Phân Tích 2 Khổ đầu Bài Tây Tiến - 123doc

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây, súng ngửi trời Ngàn thước lên cao ngàn thướ

Trang 1

Phân tích 2 khổ thơ đầu

Sông mã xa rồi Tây Tiến ơi !

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây, súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời !

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

* Bài làm

Năm 1948, cuộc kháng chiến của quân và dân ta chống thực dân Pháp bước

sang năm thứ 3 Ta vừa thắng lớn trên chiến trường Việt Bắc thu đông 1947

Chặng đường lịch sử phía trước của dân tộc còn đầy thử thách gian nan Cuộc

kháng chiến đã chuyển sang một giai đoạn mới Tiền tuyến và hậu phương

tràn ngập tinh thần phấn chấn và quyết thắng

Thời gian này, văn nghệ kháng chiến thu được một số thành tựu xuất sắc

Một số bài thơ hay viết về “anh bộ đội Cụ Hồ” nối tiếp nhau xuất hiện: “Lên

Tây Bắc” (Tố Hữu), “Đồng Chí” (Chính Hữu), “Nhớ” (Hồng Nguyên)… và “Tây

Tiến” của Quang Dũng

Quang Dũng viết “Tây Tiến” vào năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, một làng ven

con sông Đáy hiền hòa Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ: nhớ đồng

đội thân yêu, nhớ đoàn binh Tây Tiến, nhớ bản mường và núi rừng miền Tây,

Trang 2

nhớ kỉ niệm đẹp một thời trận mạc… Nói về nỗi nhớ ấy, bài thơ đã ghi lại hào

khí lãng mạn của tuổi trẻ Việt Nam, của “bao chiến sĩ anh hùng” trong buổi

đầu kháng chiến chống Pháp vô cùng gian khổ mà vinh quang

“Tây Tiến” là phiên hiệu của một đơn vị bộ đội hoạt động tại biên giới Việt –

Lào, miền Tây tỉnh Thanh Hóa và Hòa Bình Quang Dũng là một cán bộ đại

đội của “đoàn binh không mọc tóc” ấy, đã từng vào sinh ra tử với đồng đội

thân yêu

Hai câu thơ đầu nói lên nỗi nhớ, nhớ miền Tây, nhớ núi rừng, nhớ dòng sông

Mã thương yêu:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !

Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”

Đã “xa rồi” nên nỗi nhớ không thể nào nguôi được, nhớ da diết đến quặn

lòng, đó là nỗi nhớ “chơi vơi” Tiếng gọi “Tây Tiến ơi” vang lên tha thiết như

tiếng gọi người thân yêu Từ cảm “ơi!” bắt vần với từ láy “chơi vơi” tạo nên

âm hưởng câu thơ sâu lắng, bồi hồi, ngân dài, từ lòng người vọng vào thời

gian năm tháng, lan rộng lan xa trong không gian Hai chữ “xa rồi” như một

tiếng thở dài đầy thương nhớ, hô ứng với điệp từ “nhớ” trong câu thơ thứ hai

thể hiện một tâm tình đẹp của người chiến binh Tây Tiến đối với dòng sông

Mã và núi rừng miền Tây Sau tiếng gọi ấy, biết bao hoài niệm về một thời

gian khổ hiện về trong tâm tưởng

Những câu thơ tiếp theo nói về chặng đường hành quân đầy thử thách gian

nan mà đoàn binh Tây Tiến từng nếm trải Các tên bản, tên mường: Sài

Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu… được nhắc đến không

chỉ gợi lên bao thương nhớ vơi đầy mà còn để lại nhiều ấn tượng về sự xa

xôi, heo hút, hoang dã, thâm sơn cùng cốc,… Nó gợi trí tò mò và háo hức của

những chàng trai “Từ thuở mang gươm đi giữ nước – Nghìn năm thương nhớ

đất Thăng Long” Đoàn binh hành quân trong sương mù giữa núi rừng trùng

điệp:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,

Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Bao núi cao, đèo cao, dốc thẳng dựng thành phía trước mà các chiến sĩ Tây

Tiến phải vượt qua

Dốc lên thì “khúc khuỷu” gập ghềnh, dốc xuống thì “thăm thẳm” như dẫn đến

vực sâu Các từ láy: “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” đặc tả gian khổ,

gian truân của nẻo đường hành quân chiến đấu: “Dốc lên khúc khuỷu, dốc

thăm thẳm – Heo hút cồn mây súng ngửi trời!” Đỉnh núi mù sương cao vút

Mũi súng của người chiến binh được nhân hóa tạo nên một hình ảnh: “súng

ngửi trời” giàu chất thơ, mang vẻ đẹp cảm hứng lãng mạn, cho ta nhiều thi

Trang 3

vị Nó khẳng định chí khí và quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm

cao mà đi tới “Khó khăn nào cũng vượt qua – Kẻ thù nào cũng đánh thắng!”

Thiên nhiên núi đèo xuất hiện như để thử thách lòng người: “ngàn thước lên

cao, ngàn thước xuống” Hết lên lại xuống, xuống thấp lại lên cao, đèo nối

đèo, dốc tiếp dốc, không dứt Câu thơ được tạo thành hai vế tiểu đối: “Ngàn

thước lên cao // ngàn thước xuống”, hình tượng thơ cân xứng hài hòa, cảnh

tượng núi rừng hùng vĩ được đặc tả, thể hiện một ngòi bút đầy chất hào khí

của nhà thơ – chiến sĩ

Có cảnh đoàn quân đi trong mưa: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” Câu thơ

được dệt bằng những thanh bằng liên tiếp, gợi tả, sự êm dịu, tươi mát của

tâm hồn những người lính trẻ, trong gian khổ vẫn lạc quan yêu đời Trong

màn mưa rừng, tầm nhìn của người chiến binh Tây Tiến vẫn hướng về những

bản mường, những mái nhà dân hiền lành và yêu thương, nơi mà các anh sẽ

đến, đem xương máu và lòng dũng cảm để bảo vệ và giữ gìn

Ta trở lại đoạn thơ trên, gian khổ không chỉ là núi cao dốc thẳm, không chỉ là

mưa lũ thác ngàn mà còn có tiếng gầm của cọp beo nơi rừng thiêng nước

độc, nơi đại ngàn hoang vu:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

“Chiều chiều…” rồi “đêm đêm” nhưng âm thanh ấy, “thác gầm thét”, “cọp

trêu người”, luôn khẳng định cái bí mật, cái uy lực khủng khiếp ngàn đời của

chốn rừng thiêng Chất hào sảng trong thơ Quang Dũng là lấy ngoại cảnh núi

rừng miền Tây hiểm nguy để tô đậm và khắc họa chí khí anh hùng của đoàn

quân Tây Tiến Mỗi vần thơ đã để lại trong tâm trí người đọc một ấn tượng:

gian nan tột bậc mà cũng can trường tột bậc! Đoàn quân vẫn tiến bước,

người nối người, băng lên phía trước Uy lực thiên nhiên như bị giảm xuống

và giá trị con người như được nâng cao hẳn lên một tầm vóc mới Quang

Dũng cũng nói đến sự hy sinh của đồng đội trên những chặng đường hành

quân vô cùng gian khổ:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời…”

Hiện thực chiến tranh xưa nay vốn như thế! Sự hy sinh của người chiến sĩ là

tất yếu Xương máu đổ xuống để xây đài tự do Vần thơ nói đến cái mất mát,

hy sinh nhưng không chút bi luỵ, thảm thương

Hai câu cuối đoạn thơ, cảm xúc bồi hồi tha thiết Như lời nhắn gửi của một

khúc tâm tình Như tiếng hát của một bài ca hoài niệm, vừa bâng khuâng,

vừa tự hào:

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Trang 4

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

“Nhớ ôi!” tình cảm dạt dào, đó là tiếng lòng của các chiến sĩ Tây Tiến “đoàn

binh không mọc tóc” Câu thơ đậm đà tình quân dân Hương vị bản mường

với “cơm lên khói”, với “mùa em thơm nếp xôi” có bao giờ quên? Hai tiếng

“mùa em” là một sáng tạo độc đáo về ngôn ngữ thi ca, nó hàm chứa bao tình

thương nỗi nhớ, điệu thơ trở nên uyển chuyển, mềm mại, tình thơ trở nên ấm

áp Cũng nói về hương nếp, hương xôi, về “mùa em” và tình quân dân, sau

này Chế Lan Viên viết trong bài “Tiếng hát con tàu”

“Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch

Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng

Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch

Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương”

“Nhớ mùi hương”, nhớ “cơm lên khói”, nhớ “thơm nếp xôi” là nhớ hương vị

núi rừng Tây Bắc, nhớ tình nghĩa, nhớ tấm lòng cao cả của đồng bào Tây Bắc

thân yêu Mười bốn câu thơ trên đây là phần đầu bài “Tây Tiến”, một trong

những bài thơ hay nhất viết về người lính trong 9 năm kháng chiến chống

Pháp Bức tranh thiên nhiên hoành tráng, trên đó nổi bật lên hình ảnh chiến

sĩ can trường và lạc quan, đang dấn thân vào máu lửa với niềm kiêu hãnh

“ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh…”

Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công

là kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn

Nửa thế hệ đã trôi qua, bài thơ “ Tây Tiến" của Quang Dũng ngày một thêm

sáng giá

Từ khóa » Khổ 1 2 Tây Tiến