thiên nhiên núi rừng miền cao ẩn chứa biết bao những thử thách gian nan là thế nhưng vẫn có ở đâu đây những nét đẹp thơ mộng. Nhà thơ sử dụng hai từ "đêm hơi" chứ không phải "đêm sương", là một đêm mờ hơi sương, đêm của hơi núi rừng, hay là một đêm nhẹ như hơi thở. Hai chữ "đêm hơi" gợi nhiều hơn tả, nó như phác lên trong tâm trí của người đọc những nét vẽ thật mơ hồ, ảo diệu, dường như lại chẳng nhìn thấy mà chỉ có thể cảm nhận. Trong không gian ảo huyền nên thơ, hình ảnh "hoa về" như điểm nhấn cho cảm hứng lãng mạn. "Hoa" là những bông hoa trên tay trên vai trên áo trên mũ người lính trên đường hành quân, là hoa lửa hoa đuốc sáng soi dẫn đường trong đêm tối, hay phải chăng "hoa" lại chính là người con gái người thôn nữ miền sơn cước đi về trong miền nhớ, miền thương thẳm sâu trong tâm hồn người chiến sĩ.
Nói đến Tây Bắc, ta không thể không nghĩ tới thiên nhiên hùng vĩ, có phần hiểm trở. Những núi cao, dốc thẳm luôn là những trở ngại trên con đường hành quân của những người lính trẻ.
"Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳmHeo hút cồn mây súng ngửi trờiNgàn thước lên cao ngàn thước xuống"
Điệp từ "dốc", "ngàn thước" kết hợp với các giàu tính gợi hình " khúc khuỷu", "thăm thẳm", "heo hút" và thủ pháp tương phản đối lập "lên - xuống", đối xứng giữa hai tiểu vế đã khắc hoạ khung cảnh thiên nhiên trùng điệp, núi tiếp núi, đèo nối đèo, lên cao chót vót rồi bỗng dưng lại dốc xuống tận cùng như muốn thử thách lòng gan dạ và ý chí kiên cường của người lính Tây Tiến. Trong giờ phút gian khó ấy, hình ảnh "súng ngửi trời" hiện lên thật thi vị. Đây quả là một cái nhìn hóm hỉnh, thú vị của người chiến sĩ, nó như phá tan đi cái mệt nhọc của quãng đường hành quân đầy gian khó. Trong bài thơ "Đồng chí", Chính Hữu cũng đã từng ghi lại hình ảnh "đầu súng trăng treo". Đây đều là những hình ảnh tả thực, khi những người lính hành quân, họ luôn vác súng trên vai, đầu súng hướng lên, ở một góc độ nào đó, như thể súng đang chạm tới trời, như đang treo mảnh trăng sáng của đêm rừng canh gác. Chính qua những hình ảnh đó, mà ta như nhìn vào được tâm hồn của họ, họ cũng mang một trái tim trẻ trung, cũng thơ mộng chứ không hề chai sạn giữa những gian nan thử thách nơi chiến trường cam go, khốc liệt. Và dường như, khi đã vượt qua hết những chặng gian lao, người lính như thở phào nhẹ nhõm, đứng nơi đỉnh cao, phóng tầm mắt ra xa
"Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi"
Sau 3 câu thơ liên tiếp đặc tả cảnh thiên nhiên hùng vĩ hiểm trở, nhà thơ sử dụng một câu thơ toàn vần bằng gợi lên khung cảnh thanh bình, thơ mộng. Thì ra, Tây Bắc ngoài những đèo cao dốc thẳm cũng có những góc lãng mạn, nên thơ đến thế, mà có lẽ, chỉ có ai đã từng gắn bó thân thuộc với nơi đây mới có thể khám phá nên mà thôi.
Bằng sự hiểu biết sâu sắc là ngòi bút hào hoa phóng khoáng, Quang Dũng đã khắc họa hình ảnh thiên nhiên Tây Tiến thật hùng vĩ nhưng cũng rất đỗi nên thơ. Đoạn thơ đã góp một phần không nhỏ vào thành công của tác phẩm nói riêng và văn thơ cách mạng nói chung, để Tây Tiến trở thành một bông hoa mãi tươi xanh trong dòng chảy của thời gian.
7. Cảm nhận của anh chị về khổ thơ 1 Tây tiến - Mẫu 7
Ra đời từ những năm đầu kháng chiến chống Pháp, cùng một đề tài người lính với Nhớ của Nguyên Hồng, Đồng chí của Chính Hữu, nhưng Tây Tiến của Quang Dũng vẫn có một gương mặt riêng thật khó quên, mang đậm hào khí lãng mạn của một thời, gắn với một giai đoạn lịch sử đấu tranh anh dũng của dân tộc.
Bài thơ mở đầu bằng nỗi nhớ da diết, trải rộng cả không gian và thời gian mênh mông.
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.
Tác giả nhớ về những ngày ở Tây Tiến, nhớ những người đồng đội và nỗi nhớ ấy đã thốt lên thành lời gọi. Văn học ta có nhiều câu thơ diễn tả nỗi nhớ…nhưng “nhớ chơi vơi” thì có lẽ Quang Dũng là người đầu tiên mạnh dạn sử dụng. Nỗi nhớ ấy gợi xa về cả không gian, thời gian và tầm cao nữa, nỗi nhớ như có dáng hình bềnh bồng, bềnh bồng. Quang Dũng viết bài thơ này khi mới xa đoàn quân Tây Tiến, xa mà không hẹn ước, không biết ngày gặp lại. Cảm giác về thời gian trải dài tạo nên nỗi “nhớ chơi vơi”, bâng khuâng khó tả.
Rồi cứ thế, nỗi nhớ đồng đội tấy lan tỏa, thấm đượm nồng nàn trên từng câu thơ, khổ thơ. Có lẽ nói bài thơ được xây dựng trên cảm hứng thương nhớ triền miên với bao kỷ niệm chồng chất, ào ạt xô tới:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi.Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
Sài Khao, Mường Lát, những địa danh rất Tây Bắc cũng góp phần gợi nỗi nhớ chơi vơi. Hình ảnh Tây Bắc được hiện lên trong câu thơ thật mịt mù và cái mệt mỏi của đoàn quân như lẫn vào sương.
Quang Dũng thật tài tình khi viết một câu thơ hầu hết là thanh bằng nhẹ nhàng, lâng lâng, chơi vơi như sương, như hoa, như hồn người, khác với:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳmHeo hút cồn mây súng ngửi trời.
Những câu thơ giàu chất tạo hình như vẽ lại được cả chặng đường hành quân đầy gian khổ, khó khăn. Tác giả không viết súng chạm trời mà là “súng ngửi trời” rất sinh động, nghịch ngợm, thông minh, hóm hỉnh.
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuốngNhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Tây Tiến đặc tả cận cảnh. Con người và cảnh vật rừng núi miền Tây Tổ quốc được tác giả thể hiện ở khoảng cách xa xa, hư ảo với kích thước có phần phóng đại khác thường. Trong khổ thơ thứ nhất này từng mảng hình khối, đường nét, màu sắc chuyển đổi rất nhanh, bất ngờ trong một khung cảnh núi rừng bao la, hùng vĩ như một bức tranh hoành tráng.
Khung cảnh thiên nhiên hiện lên ở Tây Tiến thật hoang sơ, kỳ vĩ. Trên cái nền thiên nhiên dữ dội có hình ảnh đoàn quân Tây Tiến thật nhỏ bé nhưng chính sự đối lập tương phản đó càng làm tăng khí phách anh hùng, kẻ thù cũng như gian khổ không gì khuất phục nổi.
Trên đường hành quân đã có những người lính hy sinh. Tác giả không ngần ngại nói đến cái chết:
Anh bạn dãi dầu không bước nữaGục lên súng mũ bỏ quên đời.
Quang Dũng là một nhà thơ xuất thân tiểu tư sản nên ông miêu tả cái chết cũng rất lãng mạn. Hình ảnh “Gục lên súng mũ bỏ quên đời” vừa gợi thương nhưng cũng rất bình thản. Những chiến sĩ Tây Tiến là những thanh niên Hà Nội chưa quen chuyện gươm súng gian khổ và họ đã ngã xuống sau những dãi dầu sương gió. Hình như tác giả không muốn người đọc chìm sâu trong cảm giác xót thương nên ngay sau đó là hình ảnh hào hùng của thiên nhiên:
Chiều chiều oai linh thác gầm thétĐêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Và đằng sau những trắc trở ấy lại là cảnh thanh bình, yên ấm:
Ôi nhớ Tây Tiến cơm lên khóiMai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Câu thơ gợi cảm giác nồng nàn, no nê, đầy đủ những kỷ niệm đơn sơ, nhỏ bé trong cuộc sống đời lính thường ngày cũng hóa thành gần gũi, ấm lòng. Hương thơm ấy không chỉ là hương “nếp xôi” mà còn là hương từ đôi bàn tay em – cô gái Mai Châu.
Quang Dũng nhớ về người lính Tây Tiến gian khổ, hy sinh nhưng không bi lụy, mà vẫn hùng, vẫn thơ. Tác giả sử dụng những từ ngữ, hình ảnh, âm thanh mới mẻ, gợi cảm và có chút lãng mạn.
Bốn mươi ba năm đã trôi qua, kể từ ngày Tây Tiến ra đời. Vượt qua sức cản phá của thời gian, Tây Tiến vẫn còn sức quyến rũ chúng ta hôm nay, gợi nhớ về “những năm tháng không quên” trong lịch sử dân tộc. Có thể nói Tây Tiến là “một tượng đài bất tử” về người lính vô danh mà Quang Dũng đã dựng lên bằng cả tâm hồn mình để tưởng niệm một thế hệ thanh niên đã hăng hái, anh dũng ra đi mà nhiều người trong số họ không về nữa. Tây Tiến in đậm một phong cách thơ Quang Dũng, tài hoa, độc đáo.
8. Cảm nhận của anh chị về khổ thơ 1 Tây tiến - Mẫu 8
Quang Dũng là người nghệ sĩ đa tài. Ông có thể làm thơ, vẽ tranh và viết nhạc. Tiêu biểu cho sáng tác của Quang Dũng phải kể đến bài thơ "Tây Tiến". Tác phẩm là nỗi nhớ về đoàn binh Tây Tiến trên những nẻo đường hành quân. Đặc biệt ở khổ thơ thứ nhất, nhà thơ đã tái hiện bức tranh cảnh thiên nhiên núi rừng và hình ảnh người lính dũng cảm, kiên cường.
Mở đầu bài thơ là nỗi nhớ về đoàn binh Tây Tiến trên những nẻo đường hành quân:
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi"
Ngay ở những dòng đầu tiên nhà thơ đã cất vang tiếng gọi "Sông Mã", "Tây Tiến". Đó là những địa danh quen thuộc với tác giả nhưng giờ đây tất cả đã cách xa một tầm tay với. "Sông Mã" và "rừng núi" đã mở ra khoảng không gian rộng lớn, khoáng đạt của vùng đất Tây Bắc. Nhà thơ đã dành trọn tình cảm của mình cho nơi đây nên khi phải rời xa, ông thấy "nhớ chơi vơi". Đó là nỗi nhớ rất rộng, rất sâu và không thể nào đong đếm được. Nhịp thơ 4/3 chậm rãi dường như cũng khiến cho nỗi nhớ trở nên da diết, bâng khuâng, khắc khoải hơn. Dường như núi rừng nơi đây đã khắc sâu vào tâm hồn những người lính những kỉ niệm không thể nào quên.
Không chỉ nhớ về đoàn binh Tây Tiến, Quang Dũng còn nhớ về thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ:
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
…
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
…
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người"
Hai tiếng "sương lấp" như cực tả được sức nặng của màn sương nơi đây. Điều đó gây ra rất nhiều khó khăn cho con đường hành quân của người lính. "Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm" gợi những đoạn đường gập ghềnh khúc khuỷu, có khi lại "thăm thẳm" như vực sâu. Đi trên con đường đó chỉ cần một chút lơ là thì người lính có thể gặp nguy hiểm. Quang Dũng đã gợi lên cho người đọc khung cảnh thiên nhiên bí hiểm với đầy rẫy những "oai linh thác gầm thét", đêm đêm "cọp trêu người". Vậy chỉ bằng vài nét gợi tả, nhà thơ đã mở ra trước mắt người đọc bức tranh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ - nơi mang đến biết bao khó khăn cho người lính.
Trong cảm nhận của Quang Dũng, thiên nhiên Tây Tiến còn mang vẻ đẹp rất nên thơ, trữ tình:
"Mường Lát hoa về trong đêm hơi
…
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi"
Nỗi nhớ của nhà thơ như dàn trải khắp không gian rộng lớn. Trong cái khắc nghiệt của thiên nhiên miền Tây, người lính vẫn luôn mở rộng lòng mình để cảm nhận những vẻ đẹp nơi đây. "Hoa về trong đêm hơi" gợi vẻ đẹp huyền ảo, lung linh của những bông hoa nở rộ trong đêm. Những mái nhà dưới màn mưa khiến cho người chiến sĩ cảm thấy ấm áp, gần gũi, yên bình. Bản làng ấy như đang sống trong một thế giới khác, tách biệt hoàn toàn với khói bom lửa đạn khốc liệt ngoài kia. Những hình ảnh "hoa về trong đêm hơi", "mưa xa khơi" thật huyền ảo mang đến sự thư thái cho người đọc.
Ở khổ thơ thứ nhất, nhà thơ không chỉ gợi lên khung cảnh thiên nhiên mà qua đó tác giả còn làm nổi bật hình ảnh người lính:
"Heo hút cồn mây súng ngửi trời
…
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
…
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi"
Đầu tiên, người lính hiện lên với vẻ đẹp lạc quan, hài hước, yêu đời. Dù cuộc chiến có nhiều nỗi vất vả nhưng người lính vẫn tìm thấy niềm vui trong đó. Họ đeo súng trên vai, khi lên đến núi cao, cảm giác như mũi súng đã chạm lên đến mây. Đó chính là lí do câu nói "súng ngửi trời" ra đời. Con đường hành quân ẩn chứa đầy hiểm nguy đó khiến cho người lính gục ngã, họ "không bước nữa" và " bỏ quên đời". Tư thế "gục lên súng mũ" đầy xót xa nhưng cũng thật thực tế. Cái chết của người lính không gây cảm xúc bi lụy mà chỉ nhẹ nhàng như một giấc ngủ quên. Hai câu thơ cuối gợi hình ảnh người dân miền Tây hiện lên thật giản dị, nghĩa tình, họ gắn bó với cách mạng, yêu thương che chở cho những người lính Tây Tiến.
Qua khổ thơ thứ nhất, Quang Dũng đã khắc họa thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ, hoang sơ vừa trữ tình, thơ mộng. Từ đó làm nổi bật hình tượng người lính Tây Tiến với biết bao phẩm chất tốt đẹp. Dù gặp nhiều khó khăn nhưng họ vẫn hiên ngang cầm chắc tay súng bảo vệ đất nước.
9. Cảm nhận của anh chị về khổ thơ 1 Tây tiến - Mẫu 9
Quang Dũng (1921-1988) là một nghệ sĩ đa tài với hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa. “Tây Tiến” là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ và thể hiện sâu sắc phong cách thơ Quang Dũng. Có thể nói, tinh hoa của bài thơ được hội tụ lại trong khổ thơ đầu tiên. Khổ thơ đã dựng lên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, mĩ lệ của núi rừng miền Tây, nơi nhà thơ cũng đoàn quân Tây Tiến đã từng hoạt động, chiến đấu.
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơiSài Khao sương lấp đoàn quân mỏiMường Lát hoa về trong đêm hơiDốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳmHeo hút cồn mây,súng ngửi trờiNgàn thước lên cao, ngàn thước xuốngNhà ai Pha Luông mưa xa khơiAnh bạn dãi dầu không bước nữaGục lên súng mũ bỏ quên đời!Chiều chiều oai linh thác gầm thétĐêm đêm Mường Hịch cọp trêu ngườiNhớ ôi Tây Tiến cơm lên khóiMai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Bài thơ mở ra bằng một nỗi nhớ trào dâng:
Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi!Nhở về rừng núi, nhớ chơi vơi
Tiếng gọi “Tây Tiến ơi” bật lên bởi một nỗi nhớ sâu sắc, cồn cào không kìm nén nổi. Đối tượng của nỗi nhớ ấy rất cụ thể, rõ ràng là: “sông Mã”, “Tây Tiến”, “rừng núi”. Nỗi nhớ ấy phải khắc khoải lắm thì tác giả mới điệp lại hai lần từ “nhớ”. “Nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ chập chờn hư thực, vừa tha thiết, thường trực, vừa mênh mang, đầy ám ảnh, vừa mở ra không gian của tiềm thức, vừa như gợi ra không gian trập trùng của núi đèo rộng lớn. Cách hiệp vần “ơi” làm câu thơ như ngân vang, phù hợp với biên độ của cảm xúc.
Hai câu thơ đầu đã khơi mạch chủ đạo của cả bài thơ là nỗi nhớ khôn nguôi. Nỗi nhớ ấy được cụ thể dần dần trong những vần thơ tiếp sau.
Hai câu thơ tiếp: gợi lại hình ảnh đoàn quân hành quân trong đêm:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Hai câu thơ vừa tả thực, vừa sử dụng bút pháp lãng mạn. Những từ chỉ địa danh Sài Khao, Mường Lát gợi ra địa bàn rộng lớn, đầy lạ lẫm đối với người lính Tây Tiến. Sương mù vùng cao dày đặc như trùm lấp bước chân, nuốt chửng cả đoàn binh vốn đang mỏi mệt, rệu rã vì chặng đường dài gian khổ. Quang Dũng đã nhìn thấy và miêu tả một mảng hiện thực khuất lấp trong thơ ca kháng chiến. Nhưng những người lính ấy, dù mệt mỏi mà tâm hồn vẫn trẻ trung, hào hoa, lạc quan, yêu đời. Hình ảnh “hoa về trong đêm hơi” là hình ảnh đẹp giàu sức gợi. Đó có thể là những ánh đuốc sáng lung linh của đoàn quân đang tiến về bản làng, cũng có thể là hình ảnh đoàn quân từ rừng đi ra, trên tay vẫn cầm theo những đoá hoa rừng ngát hương, mà đó cũng có thể là hình ảnh ẩn dụ về đoàn quân Tây Tiến như những bông hoa rừng. Đoàn quân ấy hành quân trong một “đêm hơi” đầy huyền ảo, mơ hồ, bảng lảng khói sương chốn rừng suối. Hai câu thơ in đậm dấu ấn tài hoa, lãng mạn của Quang Dũng.
Bốn câu thơ tiếp theo đặc tả địa hình hiểm trở của miền Tây:
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳmHeo hút cồn mây súng ngửi trời,Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Nhà thơ sử dụng một loạt các từ láy tượng hình “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”, kết hợp với cách ngắt nhịp 4/3 như chặt đôi câu thơ, mật độ thanh trắc dày đặc khiến câu thơ trúc trắc gợi sự vất vả, nhọc nhằn. Những phép tu từ đó mở ra trong tâm tưởng người đọc ấn tượng về sự gập ghềnh, hiểm trở, ẩn chứa bao bất trắc, nguy hiểm của núi cao, vực sâu nơi núi rừng miền Tây. Hình ảnh “súng ngửi trời” là một nhân hoá táo bạo, đặc tả sự chót vót của dốc núi. Người lính Tây Tiến leo lên đỉnh dốc, cảm tưởng như mũi súng có thể chạm mây. Từ đó, ta cũng thấy được nét tinh nghịch khoẻ khoắn, vẫn có thể trêu đùa vô tư sau một chặng đường hành quân vất vả, mệt nhọc của các anh lính Tây Tiến. Phép đối “ngàn thước lên cao – ngàn thước xuống” càng nhấn mạnh độ gập ghềnh, hình sông thế núi trập trùng, hiểm trở của thiên nhiên miền Tây. Ba câu thơ giàu chất hội hoạ, dựng lên bức tranh hoang vu, dốc đèo đứt nối, hùng vĩ trên con đường hành quân của chiến sĩ Tây Tiến. Câu thơ thứ tư toàn bộ là bảy thanh bằng “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, vần mở “ơi” đặt cuối câu tạo cảm giác nhẹ nhàng gợi ra những phút giây nghỉ ngơi thư giãn của người lính. Họ đứng trên những đỉnh núi, thưởng thức chút bình yên, vẻ đẹp lãng mạn của núi rừng, phóng tầm mắt, thấy mưa rừng giăng mờ nơi bản làng Pha Luông xa xôi. Bốn câu thơ vừa gợi ra sự dữ dội hoang vu, sự êm đềm của núi rừng, vừa gợi ra những cuộc hành quân vất vả nhọc mệt nhưng đầy trẻ trung, yêu đời của các chàng trai Tây Tiến.
Người lính Tây Tiến không chỉ đối diện với dốc cao vực sâu mà còn phải chịu những mất mát hi sinh:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa,Gục lên súng mũ bỏ quên đời.
Cách nói tránh về cái chết “không bước nữa”, “bỏ quên đời” gợi tư thế ngạo nghễ của người lính Tây Tiến. Họ chủ động chấp nhận cái chết, coi nó chỉ đơn giản như một giấc ngủ mà thôi. Tư thế hi sinh “gục lên súng mũ” đầy xót xa nhưng cũng thật hào hùng. Hình ảnh về người lính anh dũng hi sinh ấy sau này ta còn bắt gặp trong “Dáng đứng Việt Nam”: “Và anh chết trong khi đang đứng bắn- Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng”. Câu thơ đã tiếp tục cảm hứng bi tráng khi xây dựng chân dung người lính Tây Tiến.
Và người lính Tây Tiến tiếp tục chịu sự thử thách của núi rừng miền Tây:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét,Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Các từ láy chỉ biên độ lặp lại thường xuyên của thời gian” chiều chiều”, “đêm đêm” kết hợp với biện pháp nhân hoá “thác gầm thét”, “cọp trêu người” đã nhấn mạnh vẻ bí hiểm, dữ dội,hoang dã chứa đầy nguy hiểm, cái chết luôn luôn rình rập đe doạ người lính của núi rừng miền Tây. Sự nguy hiểm ấy không chỉ trải rộng trong không gian mà còn kéo dài và lặp lại thường xuyên theo thời gian.
Hai câu thơ cuối đoạn lại đột ngột chuyển cảnh:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Núi cao rừng rậm lùi xa, chỉ còn lại hương vị ấm áp nghĩa tình quân dân lan toả từ nồi cơm của các cô gái Thái. Từ cảm thán “Nhớ ôi” đứng đầu câu thơ diễn tả nỗi nhớ da diết, ám ảnh khôn khuây của Quang Dũng cũng như người lính Tây Tiến về đồng bào miền Tây. Nhà thơ như nhói lòng khi hồi tưởng lại cảnh đoàn quân quây quần quanh nồi xôi nếp thơm lừng đang bốc khói. Đó là những giây phút ấm áp ngắn ngủi nhưng lại dịu ngọt, tinh tế nên khắc sâu mãi trong tâm trí nhà thơ. Cách kết hợp từ “mùa em” rất độc đáo, gợi những liên tưởng đẹp, lãng mạn về những cô gái Thái vừa khoẻ khoắn vừa dịu dàng mà đằm thắm yêu thương. Hai câu thơ kết thúc đoạn một bài thơ Tây Tiến có âm điệu nhẹ nhàng tha thiết gợi cảm giác êm dịu, ấm áp, tạo tâm thế cho người đọc cảm nhận đoạn thơ tiếp theo.
Trong những đoạn thơ còn lại, nhà thơ Quang Dũng tiếp tục hồi tưởng về cảnh những đêm liên hoan văn nghệ thắm thiết tình quân dân, những buổi chiều trên sông nước miền Tây thơ mộng, hư ảo, hồi tưởng về chân dung tập thể những người lính Tây Tiến anh dũng, hào hoa. Cuối bài thơ, Quang Dũng bộc lộ lời nguyện thề mãi gắn bó với miền Tây và đoàn quân Tây Tiến.
Đoạn thơ đầu bài thơ Tây Tiến đã thể hiện tài hoa và tâm hồn lãng mạn phóng khoáng của nhà thơ Quang Dũng. Đoạn thơ có ngôn ngữ giàu chất tạo hình, giàu nhạc điệu, gây ấn tượng táo bạo, dựng lên bức tranh sinh động, có chiều sâu về cảnh hành quân của đoàn quân Tây Tiến trên cái nền thiên nhiên rừng núi hùng vĩ thơ mộng miền Tây. Qua đó, ta cảm nhận được sự gắn bó sâu sắc, nỗi nhớ tha thiết của nhà thơ Quang Dũng về những ngày tháng chiến đấu trong đoàn quân Tây Tiến – một thời mãi mãi để nhớ và tự hào.
10. Cảm nhận của anh chị về khổ thơ 1 Tây tiến - Mẫu 10
Bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng là một tác phẩm nổi tiếng trong văn học Việt Nam, thường được đọc và học trong các khóa học văn học tại trường học. Bài thơ này đã thể hiện tinh thần và tâm hồn của người lính trong cuộc chiến tranh, khi họ phải đối mặt với những khó khăn và gian khổ.
Bốn câu thơ đầu của bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng đã mở ra một bầu không khí mênh mang của sự nhớ thương và hồi ức về quê hương, nơi xa xôi và đầy khó khăn. Câu thơ này tạo ra một sự tương phản sâu sắc giữa quê hương và mảnh đất Tây Tiến khắc nghiệt. "Sông mã xa rồi Tây Tiến ơi!" - Đây là một lời kêu gọi tinh thần của người lính, nhấn mạnh sự xa cách và khó khăn khi họ phải rời xa sông mã và quê hương. "Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi" - Câu thơ này tạo ra hình ảnh của những kỷ niệm và cuộc sống bình dị ở quê hương, nơi mà người lính đã phải chia xa để bảo vệ đất nước. Cảnh rừng núi và cuộc sống tự do, chơi vơi trở thành một phần của ký ức và khát khao. Những câu thơ này giúp thể hiện tâm trạng của người lính, đồng thời thể hiện tình yêu và sự hy sinh của họ cho đất nước, tạo nên sự xúc động và cảm động trong tâm hồn người đọc.
Những câu thơ tiếp theo mô tả chặng đường khó khăn và gian nan của đoàn binh Tây Tiến trong hành quân, qua những vùng đất núi non xa xôi và thử thách khắc nghiệt. "Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi" thể hiện hình ảnh sương mù che phủ xung quanh cho thấy điều kiện thời tiết và môi trường chất chứa của vùng núi Sài Khao, nơi đoàn quân phải vượt qua. Bên cạnh đó cảnh đêm với sự lan tỏa của mùi hoa thể hiện sự tương phản giữa cuộc chiến tranh và vẻ đẹp tự nhiên của Mường Lát. "Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm" thể hiện sự gian khổ khi phải đi qua những đoạn đường dốc và hiểm trở. "Heo hút cồn mây, súng ngửi trời" tạo hình ảnh của đoàn binh Tây Tiến trên cao nguyên, với sự hiểm nguy và bí ẩn của mây trời và cuộc chiến. "Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống" miêu tả sự vượt qua những địa hình đồi núi và cao nguyên, với khắc nghiệt của việc đi lên và xuống. "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi" - Nhắc đến vùng Pha Luông, một nơi xa xôi và xa lạ, nơi mưa gió làm cho cuộc hành trình trở nên khó khăn hơn.
Quang Dũng thể hiện sự thăng hoa và sự hy sinh của con người trong bối cảnh thiên nhiên gian khổ và khắc nghiệt. "Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời…" Câu thơ này nói về một đồng đội đã hy sinh trong quá trình hành quân. Hình ảnh anh bạn đồng đội dãi dầu, gục xuống và bỏ quên mũ súng thể hiện sự hy sinh và tận tụy trong việc bảo vệ đất nước. Thông qua hình ảnh này, bài thơ thể hiện sự tôn vinh và tôn trọng đối với những người lính đã đổ máu và hy sinh cho quê hương. Tuy thiên nhiên có uy lực và khắc nghiệt, nhưng giá trị con người và tinh thần đoàn kết của họ vẫn được nâng cao và tôn vinh trong cuộc chiến tranh.
Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng không chỉ là một tác phẩm văn học, mà còn là một biểu tượng của tinh thần đoàn kết và hy sinh của người lính trong cuộc chiến tranh Tây Nguyên. Nó thể hiện một phần của lịch sử và tâm hồn dũng cảm của người Việt Nam trong quá trình bảo vệ đất nước.
11. Cảm nhận của anh chị về khổ thơ 1 Tây tiến - Mẫu 11
Đoạn thơ mở đầu của bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng mang trong mình một tiếng gọi tha thiết và ngọt ngào. Tiếng gọi này tạo ra một tâm trạng sâu lắng và mênh mông của người lính đối với quê hương và những kỷ niệm về quê nhà. "Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!" là một lời kêu gọi đầy xúc động, như là một lời tri ân và nhớ thương quê hương và cuộc sống bình dị ở Tây Tiến. Sông Mã là một thắng cảnh đặc biệt của vùng đất này, và việc đề cập đến nó tạo ra hình ảnh mạnh mẽ về vùng quê yêu dấu đã xa xôi. "Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi" thể hiện sự nhớ thương và hoài niệm về cuộc sống tươi đẹp và tự do ở núi rừng. Sự chơi vơi và tự do đã xa mất khi phải đối diện với cuộc chiến tranh và khắc nghiệt của thiên nhiên. Cả đoạn thơ này mang đến một tâm trạng sâu lắng và xúc động, thể hiện tình yêu và tâm hồn của người lính trong cuộc chiến tranh, cũng như lòng kiêng nể và tôn trọng đối với quê hương và cuộc sống nông thôn.
Hình ảnh sương mù "Sài Khao" lấp đầy đoàn quân mệt mỏi tạo ra sự bí ẩn và tinh tế. Sương mù che khuất những đoạn đường khó khăn, và cảm giác mệt mỏi, căng thẳng trong cuộc hành quân trở nên rõ ràng. "Mường Lát hoa về trong đêm hơi" với hương hoa lan tỏa trong không khí mang đến một vẻ đẹp mê đắm và tinh khôi. Hình ảnh này tạo ra một tương phản đặc biệt giữa cuộc chiến tranh và vẻ đẹp tự nhiên của Mường Lát. Tổng hợp, các câu thơ này tạo ra một hình ảnh độc đáo về cuộc hành quân, nơi mà sự đối đầu giữa con người và thiên nhiên, sự hiểm trở và tinh khôi đều góp phần tạo nên một trải nghiệm đầy màu sắc và đa chiều cho đoàn binh Tây Tiến.
Các câu thơ tiếp theo thể hiện một khung cảnh thiên nhiên và tâm trạng hoàn toàn khác biệt so với những vần thơ trước đó. Trong đoạn này, tác giả mô tả cuộc hành quân của đoàn binh Tây Tiến trên các địa hình đồi núi và cao nguyên, tạo ra một tình thế hoàn toàn trái ngược với tâm trạng yên bình và mê mải của thiên nhiên. Đề cập đến vùng Pha Luông, nơi mưa gió làm cho cuộc hành trình trở nên khó khăn hơn. Những câu thơ này thể hiện sự gian khổ và khó khăn của cuộc hành quân của đoàn binh Tây Tiến, khi họ phải vượt qua các địa hình đầy thử thách và đối mặt với thiên nhiên khắc nghiệt.
Các câu thơ cuối cùng của khổ đầu tiên trong bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng đặt ra một bối cảnh tươi đẹp và bình yên trong tâm trí của chiến binh Tây Tiến. Một lần nữa, tác giả tạo ra sự tương phản giữa khung cảnh thiên nhiên và tâm trạng của người lính. Đề cập đến vùng Mai Châu, một nơi tươi đẹp và thơm ngon, nơi mà những ký ức về tuổi thơ và cuộc sống bình yên vẫn còn đọng trong tâm trí người lính.
12. Cảm nhận của anh chị về khổ thơ 1 Tây tiến - Mẫu 12
Bài thơ Tây Tiến thể hiện rõ sự hy sinh và tinh thần đoàn kết của đoàn binh Tây Tiến trong cuộc chiến tranh khốc liệt. Những hình ảnh về những đoạn đường gian nan, đèo dốc, sương mù và mưa gió tạo ra một bối cảnh khắc nghiệt, nhưng người lính vẫn kiên định tiến về với quyết tâm bảo vệ quê hương.
Bài thơ "Tây Tiến" mở đầu với một tiếng gọi tha thiết và mênh mang, như một lời tri ân và nhớ thương quê hương và cuộc sống bình dị ở Tây Tiến. Tiếng gọi này thể hiện tâm trạng sâu lắng và mênh mông của người lính đối với quê hương và những kỷ niệm về quê nhà. Nó là một biểu tượng của tình cảm mạnh mẽ và không thể nào kìm nén nổi. "Nhớ chơi vơi" trong bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng thể hiện sự nhớ về những kỷ niệm và cuộc sống bình dị ở quê hương, nơi mà người lính từ phố thị đã rời xa để tham gia cuộc chiến tranh. Sự "chơi vơi" ở đây có thể hiểu là những khoảnh khắc tươi đẹp và tự do trong tuổi thơ, những kỷ niệm về cuộc sống nông thôn và thiên nhiên hùng vĩ. Việc nhớ về những điều này trở thành một phần quan trọng của tâm trạng và tinh thần của người lính trong cuộc chiến tranh, khi họ đối diện với cuộc sống khắc nghiệt và thách thức ở môi trường hoàn toàn khác biệt.
Những địa danh như "Sài Khao" và "Mường Lát" trong bài thơ "Tây Tiến" không chỉ là các vùng đất cụ thể mà đại diện cho cả vùng đất Tây Bắc nói chung, nơi mà binh đoàn Tây Tiến hoạt động và trải qua những khó khăn trong cuộc chiến tranh. Tác giả đã sử dụng những địa danh này để thể hiện sự gắn kết và tình yêu đối với vùng đất và những người dân ở đó. Nỗi nhớ trong bài thơ này thực sự dường như lan tỏa khắp không gian rộng lớn, từng địa điểm mà tác giả đã đi qua đều gợi lên những kỷ niệm và tình cảm đặc biệt. Đây là cách tác giả thể hiện tâm trạng và tình cảm sâu sắc của người lính đối với vùng đất và cuộc sống mà họ đã từng trải qua, và đồng thời là cách tôn vinh những giá trị và ký ức đáng quý của quê hương và cuộc sống quê nhà.
Các câu kết đoạn "Chiều chiều… nếp xôi" trong bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng thể hiện một vẻ đẹp mạnh mẽ, hùng vĩ và nguy hiểm của vùng núi rừng Tây Bắc, đồng thời sử dụng kết cấu thơ tân kỳ để tạo ra sự tương phản và đặc biệt. Câu thơ bắt đầu một đoạn mô tả về buổi chiều, thời điểm mà ánh nắng và bóng tối tạo nên những khung cảnh đặc biệt và sắc nét. Hình ảnh của nếp xôi tươi ngon và thơm ngon tạo ra một sự tương phản rõ rệt với môi trường núi rừng khắc nghiệt. Nếp xôi ở đây có thể thể hiện sự hy vọng và mong muốn trong cuộc chiến tranh, một chút ngọt ngào trong cuộc sống đầy khó khăn. Sử dụng động từ mạnh và sự nhấn mạnh vào sự nguy hiểm rình rập của ác thú trong rừng thiêng nước độc tạo ra một tâm trạng hùng vĩ và đầy thách thức. Đây là cách tác giả thể hiện sự đối diện của người lính với môi trường tự nhiên hoang sơ và thú hoang, tạo nên một không gian sống động và đầy màu sắc trong bài thơ.
Đoạn thơ mở đầu của bài thơ "Tây Tiến" đã tạo ra một bức tranh mênh mang và đẹp đẽ về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, đồng thời tôn vinh tinh thần và tình cảm của người lính Tây Tiến. Tình yêu quê hương và đất nước được thể hiện một cách rất đặc biệt, kết hợp với tình đồng chí và đồng đội trong cuộc chiến tranh. Sự đoàn kết và tình yêu giữa con người và thiên nhiên cùng nhau tạo nên một bức tranh tâm hồn và tinh thần rất đáng khâm phục.
13. Cảm nhận của anh chị về khổ thơ 1 Tây tiến - Mẫu 13
Quang Dũng là nhà thơ nổi tiếng thời kì kháng chiến chống Pháp với một hồn thơ lãng mạn, tài hoa, thơ giàu chất nhạc, chất họa. Một số tác phẩm nổi tiếng của ông phải kể đến như: " Mây đầu ô", "Thơ văn Quang Dũng",... Trong đó tiêu biểu là "Tây Tiến". Bài thơ không chỉ là nỗi nhớ của Quang Dũng về đoàn quân Tây Tiến mà còn khắc họa rõ nét cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, dữ dội qua đoạn thơ đầu tiên.
Bài thơ "Tây Tiến" ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt. Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt -Lào, đồng thời đánh tiêu hao lực lượng địch. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên, học sinh, trí thức Hà Nội, chiến đấu trong những hoàn cảnh gian khổ nhưng họ sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm.Quang Dũng là đại đội trưởng ở đơn vị Tây Tiến, cuối năm 1948 khi rời đơn vị cũ chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh, Quang Dũng viết bài thơ "Nhớ Tây Tiến". Khi in lại, tác giả đổi tên bài thơ là "Tây Tiến".
Mở đầu bài thơ bằng những dòng thơ chan chưa nỗi nhớ, lời thơ như chợt thốt lên đầy nhớ nhung và tiếc nuối:
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơiNhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi"
Dòng sông Mã như là điểm gợi để nhà thơ nhớ về đoàn quân Tây Tiến, với lời gọi tha thiết ngọt ngào. Nhà thơ đã rất tài tình khi sử dụng từ láy "chơi vơi" kết hợp với hiệp vần "ơi" mở ra một không gian vời vợi của nỗi nhớ. Đồng thời diễn tả tinh tế một cảm xúc mơ hồ, khó định hình, cứ lâng lâng khó tả trong lòng người ra đi. Nhưng cảm xúc chân thực của một người đồng đội đã rời xa đơn vị như choán đầy cả không gian "Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi". Câu thơ có bảy từ thì có hai từ "nhớ". Điệp từ "nhớ" như tô đậm cảm xúc toàn bài thơ, không phải ngẫu nhiên mà nhan đề ban đầu của bài thơ tác giả đặt là " Nhớ Tây Tiến". Để rồi nỗi nhớ ấy cứ trở đi trở lại trong toàn bài thơ tạo nên giọng thơ hoài niệm sâu lắng, bồi hồi. Tất cả trở thành kỉ niệm không thể nào quên.
Ngay ở ca dao, ta đã thấy sự xuất hiện của nỗi nhớ:
"Nhớ ai bổi hổi bồi hồiNhư đứng đống lửa như ngồi đống than"
Vậy nhưng đến với Quang Dũng nỗi nhớ sáng tạo hơn cả với nỗi nhớ "chơi vơi". Đây là trạng thái trơ trọi giữa khoảng không, không thể bấu víu vào đâu, một mình với hoài niệm cứ lửng lơ, sâu lắng, bâng khuâng, tha thiết vọng vào lòng người đọc không thể nào quên. Nỗi nhớ bao trùm cả khoảng không gian và thời gian ấy đã đưa người đọc đến với thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng thật êm đềm thơ mộng. Đó là những địa danh mà đoàn quân Tây Tiến đã đi qua, "Sài Khao", "Mường Lát", "Pha Luông", "Mường Hịch", "Mai Châu". Những địa danh khi đi vào thơ Quang Dũng nó không còn mang màu sắc trung tính, vô hồn trên bản đồ nữa mà gợi lên trong lòng người đọc không khí núi rừng xa xôi, lạ lẫm, hoang sơ và bí ẩn.
Không chỉ vậy, những con đường hành cũng đầy những hiểm nguy:
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏiMường Lát hoa về trong đêm hơi"
Những con đường hành quân gian nan vất vả, trên đỉnh Sài Khao sương dày "lấp" cả đoàn quân, Quang Dũng dùng chữ "mỏi" như tái hiện hình ảnh đoàn quân mệt rã rời tuy vậy họ vẫn đi trong " sương lấp" thật hùng vĩ và tráng lệ. Đâu chỉ có thế, Mường Lát đêm về sương tỏa khắp không gian. Tác giả không nói "hoa nở" mà "hoa về" không nói sương mà là "đêm hơi" như càng nhấn mạnh vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, hào hoa của những người lính Hà Thành.
Con đường hành quân ấy còn vô cùng gập ghềnh, hiểm trở, đầy sự hiểm nguy giữa một bên là núi cao với một bên là vực sâu thăm thẳm:
"Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳmHeo hút cồn mây súng ngửi trờiNgàn thước lên cao ngàn thước xuống"
Không gian được mở ra ở nhiều chiều: chiều cao đến chiều sâu hút của những dốc núi, chiều sâu của vực thẳm, bề rộng của những thung lũng trải ra sau màn sương. Các từ láy giàu sức tạo hình khiến người đọc hình dung những con đường quanh co, dốc rồi lại dốc, những đỉnh đèo hoang vắng khuất vào mây trời. Cách ngắt nhịp 4/3 của câu thơ "Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống" tạo thành một đường gấp khúc của dáng núi. Như vậy ba dòng thơ liên tiếp trong đoạn thơ đã sử dụng nhiều thanh trắc gợi sự vất vả nhọc nhằn của những người lính Tây Tiến trên con đường hành quân.
Nếu như ba câu thơ trên gợi lên một cảm giác gập ghềnh hiểm trở thì đến câu thơ tiếp theo, ta thấy được một phút lắng lòng của những người lính Tây Tiến bên những ngôi nhà nơi xóm núi. Trong không gian bình yên và êm ả, mưa giăng đầy thung lũng thành 'xa khơi". Đọc câu thơ người đọc thấy bình yên đến kì lạ. Phải chăng những phút giây hiếm hoi ấy như tiếp thêm sức mạnh cho người lính chiến đấu tiếp với kẻ thù cũng như thiên nhiên khắc nghiệt nơi đây.
"Chiều chiều oai linh thác gầm thétĐêm đêm Mường Hịch cọp trêu người"
Quang Dũng nhớ đến âm thanh "gầm thét" của thác dữ, tiếng gầm gào của loài hổ dữ rình rập như muốn nuốt chửng người lính mỗi khi chiều đến, đêm về. Thời gian buổi chiều, về đêm lại càng nhấn mạnh thêm cảm giác hoang sơ của chốn "sơn lâm bóng cả cây già". Những từ ngữ và hình ảnh nhân hóa, từ láy được nhà thơ sử dụng để tô đậm ấn tượng về một vùng núi hoang vu dữ dội nơi thiên nhiên hoang dã đang ngự trị và chiếm vai trò chúa tể.
Chỉ bằng mấy dòng thơ đầu Quang Dũng đã tái hiện đầy đủ bức tranh của núi rừng miền Tây được vẽ bằng bút pháp vừa hiện thực, vừa lãng mạn, vừa giàu chất họa lại giàu chất nhạc. Nét vẽ vừa gân guốc, mạnh mẽ, dữ dội nhưng lại cũng rất mềm mại tạo nên vẻ đẹp hài hòa cho bức tranh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ mà đoàn quân Tây Tiến đi qua. Đoạn thơ không chỉ là nỗi nhớ về thiên nhiên miền Tây mà trung tâm của nỗi nhớ ấy còn là những người lính, những đồng đội cũ được Quang Dũng thể hiện bằng vẻ đẹp bi tráng trên chặng đường hành quân đầy chông gai, nguy hiểm. Ấn tượng trong lòng người đọc về người lính Tây Tiến có lẽ bởi vẻ đẹp lạc quan trong chặng đường hành quân gian khổ qua câu thơ đầy chất lính:
"Heo hút cồn mây súng ngửi trời"
Đó là hình ảnh tếu táo, lạc quan trong gian khổ với vẻ đẹp hồn nhiên qua cách nói hóm hỉnh "súng ngửi trời". Nếu viết "súng chạm trời", nhà thơ sẽ chỉ tả được độ cao của đỉnh dốc mà khi đứng trên đó, mũi súng của người lính Tây Tiến như chạm cả vào nền trời. Còn ở đây, Quang Dũng đã gợi được "chất lính" trẻ trung, vẻ tươi mới, sức sống dạt dào trong tâm hồn của người lính Tây Tiến vốn xuất thân từ những thanh niên trí thức trẻ Hà Nội. Đồng thời còn mang đến người đọc sự mới lạ, hóm hỉnh đầy chất lính, mũi súng của người lính được nhân hóa thành hình ảnh "súng ngửi trời" tinh nghịch, đầy chất thơ, mang cảm hứng lãng mạn đồng thời khẳng định chí khí quyết tâm của người chiến sĩ. Trên chặng đường hành quân ấy không thể tránh được sự thật đã có những người đồng đội:
"Anh bạn dãi dầu không bước nữaGục lên súng mũ bỏ quên đời"
Tác giả đã không né tránh hiện thực của những mất mát đau thương trong cuộc chiến.Ông cách nói giảm, nói tránh về cái chết vừa xót xa,vừa ngạo nghễ "không bước nữa" để rồi "bỏ quên đời" như một sự bình tĩnh, thản nhiên đón nhận cái chết, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng. Nhớ những người đồng đội đã ngã xuống nhưng không gợi cảm giác bi luỵ. Hơn thế nỗi mất mát, niềm cảm thương được nói bằng giọng thơ ngang tàng, kiêu hãnh "Gục lên súng mũ bỏ quên đời". Đó là một tư thế chết trong chiến đấu, trong sự hiên ngang, bất khuất.
Sau chặng đường hành quân đầy gian khổ, có những lúc đồng đội hi sinh, đoàn quân Tây Tiến đã có dịp dừng lại một bản làng-Mai Châu
"Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khóiMai Châu mùa em thơm nếp xôi"
"Nhớ ôi"là một từ cảm thán mang tình cảm dạt dào, tiếng lòng của những người lính Tây Tiến. Câu thơ đậm đà tình quân dân, sự gắn kết tình nghĩa thủy chung giữa những người lính Tây Tiến và đồng bào Tây Bắc. Họ dừng chân nơi xóm núi sau chặng đường dài vất vả, họ quây quần trong niềm vui ấm áp, niềm hạnh phúc bên những nồi cơm còn thơm làn gạo mới.Nhớ mùi thơm "nếp xôi" hương vị của núi rừng Tây Bắc, của tình người thân yêu da diết, đằm thắm, sự gắn kết tình nghĩa thủy chung, giữa những con người miền Tây Bắc của Tổ quốc với bộ đội kháng chiến. Tình cảm ấy mãi mãi không thể phai mờ trong lòng những người lính Tây Tiến. Như Chế Lan Viên từng viết về tình quân dân ấy trong bài thơ "Tiếng hát con tàu"
"Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịchVắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừngĐất Tây Bắc tháng ngày không có lịchBữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương"
Qua đoạn thơ trên Quang Dũng không chỉ thể hiện nỗi nhớ về thiên nhiên và miền Tây hùng vĩ mà còn làm toát lên được cảm hứng lãng mạn, bi trán. Bên cạnh đó, ông cũng thành công sử dụng ngôn từ đặc sắc về địa danh, từ tượng hình, từ Hán Việt, kết hợp hài hòa chất nhạc và họa thơ.
Đoạn thơ mở đầu trong bài thơ "Tây Tiến" dù chỉ mới là khúc dạo đầu của một bản tình ca về nỗi nhớ, song cũng đã kịp ghi lại những vẻ đẹp rất riêng của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc. Trên nền của bức tranh thiên nhiên dữ dội ấy, những người lính Tây Tiến hiện lên thật đẹp. Qua đó thể hiện sự gắn bó của nhà thơ với thiên nhiên và con người nơi Tây Bắc. Đồng thời là tấm lòng trĩu nặng yêu thương với những người đồng đội, đồng chí.
14. Cảm nhận của anh chị về khổ thơ 1 Tây tiến - Mẫu 14
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ, những chàng thư sinh áo trắng, rời bỏ bút mực xanh lên đường đi chiến đấu vì lòng yêu Tổ quốc, vì nền hòa bình của dân tộc. Họ đi với trái tim kiêu hùng, anh dũng nhưng vẫn mang những nét lãng mạn, hào hoa của lớp trẻ tri thức Hà Nội. Điều ấy đã được nhà thơ Quang Dũng tái hiện xuất sắc trong bài thơ "Tây Tiến". Với khổ thơ đầu, nhà thơ đã hướng về nội tâm người lính, cũng chính là bản thân tác giả với những nỗi nhớ tha thiết miền đất Tây Bắc và vẻ đẹp vượt vượt lên khó khăn gian khổ của người lính Tây Tiến.
Hai câu thơ đầu “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!/ Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi” đã gợi lên những nỗi nhớ, nỗi thương dâng trào về một thời đã qua, về một vùng đất đã xa. Lời gọi “Tây Tiến ơi” rất tha thiết khắc khoải. Tây Tiến không chỉ là một cái tên mà dường như nó đã trở thành người thân thương ruột thịt. Quang Dũng gọi tên “sông Mã” ngay từ những dòng thơ đầu, địa danh ấy cũng là hiện thân tiêu biểu của vùng rừng núi Tây Bắc. Trên quãng đường hành quân, dòng sông không chỉ là một địa danh mà đã trở thành người bạn, là chứng nhân lịch sử cho bao đau thương, gian khó, vui buồn của người lính. Thế nên trong nỗi nhớ của Quang Dũng, trước hết là nhớ về binh đoàn Tây Tiến thân yêu, sau là về Tây Bắc với dòng sông Mã vương đầy kỷ niệm. Không chỉ có như vậy, trong ấn tượng, trong nỗi nhớ của nhà thơ còn có hình ảnh của rừng núi. Đó là nỗi nhớ “chơi vơi” lạ lùng. Bởi với người lính xuất thân từ phố thị, thì hình ảnh rừng núi Tây Bắc hết sức lạ lẫm, đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng người lính chiến. Quang Dũng hai lần nhắc chữ “nhớ”, nhấn mạnh thêm nỗi nhớ đang khắc khoải trong tâm hồn. Đặc biệt, “nhớ chơi vơi” lại là một cách diễn tả nỗi nhớ rất riêng của Quang Dũng. Đó là cảm giác, trơ trọi, hụt hẫng, chông chênh trong một nỗi hoài niệm xa xôi, bởi Tây Bắc đã xa lắm rồi. Một Tây Bắc đầy sương mù, mây vờn quanh núi chơi vơi, hoang vắng, nhưng lắm oai hùng.
Nếu như 2 câu thơ đầu là nỗi nhớ bao trùm thì ở 12 câu thơ tiếp nỗi nhớ ấy đã được nhà thơ khắc sâu qua nhiều kỷ niệm ấn tượng. Đầu tiên là nỗi nhớ về Sài Khao, Mường Lát trong, “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi/Mường Lát hoa về trong đêm hơi”. Hai địa danh đã gợi nhắc về những địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến, từ đó kéo ra các không gian rộng lớn khác xuyên suốt cả bài thơ như Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu,… Dường như nỗi nhớ của nhà thơ dàn trải dài khắp chiều không gian. Mỗi nơi đi qua, tâm hồn nhà thơ đều cảm thấy yêu thương gắn bó, trích lời Chế Lan Viên “Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương”. Có thể nói mỗi một địa danh biểu trưng cho núi rừng Tây Bắc đều đã trở thành một kỷ niệm khắc sâu vào trong tâm khảm của nhà thơ.
Hình ảnh “sương lấp đoàn quân mỏi” vốn gợi hình ảnh đoàn quân Tây Tiến trở về Mường Lát trong màn sương mờ mờ ảo của núi rừng Tây Bắc, gợi lên vẻ đẹp lãng mạn của thiên nhiên núi rừng, đồng thời là vẻ đẹp đông đảo, đoàn kết của người lính chiến. Cảm giác “mỏi” hiện diện trong gân cốt người lính chiến, dường như vẫn còn như mới trong tâm hồn Quang Dũng, điều ấy càng chứng tỏ nỗi nhớ sâu sắc của tác giả, bởi kỷ niệm càng nhỏ bao nhiêu thì nỗi nhớ là càng to lớn bấy nhiêu, nhớ kỹ đến cả cái “mỏi” hành quân xa! “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”, hoa ở đây có thể hiểu là ngàn hoa của núi rừng, hiện thân cho vẻ đẹp của thiên nhiên, nhưng có lẽ chính xác hơn, thì hoa ấy là ánh sáng của ngọn đuốc bập bùng trong đêm tựa đóa hoa lửa trong những đêm hành quân mịt mờ trở về Mường Lát. Hình ảnh ngọn đuốc hoa vừa gợi lên nét lãng mạn, vừa hào hùng của một thời Tây Tiến…
Sau nỗi nhớ về Mường Lát về Sài Khao chính là kỷ niệm về những ngày hành quân chiến đấu đầy gian khổ, về vùng núi rừng Tây Bắc lắm hiểm trở, nguy nan.
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳmHeo hút cồn mây, súng ngửi trờiNgàn thước lên cao, ngàn thước xuốngNhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Điệp từ “dốc” gợi lên cảnh những đỉnh dốc nối tiếp nhau, hết đỉnh dốc này lại tới đỉnh dốc khác, chẳng biết bao giờ mới hết. Từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” gợi lên sự hiểm trở, quanh co, lắt léo gập ghềnh, thêm vào đó là sự chênh vênh của núi rừng, bên là vách núi bên là vực thẳm. Cả câu thơ gợi mở một không gian hành quân vừa cao lại vừa sâu rộng và người lính đang phải nỗ lực hết sức mình để vượt qua những chặng đường đầy nguy khó. Điệp ngữ “Ngàn thước” kết hợp với nghệ thuật tương phản “lên cao-xuống”, cũng tiếp tục vừa gợi ra độ cao chót vót của đỉnh dốc, vừa gợi ra độ sâu thăm thẳm của đáy dốc. Lời thơ làm nổi bật được tính chất hùng vĩ, hiểm trở nổi bật của núi rừng Tây Bắc và nỗ lực vượt lên trên những khó khăn địa hình hành quân của người lính chiến lúc bấy giờ.
Nhưng dẫu thiên nhiên có hùng vĩ, trùng điệp, khúc khuỷu đến mấy thì cũng trở nên vô nghĩa dưới bước chân của binh đoàn Tây Tiến. Từ láy “heo hút” thể hiện sự hoang vắng, lạnh lẽo của núi rừng. Hình ảnh “súng ngửi trời” là một hình ảnh nhân hóa thú vị và đầy sáng tạo của Quang Dũng. Người lính hành quân qua những đỉnh núi, nơi có thể chạm đến mây. Những khẩu súng khoác trên vai, mũi súng dường như đang chọc thủng trời xanh kia. Nói là “súng ngửi trời” là cách cảm nhận thật tinh nghịch của người lính trẻ lãng mạn, hài hước và hồn nhiên. Câu thơ cuối có âm điệu thật khác so với ba câu thơ trên, lời thơ nhẹ nhàng trầm xuống, tưởng tượng như người lính chiến từ trên đỉnh núi cao mà phóng tầm mắt xuống, thấy những cảnh vật mơ hồ. Chi tiết “mưa xa khơi” gợi cảm giác khoan khoái mát lạnh của làn mưa trắng xóa. Đó là nét đẹp lãng mạn của núi rừng Tây Bắc, đồng thời cũng gợi lên trong tâm hồn người lính cảm giác yên bình, tiếp thêm động lực cho những chặng đường trước mắt.
Sau những ngày hành quân gian khổ, thì hồi ức của Quang Dũng tiến về sự hi sinh của một người lính Tây Tiến.
“Anh bạn dãi dầu không bước nữaGục lên súng mũ bỏ quên đời!”
Các gọi “anh bạn” thể hiện tình cảm thân thiết trìu mến. Cụm từ “không bước nữa” và “bỏ quên đời” đều là cách nói tránh về cái chết, làm giảm đi sự đau thương mất mát, đồng thời nhấn mạnh sự hy sinh cao cả của người lính chiến. Tư thế hi sinh “gục lên súng mũ”, thể hiện tinh thần người lính chiến dẫu có hy sinh cũng không hề rời đi trách nhiệm. Đó là một tư thế ngang tàng, gan góc, quả cảm của người lính. Có thể nói trong hai dòng thơ trên có sự đau đớn xót xa của nhà thơ với người đồng đội, đồng thời cũng là tấm lòng cảm phục với sự hy sinh anh hùng ấy. Lời thơ cũng cho thấy cái nhìn tỉnh táo và dũng cảm của Quang Dũng khi viết về chiến tranh, nhưng không hề giấu đi những nỗi đau mất mát.
Tiếp đến là nỗi nhớ về một thời gian khổ và lãng mạn, điều ấy được thể hiện rõ ràng trong 4 dòng thơ sau:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thétĐêm đêm Mường Hịch cọp trêu ngườiNhớ ôi Tây Tiến cơm lên khóiMai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Cấu trúc thơ tân kỳ độc đáo, dùng động từ mạnh mẽ trong câu để thể hiện cái dữ dội, hùng vĩ hoang sơ của vùng núi rừng Tây Bắc. Bên cạnh đó, núi rừng nơi đây còn ẩn chứa những mối hung hiểm khôn lường. Quang Dũng viết “Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”. Nơi rừng thiêng nước độc, lại còn có sự hiện diện của ác thú. Mải chìm trong những ký ức nhưng nhà thơ bỗng sực tỉnh “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói/Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”. Tây Tiến đã xa, Tây Bắc cũng đã xa lắm rồi, chỉ còn lại kỷ niệm. Nỗi nhớ ở đây được bộc lộ một cách tha thiết, cồn cào, nhớ cả về những bát cơm, hương khói lửa, nắm xôi ấm tình quân dân, gợi lên một thời kháng chiến vừa vất vả vừa lãng mạn, thi vị nên thơ.
Suốt 14 dòng thơ đầu xoay xung quanh nỗi nhớ khôn nguôi về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, về vẻ đẹp vượt lên trên khó khăn gian khổ của người lính, sự hy sinh cao cả, nét lãng mạn trong tâm hồn người lính trẻ giữa những gian khổ chất chồng. Bằng ngòi bút hào hoa và lãng mạn Quang Dũng đã diễn tả một cách chân thực nhất những nỗi nhớ khắc khoải trong tâm hồn của người lính chiến về một thời kháng chiến đã đi qua với giọng điệu phóng khoáng, hình ảnh thơ giàu sức gợi, nhịp thơ biến đổi. Tất cả đã tạo nên một âm hưởng riêng, một phong cách riêng của người lính Tây Tiến.
15. Cảm nhận của anh chị về khổ thơ 1 Tây tiến - Mẫu 15
Tây Tiến bài thơ được viết trong giai đoạn nước nhà căng mình để chiến đấu chống thực dân Pháp. Bài thơ giúp người đọc cảm nhận được tình đồng đội trong thời chiến, nhớ binh đoàn hùng mạnh Tây Tiến đặc biệt là trong đoạn đầu tiên. Nỗi nhớ của tác giả về thiên nhiên:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
Nhớ về con sông Mã thân thương, rừng núi bạt ngàn. Tình cảm nhớ nhung ở đây khó có thể diễn đạt, lâng lâng đó là nỗi nhớ “chơi vơi”, hai từ nhớ liên tiếp lặp lại thể hiện cảm xúc trong đoạn đầu tiên đó là sự hoài niệm, cảm xúc nhớ thương da diết với con sông Mã và thiên nhiên miền Tây.
Tiếp tục trong 2 câu thơ tiếp theo là các địa danh binh đoàn từng ghé thăm đó là Sài Khao, Mường Lát. Những chiến sĩ phải vượt qua muôn vàn khó khăn hiểm trở trên đường hành quân, những địa danh nghe xa lạ như nói lên sự hiểm trở, khó nhọc, đi đến nơi cũng là khi “đoàn quân mỏi”, sự mệt nhọc nhưng vẫn phải hành quân trong điều kiện khắc nghiệt của thời tiết “sương lấp”. Đâu đó có những hình ảnh hoa trong đêm nói lên sự lãng mạn của những người lính.
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Hành trình của những người lính chẳng khác gì chuyến đi sinh tử, với địa hình vô cùng khắc nghiệt. Những dốc lên như dựng đứng, còn dốc xuống heo hút tựa như vực thẳm, chỉ những sai sót có thể trả giá bằng tính mạng. Khó khăn thử thách là như thế nhưng người lính luôn quyết tâm, hình ảnh “súng ngửi trời” thể hiện đầy sự lãng mạn, yêu đời của những binh đoàn Tây Tiến.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Trong những cuộc hành quân đó tác giả đã chứng kiến nhiều người kiệt sức đến nỗi “không bước nữa”, thực tế khắc nghiệt của chiến tranh đã có rất nhiều các chiến sĩ mãi mãi nằm lại trên con đường hành quân, hành trang của họ vẫn còn đó là “súng”, “mũ”, các chiến sĩ nằm lại nhưng vẫn bi tráng và trong tư thế người chiến sĩ. Tác giả nhớ về họ như những người anh hùng và không quên cảm phục tinh thần của những người lính cụ Hồ, cuộc đời dành cả tuổi thanh xuân tươi đẹp để cống hiến cho độc lập của đất nước, dân tộc.
Trong hai câu thơ cuối của đoạn 1 tác giả thể hiện cảm xúc tình cảm dạt dào với địa danh nổi tiếng Mai Châu:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Dừng quân nghỉ ngơi sau quãng đường hành quân mệt mỏi, khó nhọc. Những chiến sĩ Tây Tiến và bà con Tây Bắc như trở thành một nhà, quây quần cùng nhau bên nồi cơm đang lên khói. Nhớ ôi! là từ cảm thán thể hiện nỗi nhớ tha thiết, mãnh liệt. Những hình ảnh cơm lên khói, thơm nếp xôi là những hương vị đặc biệt của Tây Bắc thể hiện tình cảm khăng khít, thủy chung với đồng bào nơi đây đối với cách mạng. Chắc chắn những kỉ niệm trên sẽ không thể phai nhòa trong tâm trí những người chiến sĩ Tây Tiến.
Đoạn 1 chỉ vỏn vẹn 14 câu nhưng đã giúp người đọc hiểu hơn thiên nhiên và con người Tây Bắc, trên nền thiên nhiên những người lính Tây Tiến hiện lên thật oai hùng, bi tráng. Đồng thời thể hiện sự gắn bó với thiên nhiên và con người Tây Bắc đó cũng chính là tấm lòng yêu đất nước của tác giả.
16. Cảm nhận của anh chị về khổ thơ 1 Tây tiến - Mẫu 16
“Nước những người chưa bao giờ khuấtĐêm đêm rì rầm trong tiếng đấtNhững buổi ngày xưa vọng nói về”.
Người lính cách mạng vẫn thường hiện lên trong ký ức những người con đất Việt với niềm tự hào và xúc động mãnh liệt nhất. Ta đã tìm thấy anh giữa đoàn quân trùng trùng ra trận, ta đã nhận ra anh giữa chiến trường lửa đạn. Có người lính lam lũ, hiền lành trong thơ Chính Hữu, có người lính sôi nổi, trẻ trung trong thơ Phạm Tiến Duật. Nhưng chưa ở đâu, người lính lại hài hòa bi tráng như trong Tây Tiến của Quang Dũng. Cái can đảm, hào hùng của người lính chống Pháp sáng ngời lên giữa âm u, khắc nghiệt của núi rừng Tây Bắc, đặc biệt là trong khổ thơ đầu.
Quang Dũng sáng tác Tây Tiến vào năm 1948 tại Phù Lưu Chanh khi ông đã chuyển về đơn vị. Nhớ về một thời oanh liệt đã qua, nhớ đến đồng đội cũ, cảm hứng về Tây Tiến cháy lên trong lòng tác giả. Đó là cảm hứng của những chàng trai Hà Nội từ giã quê hương lên đường đi kháng chiến, đó là kí ức của một đất nước những năm đầu Cách mạng, đất nước với cảnh núi non hùng vĩ nơi biên cương Tây Bắc. Bài thơ ban đầu được đặt tựa đề “Nhớ Tây Tiến”, về sau chữ “Nhớ” được bỏ đi, có lẽ cũng bởi bao trùm bài thơ là nỗi nhớ một thời Tây Tiến gian khổ, hào hùng.
Quang Dũng đã viết về người lính Tây Tiến bằng những vẫn thơ tươi thắm nhất của lòng mình. Hình ảnh người lính hiện về trong hồi ức nhà thơ như một biểu tượng xa vời trong không gian và thời gian. Kỉ niệm về người lính Tây Tiến đã xa mà lại rất gần, để khi nhìn lại, nỗi nhớ bỗng bật ra thành lời:
“Sông mã xa rồi Tây Tiến ơi!Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.”
Sông mã trong ký ức Quang Dũng và những người đồng đội là nơi xuất phát kỉ niệm, khởi đầu của một chặng đường gian khổ, là cái gốc nỗi nhớ trong miền ký ức rất riêng của cuộc hành quân chiến đấu những người lính năm xưa. Dòng sông Mã ấy như một nhân chứng lịch sử đứng đó chở che, dõi theo từng bước chân của người lính; “xa rồi Tây Tiến ơi!” những kí ức vẫn còn rõ rệt lắm! Bao tình cảm được dồn nén vào từ “ơi” dâng lên một dấu chấm than để mở ra bao nhiêu dạt dào của cảm xúc nỗi nhớ. Nỗi nhớ vang vọng lên, khắc sâu tình cảm nhớ thương của người chiến sĩ năm nào. Điệp từ “nhớ” đi liền với tính từ “chơi vơi” xoáy sâu vào tâm hồn độc giả, ào ạt như một cái thác lũ trong ký ức Quang Dũng. Nỗi nhớ cuộn trào trong tâm hồn nhà thơ, đưa ông vào trạng thái hư ảo, triền miên của ký ức, cuốn trôi ông vào núi rừng, hai trận chiến ngày xưa để rồi khiến ông khắc khoải trong nỗi nhớ chơi vơi. Chơi vơi! Một nỗi nhớ thật lạ lùng! Xuân Diệu hình như cũng từng chơi vơi trong nỗi nhớ như thế:
“Sương nương theo trăng ngừng lưng trờiTương tư nâng lòng lên chơi vơi”.
“Nhớ chơi vơi” một nỗi nhớ nhẹ tênh mà nặng vô cùng, lơ lửng, vương vấn trong tâm hồn, bao la bát ngát lại có chiều sâu. Nếu nỗi nhớ trong thơ Xuân Diệu là tình cảm lứa đôi thì điểm đến của nỗi nhớ trong thơ Quang Dũng là tình cảm thiêng liêng, dữ dội dành cho mảnh đất Tây Bắc nhớ thương. Âm hưởng của câu thơ trong cách sử dụng vần giữa “chơi vơi” và “ơi” tạo lên một hiệu quả ngữ âm trọn vẹn. Nó lan tỏa, ngân dài từng tiếng vọng vào vách đá để rồi vang lại vào tâm hồn người đọc xúc cảm thiêng liêng mà Quang Dũng dành trọn cho Tây Tiến. Cũng bằng tình cảm thiêng liêng ấy, Quang Dũng đưa người đọc đến với những kỉ niệm đã lùi vào quá vãng, đến với âm u khắc nghiệt của núi rừng, đến với cái can đảm, hào hùng của người chiến sĩ.
Là người từng trải qua những ngày tháng khốc liệt chiến tranh, hơn ai hết, Quang Dũng hiểu rõ về khó khăn, gian khổ nơi biên cương:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏiMường Lát hoa về trong đêm hơi”.
Cái khắc nghiệt đầu tiên mà đoàn quân nếm trải là màn sương dày đặc ở bản làng Sài Khao. Nó bao phủ, che mờ của đoàn quân, nó thấm vào từng thớ thịt lạnh buốt. Sượng giá khiến đoàn quân lãnh lẽo, thấm mệt. Những khắc nghiệt của tự nhiên không làm tinh thần người chiến sĩ nao núng. Tình yêu nước đã khiến những chàng trai Hà thành thêm quật cường, bất khuất, xua tan mọi giá rét, cực khổ, đẩy lùi tất thảy mệt mỏi gian lao. Trên chặng đường hành quân xưa của Chế Lan Viên sương giá cũng là một kí ức thấm đượm nỗi nhớ:
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủNơi nao qua, lòng lại chẳng yêu thương?”
Chế Lan Viên với Quang Dũng đã gặp nhau ở một ý thơ, một nỗi nhớ gọi lên trong ta cảm tưởng họ đang cùng hành quân trên một chặng đường. Nhưng người lính đó dẫu có là ai, chiến đấu ở đâu thì họ đều vượt qua khắc nghiệt tự nhiên rồi bừng sáng lên vẻ đẹp hùng dũng, kiên cường. Quang Dũng là một cây bút lãng mạn, hào hoa, cách sử dụng từ ngữ của ông mang nhiều lớp nghĩa. Chi tiết “hoa về trong đêm hơi” tùy theo cách hiểu của mỗi người lại mang một sắc thái độc đáo. Đó có thể là hình ảnh người con gái Tây Bắc, cũng có thể là sự mỏi mệt trên đường hành quân khiến người chiến sĩ hoa mắt. Hoặc, “hoa về” là ánh sáng lấp lánh của ngọn đuốc trong cảnh chập tối mờ hơi sương. Dù hiểu theo cách nào, hình ảnh thơ Quang Dũng vẫn thật đẹp đẽ, thi vị, sáng ngời. Câu thơ xóa tan mỏi mệt để đoàn quân tiếp bước. Khó khăn này chưa qua thì khó khăn khác đã đến:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳmHeo hút cồn mây súng ngửi trời”.
Ta cảm nhận được cái thô ráp, gồ ghề trong câu thơ như chính hình thể gập ghềnh, cheo leo của dốc núi. Một hiện thực khắc nghiệt của vùng cao Tây Bắc. Bức tranh hiểm trở và dữ dội, hoang vu và heo hút được lột tả thành công dưới ngòi bút tài hoa của Quang Dũng. Đó là con dốc khúc khuỷu, gập ghềnh, hiểm nguy mà đoàn quân phải đối mặt, con dốc thăm thẳm không có điểm dừng, triền miên kéo dài như cuộc kháng chiến chống Pháp bấy giờ. Nó cũng xa xôi như ngày đất nước độc lập, song gian khổ không làm khó được người chiến sĩ, họ vẫn lạc quan, quật cường vững bước. “Heo hút cồn mây” sao mà lại lắng lặng, hoang sơ thế! Ấy vậy mà Quang Dũng vẫn lột tả rõ nét sự tinh nghich, trữ trung qua cách sử dụng nghệ thuật nhân hóa, ẩn dụ “súng ngửi trời”. Đó là cách sử dụng từ táo bạo, sôi nổi, lạc quan đậm chất người lính. Thử hỏi trong cảnh gian nan, mệt mỏi ấy mấy ai còn giữ được phong thái tự tin, yêu đời như vậy?
Bên cạnh hiểm nguy, người lính với tư thế oai phong vẫn dũng cảm chinh phục, để đến khi đứng trên đỉnh núi cao họ nhìn lại chặng đường gian khổ mình từng trải qua:
“Ngàn thước lên cao ngàn thước xuốngNhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
Một sự đối lập kín đáo trong câu thơ cũng như trong tâm hồn người chiến sĩ. Trải qua bao thăng trầm hiểm trở anh vệ quốc quân đã đặt chân lên đỉnh dốc. Điệp từ “ngàn dốc” mở ra một khoảng không gian đa chiều, vừa gợi lên cái hoang sơ, vừa đặc tả vẻ đẹp trữ tình nơi núi rừng Tây Bắc. Sau tất cả những dồn dập, và người chiến sĩ lắng lại một miền đất lãng mạn “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Thanh bằng trong từng từ trải dài làm cả câu thơ mênh mang lắng đọng tạo nên một bức tranh núi rừng phủ mưa trắng xóa. Vượt qua mọi gập ghềnh trước mắt, người lính bắt gặp những ngôi nhà ở Pha Luông, được chứng kiến cuộc sống con người đang hiện hữu. Lẫn trong màn mưa rừng bản làng hiện lên trầm mặc, lấp ló. Nếu ở Mường Lát người lính bị sương giá làm cho lãnh lẽo thì ở đây, đối mặt với cơn mưa rừng cái giá rét ấy còn tăng lên gấp bội. Trên con đường hành quân khắc nghiệt, nhiều chiến sĩ đã mãi mãi nằm lại những mảnh đất xa lạ:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữaGục lên súng mũ bỏ quên đời”.
Những con người này đẹp lắm, dũng cảm lắm bởi họ đã làm nên lịch sử, góp phần vào sự trưởng thành của đất nước, họ cũng chính là những con người “sinh ra trong thời đại của anh hùng”. Tất cả thương mến, tự hào dành cho đồng đội dường như đã được Quang Dũng gửi gắm trọn vẹn trong từ “anh bạn”. Dãi nắng dầm mưa, trải qua khắc nghiệt của thiên nhiên núi rừng người chiến sĩ đã hy sinh. Nhưng không vì thế mà bài thơ trở nên bị thảm, tang thương. Người lính ra đi trong một tư thế rất đỗi hào hùng:
“Gục lên súng mũ bỏ quên đời”.
Bút pháp lãng mạn “bỏ quên đời” phần nào làm cho cái chết không còn nặng nề, giảm nhẹ đau thương và mất mát. Quang Dũng viết về anh như viết về một đất nước dẫu có mưa bom bão đạn cũng không chịu cúi đầu: “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Họ là những chàng trai còn mang trong mình ước mơ và hoài bão tuổi trẻ. Vậy mà giờ đây, họ hy sinh vì lý tưởng chung của dân tộc. Nó lớn lao hơn tất cả mơ mộng thường tình của chàng trai trẻ. Người lính xé toạc thanh xuân, xé toạc cuộc đời mình để ghép vào bức tranh hòa bình đất nước:
“Ta sẵn sàng xé trái tim taCho Tổ quốc và cho tất cả”
Họ ra đi sôi sục, ngạo nghễ, họ chiến đấu vì quê hương nên cái chết cũng nhẹ nhàng như về với đất mẹ. Bao nhiêu sự hi sinh là bấy nhiêu sự hào hùng, can đảm ta được chứng kiến:
“Và anh chết trong khi đang đứng bắnMáu anh phun theo lửa đạn cầu vồng”.
Họ đã sống, đã chiến đấu xứng đáng với quê hương, đất nước. Họ hiên ngang, đường hoàng khi ra trận và cũng hào hùng khi ngã xuống cũng bởi:
“Ta hiểu vì sao ta chiến đấuTa hiểu vì ai ta hiến máu”.
Họ vì ai mà ngã xuống? Vì giang sơn, vì độc lập, vì tự do của nhân dân Việt Nam anh nguyện hiến dâng tính mạng thực hiện lý tưởng cao đẹp ấy. Người chiến sĩ nằm lại nhưng đồng đội anh vẫn tiếp bước. Khó khăn gian khổ vẫn còn:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thétĐêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”.
Cảnh chiều tà luôn khiến lòng người chứa chan nỗi niềm tâm sự. Giữa núi rừng hoang sơ cạnh anh là những người đồng đội xa quê chất chứa nỗi nhớ quê hương. Khó khăn vất vả cộng hưởng nỗi nhớ nhà để khiến người ta nhụt chí nhưng với anh lính Tây Tiến nó không những không ngăn được lý tưởng cách mạng, ngược lại còn là động lực thôi thúc anh mạnh mẽ hơn, can đảm hơn. Hai câu thơ gieo vào lòng người đọc tất cả khắc nghiệt và dữ dội về một miền đất âm u, khắc khổ. Địa danh “Mường Hịch” được sử dụng rất khéo, rất tài tình, nó nghe nặng nề đáng sợ như bước chân thú dữ khiến cảnh sắc núi rừng trở nên thật hoang sơ lạnh lẽo. Rừng núi trùng điệp nhưng cũng khắc nghiệt biết bao!
Tưởng rằng những khó khăn, gian khổ kia sẽ làm mờ đi trong tâm hồn những chàng trai trẻ Hà Nội nét hào hoa, lãng mạn vốn có. Nhưng không, nét hào hoa, lãng mạn vẫn chẳng hề mất đi dọc cuộc hành trình:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khóiMai Châu mùa em thơm nếp xôi”.
Hai tiếng “nhớ ôi” thốt ra bằng tất cả nỗi niềm kìm nén. Lắng đọng lại những kỉ niệm tình người ấm áp, tình quân dân đằm thắm qua những bản làng dọc đường hành quân. Sau bao nhiêu gian khổ khắc nghiệt núi rừng Tây Bắc, người chiến sĩ dừng lại Mai Châu. Quây quần bên nồi xôi nếp mới với các cô gái bản làng xinh đẹp khiến bao nhiêu vất vả, nhọc nhằn bỗng chốc được xua tan, trả lại người lính nét can đảm hùng tráng vốn có. Phải trải qua quãng đường trường chinh, gian khổ, phải là những con người “chẳng tiếc trời xanh” như Quang Dũng thì mới có thể viết nên những vẫn thơ kiêu hùng đến thế. Ông vẽ nên người lính Tây Tiến trong những năm tháng khói lửa với một niềm xúc động thiêng liêng nhất. Bao nhiêu năm kháng chiến là bấy nhiêu năm chiến đấu trường kì gian khổ. Cũng từ đó hiện lên hình tượng người lính Tây Tiến bất khuất, kiên trung giữa khắc nghiệt núi rừng Tây Bắc.
Hôm nay, đọc lại những vẫn thơ “Tây Tiến” chúng ta không chỉ tự hào về quá khứ oanh liệt của dân tộc, về người lính chống Pháp bi tráng, can đảm mà còn phải ý thức trách nhiệm với non sông đất nước bởi những người lính đã ngã xuống để bảo vệ hai tiếng “độc lập” vẹn nguyên. Ta nợ anh một lời cảm ơn, một tấm chân tình, ta nợ anh cả cuộc đời tốt đẹp:
“Kính chào anh, con người đẹp nhấtLịch sử hôn anh, chàng trai chân đấtSống hiên ngang, bất khuất trên đờiNhư Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi”.
17. Cảm nhận của anh chị về khổ thơ 1 Tây tiến - Mẫu 17
Tây Tiến là một trong những bài thơ hay, tiêu biểu của Quang Dũng. Là người lính trẻ hào hoa, lãng mạn ra đi theo tiếng gọi của tổ quốc, sống và chiến đấu nơi núi rừng gian khổ nhưng chất thi sĩ vẫn trào dâng mãnh liệt trong lòng. Tám câu thơ đầu tiên là tiếng lòng bồi hồi, xúc động khi nỗi nhớ về Tây Tiến dâng trào trong kí ức của nhà thơ.
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi”
Câu thơ đầu như tiếng gọi chân thành, tha thiết xuất phát từ trái tim và tâm hồn người thi sĩ. Bằng cách sử dụng câu cảm thán mở đầu bài thơ, Quang Dũng đã gọi tên cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ cồn cào, da diết về núi rừng Tây Bắc.
“Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Câu thơ thứ hai với điệp từ “nhớ” được lặp lại hai lần đã diễn tả nỗi nhớ quay quắt, cồn cào đang ùa vào tâm trí Quang Dũng. Tính từ “chơi vơi” kết hợp với từ “nhớ” đã khắc sâu được tình cảm nhớ nhung da diết của nhà thơ và nỗi nhớ đó như cơn thác lũ tràn vào tâm trí nhà thơ đã đẩy ông vào trạng thái bồng bềnh, hư ảo. Hai câu đầu với cách dùng từ chọn lọc, gợi hình gợi cảm đã mở cửa cho nỗi nhớ trào dâng mãnh liệt trong tâm hồn nhà thơ.
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
Quang Dũng đã liệt kê hàng loạt các địa danh như: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông… Đó là địa bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiến, những nơi họ đi qua và dừng chân trên bước đường hành quân gian khổ, mệt nhọc.
Có lẽ thiên nhiên rất gắn bó với người lính Tây Bắc nên nó đã trở thành kí ức khó phai trong lòng nhà thơ. Thiên nhiên tuy có đẹp nhưng cũng rất hiểm trở. Có những lúc người lính Tây Tiến phải vất vả để trèo lên đỉnh chạm đến mây trời. Quang Dũng đã khéo léo sử dụng từ “thăm thẳm” để khó có ai có thể hình dung được nó sâu thế nào. Bằng những từ láy gợi hình ảnh rất cao như “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”, nhà thơ đã làm cho người đọc cảm nhận được cái hoang sơ, dữ dội của núi rừng Tây Bắc.
Nhà thơ cũng rất trẻ trung, tinh nghịch khi đưa hình ảnh nhân hóa, ẩn dụ “súng ngửi trời” để cho ta thấy bên cạnh thiên nhiên hiểm trở còn hiện lên hình ảnh người lính với tư thế oai phong lẫm liệt nơi núi rừng hoang vu. Câu thơ sử dụng nhiều thanh trắc đã tạo nên vẻ gân guốc, nhọc nhằn đã nhấn mạnh được cảnh quang thiên nhiên Tây Bắc thật cheo leo, hiểm trở.
“Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”
Điệp từ “ngàn thước” đã mở ra một không gian nhìn từ trên xuống cũng như từ dưới lên thật hùng vĩ, giăng mắc. Bên cạnh cái hiểm trở, hoang sơ ta cũng thấy được vẻ đẹp trữ tình nơi núi rừng:
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
8 câu thơ đầu của bài thơ Tây Tiến là nỗi nhớ về núi rừng Tây Bắc, về đồng đội Tây Tiến nhưng qua những chi tiết đặc tả về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, nó đã trở thành kí ức xa xôi trong tâm trí nhà thơ. Đó là nỗi nhớ mãnh liệt của người lính Tây Tiến nói riêng và của những người lính nói chung.
Bài thơ “Tây Tiến” dưới ngòi bút của lãng mạn, trữ tình của Quang Dũng đã trở thành kiệt tác của mọi thời đại. Cảm hứng chủ đạo xuyên suốt bài thơ đó là cảm hứng về nỗi nhớ. Quang Dũng đã miêu tả nỗi nhớ đó bằng ngòi bút tài tình giàu chất nhạc, chất họa và đậm chất thơ.
Bài thơ là một khúc nhạc của tâm hồn, của cuộc sống. Bởi thế, Xuân Diệu thật chính xác khi cho rằng đọc bài thơ “Tây Tiến” như đang ngậm âm nhạc trong miệng. Bài thơ hay bởi lẽ nó được viết nên từ ngòi bút hào hoa, lãng mạn và của một người lính Tây Tiến nên nó tạo nên một điều gì đó rất riêng và đẹp. Mang chất lính nên Quang Dũng mới có thể viết nên những vần thơ hay như thế.
Từ khóa » Khổ 1 2 Tây Tiến
-
Phân Tích Bài Thơ Tây Tiến ( Chi Tiết Khổ 1, 2 , 3) - TopLoigiai
-
Phân Tích 2 Khổ đầu Bài Tây Tiến - 123doc
-
Phân Tích đoạn 1 Tây Tiến Hay Nhất (16 Mẫu)
-
Top 6 Bài Phân Tích đoạn 1 Tây Tiến Hay Chọn Lọc
-
Phân Tích Khổ 1 Bài Thơ Tây Tiến Của Quang Dũng
-
PHÂN TÍCH KHỔ 1, 2, 3... - Diễn đàn C03 - HỌC VIỆN CẢNH SÁT
-
Phân Tích Bài Thơ Tây Tiến Khổ 1, 2, 3, 4 | Dàn ý, Sơ đồ Tư Duy
-
Phân Tích Khổ 1 Bài Thơ Tây Tiến Của Quang Dũng | Văn Mẫu 12
-
Tây Tiến - Tác Giả, Nội Dung, Bố Cục, Tóm Tắt, Dàn ý - Haylamdo
-
Cảm Nhận Về đoạn Thơ đầu Của Bài Tây Tiến - Thủ Thuật
-
Phân Tích Khổ Thơ Cuối Của Bài Thơ Tây Tiến Của Quang Dũng
-
Phân Tích Bài Thơ Tây Tiến Của Quang Dũng - Thủ Thuật
-
Tây Tiến Của Quang Dũng - Ngữ Văn 12