Cảm Nhận Truyện Ngắn Chiếc Lược Ngà Của Nguyễn Quang Sáng

Cảm nhận truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang SángVăn mẫu lớp 9Bài trướcTải vềBài sauNâng cấp gói Pro để trải nghiệm website VnDoc.com KHÔNG quảng cáo, và tải file cực nhanh không chờ đợi. Mua ngay Từ 79.000đ Tìm hiểu thêm

Cảm nhận truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng gồm dàn ý và các bài văn mẫu lớp 9 cho các em tham khảo, có thêm nhiều ý tưởng hoàn thành bài văn hay và hoàn chỉnh, đạt điểm cao trong các bài kiểm tra Văn 9 sắp tới.

Cảm nhận truyện ngắn Chiếc lược ngà

  • Dàn ý Cảm nhận truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng
    • Dàn ý Cảm nhận truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng mẫu 1
    • Dàn ý Cảm nhận truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng mẫu 2
  • Văn mẫu Cảm nhận truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng
    • Cảm nhận truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng mẫu 1
    • Cảm nhận của em về đoạn trích Chiếc lược ngà mẫu 2
    • Cảm nhận của em về đoạn trích Chiếc lược ngà mẫu 3
    • Cảm nhận truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng mẫu 4
    • Cảm nhận truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng mẫu 5

Dàn ý Cảm nhận truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng

Dàn ý Cảm nhận truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng mẫu 1

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả Nguyễn Quang Sáng, truyện ngắn Chiếc lược ngà, giới thiệu nhân vật ông Sáu và bé Thu.

2. Thân bài

a. Tình cảm của ông Sáu dành cho bé Thu

Khi nhìn thấy con gái, xúc động đến mức vết thẹo trên mặt giật giật, dang tay muốn ôm con vào lòng nhưng khi thấy con phản kháng thì rất đau buồn.

Những ngày ở nhà, ông Sáu không đi đâu cả, cả ngày chỉ muốn bắt chuyện với con, cố gắng tìm cách tiếp cận bé Thu nhưng kết quả luôn ê chề.

Khi cô con gái liên tục nói trống không, ngó lơ mình nhưng ông vẫn kiên trì, nhẫn nại.

Đỉnh điểm là khi ông gắp cho nó miếng trứng cá nó hất ra ngoài, lúc đó ông không chịu đựng được nó nữa bèn giơ tay đánh con. Sau khi con bỏ đi, ông Sáu đã rất ân hận về hành động của mình.

Hôm ông đi, bé Thu cũng về, nó cứ đứng một góc, mặt buồn buồn nhưng ông Sáu biết rằng bé rất bướng bỉnh nên không lại gần bé mà chỉ âm thầm quan sát.

Cảm nhận về Chiếc lược ngà

Lúc ông lên đường, ông khẽ chào nó, khi được con mình gọi tiếng ba đầu tiên cùng dòng nước mắt, ông Sáu vô cùng xúc động. Mọi cảm xúc kìm nén như vỡ òa, hai cha con ôm chầm lấy nhau, khoảnh khắc ấy bóp nghẹt trái tim của bao nhiêu con người. Ông Sáu sau khi dặn dò con gái bèn lên đường trở về chiến trường.

Ông chiến đấu nhưng luôn mang trong tâm trí lời dặn dò của con gái, ông đã tìm và mài cho cô con gái một chiếc lược thật xinh đẹp, tiếc là chiếc lược ấy không được ông đưa tận tay cho con vì ông đã hi sinh nơi chiến trường. Ông hi sinh nhưng tình yêu thương con sẽ còn sống mãi.

b. Tình cảm bé Thu dành cho ông Sáu

Bé Thu là cô bé bướng bỉnh, khi có người nhận làm cha mình và dang tay định ôm mình, bé đã phản kháng, từ chối dữ dội.

Suốt mấy ngày, khi người đàn ông đó muốn tiếp cận em bằng những hành động ân cần, em thẳng thắn khước từ, thậm chí khó chịu khi ông ta cứ nhận là ba mình. Khi nhận được sự quan tâm từ người đó, bé Thu nhất quyết phản kháng, đỉnh điểm là khi ông Sáu gắp cho bé miếng trứng cá, bé đã hất nó khỏi bát của mình.

Khi bị người đó đánh, bé lẳng lặng bỏ đi, sang nhà bà ôm lấy bà mà khóc. Sau khi được bà ngoại giải thích rằng ba đi kháng chiến bị vết thẹo trên mặt, em mới hiểu ra tất cả và thấy ân hận về những hành động của mình.

Bé không nhận ba chỉ vì trên mặt ba có vết thẹo khác với ảnh má cho em xem. Chính vì thế mới dẫn đến chuỗi tình huống dở khóc dở cười sau này. Khi bé biết đó chính là ba mình, bé ân thầm đứng quan sát ba ngày chia tay.

Lúc ba chào tạm biệt Thu để lên đường chiến đấu, mọi cảm xúc của em như vỡ òa, em chạy đến ôm ba, cất tiếng gọi ba đầu đời cùng sự xúc động tột cùng, em hôn khắp mặt ba, không muốn cho ba đi kháng chiến, còn dặn ba mang về cho em chiếc lược.

→ Tình cảm của hai cha con vừa đơn giản lại vừa sâu nặng khiến cho người đọc không khỏi xúc động, tuy họ không được ở gần nhau nhưng họ luôn hướng về nhau.

3. Kết bài

Khái quát lại tình cảm của hai cha con đồng thời rút ra bài học, liên hệ bản thân.

Dàn ý Cảm nhận truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng mẫu 2

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả Nguyễn Quang Sáng và truyện ngắn Chiếc lược ngà.

2. Thân bài

a. Khái quát câu chuyện

Ông Sáu xa nhà đi lính từ khi bé Thu - con gái ông vẫn còn rất nhỏ. Tám năm sau, ông Sáu có dịp trở về thăm gia đình, để được gặp lại vợ và con gái.

Ngỡ tưởng rằng con gái ông sẽ hạnh phúc, vui mừng khi nhìn thấy ba nhưng không, bé Thu không nhận ra ba vì trông ông Sáu không giống với người ba của bé trong ảnh. Bé hét lên gọi má khi ông Sáu lại gần: "Thu! Con".

Trong suốt ba ngày ở bên ba, bé Thu thường nói trống không, lạnh nhạt với ba. Đỉnh điểm, trong bữa ăn, khi ông Sáu gắp cho con cái trứng cá, bé Thu đã hất văng ra, khiến ông Sáu giận dữ và đánh con.

Tối hôm đó, bé Thu nghe bà kể về vết sẹo trên gương mặt ba nên bé đã thấy mình cư xử không đúng, bé thương ba.

Khi ông Sáu đi, bé Thu đã chạy ra gọi ba, ôm hôn ba khiến cho mọi người đều thấy cảm động.

Sau khi chia tay, ông Sáu vẫn luôn nhớ về con gái, ông tỉ mẩn khắc Chiếc lược ngà để tặng cho con gái. Nhưng trong một trận càn của giặc, ông Sáu đã hi sinh.

Trước khi chết, ông trao cho anh Ba chiếc lược ngà, chờ anh Ba hứa sẽ trao cho bé Thu rồi mới yên tâm nhắm mắt.

b. Nêu cảm nghĩ

Câu truyện trước hết ca ngợi tình cảm phụ tử thiêng liêng cao đẹp giữa bé Thu và anh Sau. Tuy họ nhận nhau ở những giờ phút muộn màng nhưng chính khoảnh khắc ấy đã vờ òa và bóp nghẹt bao trái tim bạn đọc.

Câu chuyện ca ngợi lòng hi sinh, sự kiên nhẫn của người cha dành cho đứa con nhỏ, dù nó có không nhận mình, thậm chí xa lánh mình nhưng vẫn luôn cố gắng để được nhận tình yêu thương từ con gái. → Đáng ngưỡng mộ, học tập và noi theo.

Câu chuyện khiến bạn đọc xúc động bởi sự ngây ngô của đứa bé, trong lòng chỉ tôn thờ người ba duy nhất mà mình biết qua tấm ảnh chứ không chịu nhận người khác là ba. Đến khi hiểu ra cơ sự thì ăn năn, tình cảm bao năm dồn ném bùng nổ thành hành động ôm chặt ba, khóc và không cho ba đi lính.

Câu chuyện ca ngợi những con người dũng cảm thời chiến, không màng đến những lợi ích nhỏ nhoi mà một lòng lên đường đánh giặc bỏ lại phía sau mẹ già con thơ vì sự nghiệp tổ quốc.

Câu chuyện cũng gián tiếp phê phán tội ác của đế quốc đã gây ra chiến tranh khiến con người xa lìa cuộc sống đời thường và chia rẽ tình cảm của họ.

3. Kết bài

Khái quát lại nội dung, nghệ thuật và giá trị của câu chuyện.

Văn mẫu Cảm nhận truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng

Cảm nhận truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng mẫu 1

Nguyễn Quang Sáng - nhà văn sinh ra, lớn lên và hoạt động chủ yếu trên chiến trường miền Nam, với lối viết mộc mạc, bình dị, đậm chất Nam Bộ, những trang viết của ông về cuộc sống, con người nơi đây trong hai cuộc kháng chiến ác liệt của dân tộc và trong những năm tháng sau hòa bình luôn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc. Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” - câu chuyện cảm động về tình cha con, ra đời vào năm 1966 là một trong số những tác phẩm xuất sắc nhất của ông.

Trước hết, truyện ngắn “Chiếc lược ngà” đã xây dựng được hai tình huống truyện đặc sắc, để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc. Tình huống được kể đến đầu tiên đó chính là cuộc gặp gỡ đầy xúc động của hai cha con ông Sáu sau tám năm trời đằng đẵng xa cách nhưng thật trớ trêu là bé Thu lại không chịu nhận cha. Đến lúc bé Thu nhận ra thì ông Sáu lại phải lên đường về lại đơn vị. Thêm vào đó, truyện còn xây dựng được tình huống độc đáo khác nữa, đó chính là khi ông Sáu ở khu căn cứ đã dồn hết tình yêu thương để làm tặng bé Thu một chiếc lược ngà nhưng chưa kịp trao con thì ông Sáu đã hi sinh. Trong lúc hấp hối, ông đã nhờ đồng đội chuyển cho con chiếc lược mình đã làm. Như vậy, có thể thấy, tác phẩm đã xây dựng được hai tình huống độc đáo và giàu ý nghĩa. Đó đều là những tình huống giàu kịch tính với nhiều yếu tố bất ngờ, từ đó đã thể hiện tình cảm cha con sâu nặng, thắm thiết. Đồng thời, nhân vật được đặt vào trong những tình huống éo le đã làm bộc lộ tính cách và tình cảm cha con, để rồi từ đó tác giả đã khẳng định sự thiêng liêng, cao cả và sức mạnh của tình cảm cha con.

Bên cạnh việc xây dựng tình huống truyện đặc sắc, truyện ngắn “Chiếc lược ngà” còn xây dựng được những nhân vật độc đáo và trước hết đó chính là nhân vật bé Thu. Bé Thu là một cô bé có tình yêu thương cha sâu sắc, tám năm trời đằng đẵng xa cho, cô bé ấy luôn khao khát được gặp lại cha và rồi cái ngày cô hằng ao ước ấy đã đến. Những tưởng bé Thu sẽ vui mừng khôn xiết, sẽ chạy sà vào lòng ba mà ôm, mà hôn, thế nhưng, mọi thứ lại hoàn toàn ngược lại. Nghe tiếng ba gọi, rồi đến lúc gặp ba, cô bé “tròn xoe mắt” như chẳng thể hiểu chuyện gì đang xảy ra rồi vội chạy đi tìm mẹ. Trong quãng thời gian ít ỏi ba ngày ở nhà, mặc cho ông Sáu dành bao nhiêu yêu thương, quan tâm, dỗ dành cho bé Thu thì bé Thu vẫn nhất quyết không chịu gọi một tiếng ba, những lúc cần nói với ông Sáu, cô bé luôn nói cộc lốc. Và ngay cả những lúc khó khăn nhất như phải chắt nước một nồi cơm to bé Thu vẫn loay hoay, tự xoay xở, tự làm. Đặc biệt, trong bữa cơm, khi ông Sáu gắp trứng cá cho bé Thu, cô bé đã hất ra khiến cơm văng tung tóe. Chính vì điều đó, bé Thu đã bị ông Sáu trách phạt, nhưng con bé không khóc mà bỏ về nhà ngoại. Bé Thu đã không chịu nhận ba chỉ vì trên mặt ông Sáu có vết thẹo, khác với bức hình mà tám năm qua bé Thu nhìn thấy. Để rồi, khi được bà ngoại giải thích mọi chuyện, bé Thu đã hiểu ra tất cả. Sáng hôm sau, bé Thu trở về nhà, đó cũng chính là lúc ông Sáu phải chia tay mọi người để lên đường trở lại đơn vị. Lúc này đây, thái độ của bé Thu với ông Sáu đã thay đổi hoàn toàn, không còn cái vẻ cau có, cố chấp nữa mà giờ đây chỉ còn khuôn mặt “sầm lại buồn rầu”, “đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao” khi bắt gặp ánh nhìn trìu mến và buồn rầu của ba nó. Để rồi, khi ông Sáu nói lời chia tay với mọi người, bé Thu đã cất tiếng gọi ba - một tiếng kêu đến xé lòng, tiếng kêu của tình yêu thương, của nỗi nhớ, của sự chờ đợi mà cô bé ấy đã cố giấu trong mình suốt tám năm qua. Cô bé ấy ôm chặt lấy ba, hôn ba thật nhiều và hôn lên cả vết thẹo. Cô bé ấy ước sao ba sẽ ở nhà với mình chứ không đi nữa. Và đến lúc chia tay ba, bé Thu ao ước ba sẽ mua cho mình một chiếc lược ngà, để luôn thấy ba và tình yêu của ba cạnh mình. Như vậy, có thể thấy, bé Thu là một người con tuy bướng bỉnh nhưng rất giàu lòng yêu thương, quý mến ba.

Cùng với nhân vật bé Thu, nhân vật ông Sáu cũng là nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc. Trở về quê hương, gia đình sau tám năm trời đằng đẵng xa cách, ngày trở về, bao nỗi nhớ thương khiến ông Sáu xúc động mãnh liệt. Nỗi niềm xúc động ấy của ông Sáu đã được tác giả thể hiện bằng những hình ảnh, câu văn giàu xúc động “không thể nào chờ xuồng cập lại bến, anh nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra… vội vàng với những bước chân dài”. Để rồi, khi trở về nhà, trước thái độ của con, ông đã rơi vào tâm trạng đau khổ “anh đứng sững lại đó, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy”. Trong ba ngày ít ỏi ở nhà, ông không đi đâu xa mà luôn gần gũi, tìm đủ mọi cách, kiên nhẫn chờ sự thay đổi của bé Thu, chờ bé Thu gọi ông một tiếng ba. Và đến lúc con nhận mình cũng là lúc ông phải xa con, xa gia đình, quê hương, tình cảm cha con sâu nặng cũng được tác giả bộc lộ thật xúc động “ghìm được xúc động và không muốn cho con nhìn thấy mình khóc, một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên mái tóc con”. Những giọt nước mắt của ông Sáu không chỉ là giọt nước mắt xúc động mà còn là giọt nước mắt của niềm hạnh phúc lớn lao, nó ứa ra từ tình yêu thương con sâu sắc của ông Sáu.

Chia tay con, ông Sáu mang theo lời hứa mua tặng con một chiếc lược ngà trở lại chiến trường. Để rồi, khi trở lại chiến trường, ông luôn ân hận và khổ tâm vì đã trách phạt con. Và hơn thế nữa, ông đã dồn hết tình yêu thương con và nỗi nhớ của mình vào làm chiếc lược ngà tặng con. Ông cưa từng chiếc răng cẩn thận và tỉ mỉ, ông “tẩn mẩn” khắc từng nét chữ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Mỗi lần nhớ con, ông lại mang cây lược ra ngắm và lên mái tóc mình cho cây lược thêm bóng. Ông Sáu đã dồn hết tình cảm mình dành cho con vào việc làm chiếc lược ngà, chiếc lược ấy chính là kết tinh cho nỗi nhớ, cho tình yêu thương sâu sắc mà ông dành cho bé Thu. Tình yêu thương con sâu sắc của ông Sáu còn được thể hiện rõ nét qua chi tiết ông Sáu hi sinh. Trong những phút giây cuối cùng ít ỏi còn lại của cuộc đời mình, ông Sáu đã nhờ đồng đội trao lại chiếc lược ngà cho bé Thu. Và rồi, sau này, chiếc lược ấy đã được trao tận tay cho Thu, điều đó cho thấy, tình cha con không hề chết, không hề mất đi mà nó trở thành điểm tựa để bé Thu khôn lớn và trưởng thành.

Tóm lại, truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang sáng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc mọi thế hệ không chỉ bởi tình huống truyện độc đáo, nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn mà hơn hết chính bởi sự ấm áp vô ngần của tình cảm cha con cao quý trong hoàn cảnh của cuộc chiến tranh gay go, ác liệt.

Cảm nhận của em về đoạn trích Chiếc lược ngà mẫu 2

Trong văn học kháng chiến, đề tài về cuộc sống và chiến đấu của quân và dân ta luôn là nguồn cảm hứng sáng tạo bất tận cho các nhà văn, nhà thơ. Chúng ta tự hào nền văn học nước nhà đã có những tác phẩm xuất sắc, phản ánh cuộc sống chiến đấu kiên cường bất khuất của các chiến sĩ. Bằng ngòi bút của mình các nhà văn đã bám sát hiện thực cuộc chiến, ca ngợi những tấm gương anh hùng đã chiến đấu quên mình vì đất nước. Tuy nhiên Nguyễn Quang Sáng đã chọn cho mình một hướng đi mới, hướng ngòi bút vào những câu chuyện cảm động đời thường nhưng không kém phần quyết liệt. Chiếc Lược Ngà với cách nhìn nhẹ nhàng đằm thắm đã đi sâu vào đời sống tình cảm gia đình trong hoàn cảnh chiến tranh làm sáng ngời giá trị nhân văn cách mạng bằng trái tim trân trọng sâu sắc.

Nguyễn Quang Sáng là nhà văn của Đồng bằng Nam Bộ với những trang văn giản dị của ông đã để lại những dư vị ngọt ngào nồng ấm về tình người tình đời. Trong một cuộc chiến tranh dù là chính nghĩa hay phi nghĩa, dù bên thắng hay người thua cuộc. Thì người chịu mất mát nhiều nhất lại là những người dân, người lính trong cuộc chiến đó. Chiến tranh qua đi để lại biết bao sự đau thương của việc chia ly giữa những người thân, người đồng đội. Chiếc lược ngà được Nguyễn Quang Sáng viết năm 1966 đã cho ta thấm thía và cảm động trước tình cảm cha con sâu nặng bền chặt của cha con ông Sáu trong hoàn cảnh chia ly của chiến tranh.

Tình huống truyện đặc sắc trong Chiếc Lược Ngà đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc. Với tình huống là cuộc gặp gỡ đầy xúc động của hai cha con ông Sáu sau tám năm trời xa cách. Nhưng bé Thu- đứa con gái duy nhất mà ông ngày đêm mong nhớ lại không chịu nhận cha. Nghịch cảnh một lần nữa lặp lại, đó là bé thu nhận ra ông thì ông lại lên đường tiếp tục chiến đấu. Tình huống truyện càng được đẩy lên cao trào khi ông Sáu ở căn cứ luôn nhớ về con với tình yêu thương Thu mãnh liệt. Đã làm tặng cho bé Thu một chiếc lược ngà, nhưng chưa kịp giữ được lời hứa với con thì chiến tranh đã cướp ông đi. Trong giây phút cuối của cuộc đời, ông đã nhờ người đồng đội chuyển cho con mình chiếc lược. Chiếc lược đã là nguồn động lực để Thu tiếp tục sự nghiệp của cha mình. Với tình huống truyện đầy kịch tính, các yếu tố bất ngờ tô đậm tình cha con sâu nặng thắm thiết qua những tình huống éo le, làm nổi bật tính cách của cha con ông Sáu từ đó khẳng định sự thiêng liêng cao cả sức mạnh tình phụ tử.

Ông Sáu lên đường tham gia kháng chiến khi mà đứa con gái duy nhất của ông chưa tròn 1 tuổi. Khoảng thời gian 8 năm trời chiến đấu, trong ông lúc nào cũng đau đáu nỗi nhớ mong con. Sau bao tháng ngày chờ đợi ông có dịp về thăm nhà, dường như "cái tình người cha cứ nôn nao trong ông", ông nôn nóng muốn gặp đứa con gái mà mình nhớ mong bấy lâu, được ôm con vào lòng nghe con gọi một tiếng ba. Sự nôn nóng của ông được thể hiện ngay khi thuyền còn chưa cập bến, ông Sáu đã vội vàng nhảy lên bờ bước những bước dài đến bên con, ông gọi to tên con, giang rộng vòng tay với niềm mong chờ được con chạy nhanh đến ôm chầm lấy ông, sà vào lòng ông gọi một tiếng ba

Ông Sáu phải có tình yêu thương con, nhớ thương con đến đường nào thì mới có những hành động vội vàng, luống cuống như vậy đặc biệt là với một người lính dày dạn nơi chiến trường. Thế nhưng đáp lại những mong chờ của người cha, bé Thu lại sợ hãi, ngơ ngác nhìn ông như người xa lạ. Trước hành động của đứa con gái bé bỏng của mình, ông không kìm được nỗi xúc động "vết sẹo bên má giật giật", giọng run run ông lặp lại "ba đây con", "ba đây con". Những lời nói và cử chỉ của ông thể hiện khát khao mong con gái nhận ra mình nhưng sự thật phũ phàng con gái sợ hãi chạy đi. Còn gì có thể đau xót hơn khi đứa con duy nhất của mình không nhận ra mình. Nỗi niềm khát khao mong nhớ của người cha nay đã bị con gái cự tuyệt, dường như nỗi đau của chiến tranh của vết thẹo dài trên mặt của ông cũng không đau bằng sự hụt hẫng của người cha khi con không nhận ra mình.

Trong những ngày nghỉ phép ông chẳng dám đi đâu xa lúc nào cũng ở bên con, mong ba con sẽ gắn bó thân thiết và khát khao muốn con gọi một tiếng ba. Được làm cha và mong con gọi những tiếng ba đầu đời là niềm hạnh phúc vô bờ của bất cứ người làm cha, làm mẹ nào và ông Sáu cũng vậy. Thế nhưng bé Thu lại ngày càng xa cách và có phản ứng gắt gao mỗi khi phải nhắc đến từ Ba. Ông chỉ biết lắc đầu cười chua xót trước thái độ cứng đầu của con gái. Dường như sẽ chẳng có phép màu nào xảy ra, nhưng có lẽ tình cha con thiêng liêng thắm thiết đã là sợi dây vô hình kéo bé Thu trở lại. Ngày ông lên đường cũng chính là lúc ông được nghe tiếng ba từ đứa con gái mà mình mong chờ bấy lâu, nhưng cũng là lúc hai cha con phải xa nhau.Chính tình yêu và sự kìm nén cảm xúc đã khiến một người đàn ông phải đưa khăn lau nước mắt, những giọt nước mắt của một người đàn ông thể hiện tình yêu thương con vô bờ bến và khóc cho hoàn cảnh của hai cha con khi nhận nhau chưa lâu đã phải xa cách.

Khi trở lại chiến trường ông Sáu giữ lời hứa tặng cho con một cây lược. Ông gửi gắm hết tình yêu nỗi nhớ con và mài chiếc lược nhỏ thận trọng tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc. Dường như ông nhìn thấy hình ảnh con gái mình qua Chiếc Lược Ngà nhỏ bé ấy. Ông khao khát một ngày trở về được chải mái tóc cho con mình bằng chiếc lược ấy. Nhưng chiến tranh tàn khốc, ông hy sinh khi chưa kịp trao tận tay chiếc lược cho con mình. Trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời, ông không kịp căn dặn điều gì chỉ có tình cha con trong trái tim ông luôn sống mãi, ông vẫn nhớ về đứa con gái bé bỏng của mình.

Thu là một cô bé có tình yêu thương cha sâu sắc. Được gặp lại cha trong khoảng thời gian 8 năm trời, cuối cùng ngày mà cô được gặp cha đã tới. Những tưởng Thu sẽ vui mừng khôn xiết chạy vào lòng ba mà ôm mà hôn. Nhưng khi nghe tiếng Ba gọi, đến lúc gặp ba cô bé tròn xoe mắt như không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Trong khoảng thời gian ít ỏi ông Sáu ở nhà, mặc cho ông dành bao nhiêu yêu thương quan tâm dỗ dành thì Thu vẫn quyết không chịu gọi một tiếng Ba. Những lúc cần nói với ông Sáu cô bé luôn nói cộc lốc và tránh gọi tiếng Ba.

Thu là một cô bé có cá tính mạnh mẽ yêu ghét rõ ràng. Đặc biệt trong bữa cơm, khi ông Sáu thể hiện tình yêu thương đối với con là gắp cho Thu một miếng trứng cá nhưng cô bé đã hất miếng cơm văng tung tóe. Điều đó khiến ông Sáu vô cùng tức giận ông đã trách phạt, dường như hiểu ra hành động của mình có phần quá đáng bé Thu gắp cái trứng cá bỏ vào trong bát. Thu cũng không hề khóc mà bỏ về nhà ngoại.

Một sự thật đau đớn là nguyên nhân khiến Thu không chịu nhận ba, đó là ông Sáu có vết thẹo. Khác xa với bức hình mà 8 năm qua bé Thu đã nhìn thấy. Để rồi khi được bà ngoại giải thích bé Thu đã hiểu ra tất cả, Thu hiểu rằng người cha đáng thương của mình không có lỗi, lỗi là ở chiến tranh đã mang người bố yêu thương của Thu đi và khi trở về cùng với vết sẹo dài trên má. Vết sẹo dài ấy khiến Thu càng tự hào hơn về người bố của mình. Trước lúc ông Sáu chia tay mọi người để lên đường trở lại đơn vị thái độ của bé Thu đã thay đổi hoàn toàn không còn cái vẻ cau có, giờ đây chỉ còn khuôn mặt sầm lại, buồn rầu, đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao và rồi khi ông Sáu nói lời tạm biệt mọi người Thu đã cất tiếng gọi ba. Tiếng kêu đến xé lòng, đó chính là tiếng gọi của tình yêu thương, của những nỗi nhớ, sự chờ đợi tủi thân mà Thu đã giấu trong mình suốt 8 năm qua.

Thu có một tình yêu thương ba tha thiết. Khi được ở trong lòng ba Thu ôm chặt lấy ba, hôn ba thật nhiều, hôn lên cả vết thẹo - nguyên nhân mà Thu không nhận ba. thu yêu người cha ấy và ước mong ba sẽ ở lại với mình chứ không đi nữa. Trong giờ phút chia tay Thu ao ước ba sẽ mua cho mình một chiếc lược ngà để luôn thấy hình ảnh của ba. Bé Thu là một người con tuy bướng bỉnh nhưng rất giàu lòng yêu thương và quý mến ba.

Được ở bên gia đình, bên những người yêu thương vốn là những quyền cơ bản của con người. Nhưng chiến tranh đã ngăn cấm họ làm điều đó. Chính chiến tranh đã tạo ra những nghịch cảnh trớ trêu, những giọt nước mắt hạnh phúc hòa trong những nỗi đau. Ông Sáu hiểu rõ giây phút bé Thu nhận ra ông, dành cho ông những tình cảm thiết tha nhất cũng là lúc phải chia tay vì cuộc chiến đang vẫy gọi ông Sáu phải lên đường. Nguyễn Quang Sáng đã rất thành công khi xây dựng tình huống truyện bất ngờ, tự nhiên tập trung xây dựng cốt truyện chặt chẽ, lựa chọn nhân vật kể chuyện thích hợp. Đó là lời kể của ngôi thứ ba là đồng đội của ông Sáu khiến câu chuyện tự nhiên dễ đi vào lòng người.

Chiếc Lược Ngà đã thể hiện cảm động tình cha con thắm thiết sâu nặng và cao đẹp của cha con ông Sáu trong chiến tranh bão lửa. Đọc xong câu chuyện, người đọc càng thêm thấm thía những mất mát đau thương mà chiến tranh đã gây ra cho biết bao con người bao gia đình Việt Nam.

Cảm nhận của em về đoạn trích Chiếc lược ngà mẫu 3

Truyện ngắn này được viết năm 1966 khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Nội dung truyện là tình cha con của cha con ông Sáu và thông qua đó nói lên sự ngặt nghèo, éo le mà chiến tranh đem lại. Tuy đây là một đề tài muôn thuở trong văn chương nhưng chính vì thế giá trị nhân văn của truyện càng trở nên sâu sắc.

“Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là một truyện ngắn viết về tình phụ tử sâu nặng của cha con ông Sáu thời kì chiến tranh. Đây là một truyện ngắn giản dị nhưng chứa đầy sự bất ngờ như ta thường thấy ở văn của Nguyễn Quang Sáng. Đoạn trích trong sách giáo khoa đã cho thấy một khoảnh khắc nhỏ mà trong đó có sự cao cả thiêng liêng của tình phụ tử.

Truyện ngắn này được viết năm 1966 khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Nội dung truyện là tình cha con của cha con ông Sáu và thông qua đó nói lên sự ngặt nghèo, éo le mà chiến tranh đem lại. Tuy đây là một đề tài muôn thuở trong văn chương nhưng chính vì thế giá trị nhân văn của truyện càng trở nên sâu sắc.

Truyện xoay quanh đề tài tình cảm cha con ông Sáu mà tác giả Nguyễn Quang Sáng đã chú trọng đặc biệt đến nhân vật bé Thu - một nhân vật có nội tâm đầy sự mâu thuẫn. Thu là một cô bé phải sống xa cha từ nhỏ. Tuy vậy trong tâm tưởng của Thu, hình ảnh người cha phải xa cách từ lâu luôn luôn tồn tại qua những tấm ảnh. Mặc dù yêu cha là thế nhưng khi gặp cha rồi Thu lại có những hành động mâu thuẫn với suy nghĩ của mình. Khi nghe tiếng ông Sáu gọi con, Thu đã không hề mừng rỡ như ông Sáu vẫn tưởng, nó giật mình, tròn mắt nhìn, ngơ ngác lạ lùng, chớp mắt nhìn như muốn hỏi, thậm chí mặt nó bỗng tái mét rồi vụt chạy và kêu thét lên. Đều là những cử chỉ mà không ai ngờ tới - những cử chỉ thể hiện sự sợ hãi khác thường giữa cha và con. Không chỉ có thế, hành động của Thu còn chứa đầy sự lạnh nhạt và lảng tránh. Kịch tính câu chuyện được đẩy lên cao khi bé Thu nấu cơm. Nó góp phần tạo nên độ căng của mạch kể. Cái nồi cơm quá to, con bé cần có sự giúp đỡ của người lớn nhưng nó đã nhất quyết không chịu gọi ba, không chịu nhờ vả. Đỉnh điểm nữa là khi bé Thu hất cái trứng cá mà anh Sáu đã gắp cho. Đây là một hành động rất tự nhiên và hợp lí của Thu để qua đó, cá tính mạnh mẽ của cô bé dần được biểu lộ. Thương con là thế nhưng ông Sáu vẫn không giữ nổi bình tĩnh, ông vung tay đánh vào mông nó và hét lên sao mày cứng đầu quá vậy hả. Bị ba đánh Thu không khóc như ông Ba tưởng, nó chỉ lặng lẽ đứng dậy và sang nhà bà ngoại. Thì ra nguyên nhân là vết sẹo trên mặt ba nó. Nó không chấp nhận bất cứ lời giải thích nào kể cả lời giải thích của mẹ nó. Quả là những suy nghĩ rất trẻ con nhưng chính điều đó đà làm cho câu chuyện trở nên rất thật. Đến khi nghe ngoại kể về vết thẹo của ba, nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng thở dài như người lớn, tất cả như giúp Thu giải tỏa nỗi lòng mình nhưng bên cạnh đó, nó cũng rất ân hận và hối tiếc vì những ngày qua đã không chịu nhận ba. Cao trào của câu chuyện lại được đẩy lên khi ông Sáu chia tay vợ con lên đường, bé Thu bỗng thét lên “Ba...a... a... ba!”. Tiếng kêu như xé lòng, xót xa, tiếng kêu bật lên sau bao năm kìm nén, chờ đợi khắc khoải. Cùng với những biểu hiện vội vã, hối hả, tác giả đã để Thu bộc lộ hết những tình cảm, nỗi nhớ thương dành cho ba và trong đó có cả sự hối hận. Đây như một chi tiết biết nói. Không có chi tiết này câu chuyện sẽ mất đi hẳn một phần giá trị và sẽ trở nên nhạt nhẽo. Niềm vui sướng khi vừa tìm thấy cha con tưởng như không bao giờ còn thấy nữa, niềm vui sướng vượt ra ngoài sức tưởng tượng đã vượt qua mọi khoảng cách khiến người đọc không thể cầm lòng, về sau, khi dã trưởng thành Thu nối gót cha làm giao liên phục cho kháng chiến cũng là vì cha, vì trả thù cho cha.

Qua nhân vật ông Ba, Nguyễn Quang Sáng đã dành cho Thu bao tình cảm quý mến và trân trọng, ông cảm thông với cái ương bướng, cứng đầu của một cô bé chỉ vì vết sẹo chiến tranh trên mặt người lính từ mặt trận trở về mà một tiếng ba cũng không chịu gọi. Hình ảnh bé Thu hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài trên má của ba, cùng với cử chỉ giang cả hai chân bấu chặt lấy ba nó mãi mãi là hình ảnh rất cảm động của tình cha con giữa thời máu lửa. Giây phút từ biệt ấy đã trở thành vĩnh biệt. Nỗi buồn từ câu chuyện đã làm ta càng thêm thấm thìa sự ác nghiệt của chiến tranh.

Trong truyện, tác giả không chỉ chú ý tới tình cảm của nhân vật bé Thu mà tình cảm yêu thương con sâu nặng của ông Sáu đã nhắc đến rất nhiều. Ngày ông đi bộ đội, Thu còn rất bé, nhưng tình cha con trong ông luôn tồn tại mãnh liệt. Lần nào vợ ông đến thăm, ông cũng hỏi thăm con. Đây chính là sự yêu thương của người cha làm cách mạng xa nhà, không được gặp con. Khi về thăm nhà, những tưởng mong đợi được gặp con, được nghe con gọi ba từng phút đã được thực hiện nhưng không, bom đạn đã làm thay đổi hình hài ông, vết thẹo dài trên má - vết thương chiến tranh đã làm cho đứa con gái thương yêu bé bỏng không nhận ra người cha nữa. Khi không được đón nhận tình cảm, ông Sáu trở nên suy sụp, đau đớn và đáng thương. Trước sự ứng xử lạnh nhạt của bé Thu, ông vẫn luôn dành mọi hành động thương yêu cho con, trong ánh mắt của ông luôn tràn đầy tình phụ tử không bờ bến. Ông đã tìm mọi cách để sát lại gần con hơn, ông gắp trứng cá cho con nhưng khi cao trào của câu chuyện là Thu hất cái trứng cá đi thì ông đã không kiềm chế nổi, ông đã đánh con. Đánh con để giải tỏa những bức xúc tinh thần, điều đó càng chứng tỏ ông rất yêu con. Với ông cái khao khát được gặp lại vợ con cũng không được trọn vẹn. Đó là kịch của thời chiến tranh. Lúc chia tay vợ con lên đường, ông mới chỉ nhận được một khoảnh khắc hạnh phúc là khi bé Thu nhận ra ba mình và gọi một tiếng ba. Ông ôm con, rút khăn lau nước mắt rồi hôn lên mái tóc con. Ông đã ra đi với nỗi thương nhớ vợ con không thể nào kể xiết, với lời hứa mang về cho con chiếc lược ngà và nỗi ân hận day dứt vì sao mình lại đánh con cứ giày vò ông mãi. Lời dặn dò của đứa con gái bé bỏng “Ba về ba mua cho con một cây lược nghe ba” ông luôn cất kín trong lòng. Tất cả tình thương yêu của ông đã được dồn cả vào cây lược ngà tự làm cho con. Có khúc ngà, ông Sáu hớn hở như bắt được quà. Chính qua chi tiết giàu sức gợi cảm này mà ta thấy được phút giây sung sướng đã khiến người cha như một đứa trẻ. Ông làm cho con chiếc lược ngà rất tỉ mỉ và thận trọng. Ông ngồi cưa từng chiếc răng, khổ công như một người thợ bạc. Làm xong lược, ông lại cẩn thận khắc dòng chữ yêu nhớ tặng Thu con của ba. Tất cả những chi tiết trên đều làm ta vô cùng cảm động nhưng cảm động nhất có lẽ phải là chi tiết anh lấy cây lược ngà mài lên tóc cho cây lược thêm bóng, thêm mượt. Mỗi lần anh chải tóc, ta lại liên tưởng đến một lần anh gửi gắm yêu thương vào chiếc lược nhỏ xinh. Nhưng không may là ông Sáu đã hi sinh, nhưng tình phụ tử thì không thể chết. Lúc hấp hối, ông đưa tay vào túi, móc cây lược đưa cho ông Ba, nhìn hồi lâu rồi tắt thở. Tuy không một lời nói nhưng cái nhìn của ông Sáu quả thật đã chứa bao nỗi niềm ở bên trong, những nỗi niềm chưa được nói.

Hình ảnh ông Sáu, hình ảnh người cha trong truyện yêu thương con hết mực sẽ mãi còn. Chiếc lược ngà với dòng chữ sẽ mãi là kỉ vật, là nhân chứng về nỗi đau, bi kịch của thời chiến tranh. Nó buộc người đọc chúng ta phải suy nghĩ về những đau thương, mất mát mà chiến tranh đã đem đến cho con người đang sống trên mảnh đất này. Qua đó tác giả cũng muốn nêu lên thái độ không đồng tình với chiến tranh của chính mình.

Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” đã rất thành công trong việc kết hợp kể với miêu tả nội tâm nhân vật, xây dựng nội tâm mâu thuẫn nhưng rất nhất quán về tính cách. Truyện được kể ở ngôi thứ nhất dưới góc nhìn của ông Ba. Điều đó làm cho sự việc trở nên khách quan, tin cậy và xác thực, tạo điều kiện cho người đọc bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ, thấu hiểu và xúc động trước tâm trạng của từng nhân vật. Hơn nữa truyện lại có sự sắp xếp rất chặt chẽ với nhiều tình huống bất ngờ làm cho người đọc cảm thấy hứng thú và cuốn hút khi đọc.

Truyện đã làm sống lại quãng thời gian đánh giặc giữ nước và thông qua đó tác giả muốn người đọc phải nghĩ và thấm thìa nỗi đau, sự mất mát mà chiến tranh mang đến. Tình cảm cha con sâu sắc của cha con ông Sáu đã vượt qua bom đạn của chiến tranh để ngày càng thiêng liêng, ngời sáng và gắn bó chặt chẽ với tình yêu quê hương, đất nước.

Cảm nhận truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng mẫu 4

Nguyễn Quang Sáng sinh năm 1932, quê Chợ Mới, An Giang. Trong kháng chiến chống Pháp, ông tham gia bộ đội, hoạt động ở chiến trường Nam Bộ. Từ sau năm 1954, tập kết ra miền Bắc, Nguyễn Quang Sáng bắt đầu viết văn. Những năm chống Mĩ, ông trở về Nam Bộ tham gia kháng chiến và tiếp tục sáng tác văn học. Tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng có nhiều thể loại: Loại truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim và hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến cũng như sau hòa bình. Truyện ngắn Chiếc lược ngà viết năm 1966 khi tác giả đang hoạt động ở chiến trường Nam Bộ và được đưa vào tập truyện cùng tên. Văn bản trong sách giáo khoa là đoạn trích phần giữa của truyện.

Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến, mãi đến khi con gái lên tám tuổi, ông mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Bé Thu không nhận ra cha vì vết sẹo trên mặt ba không còn giống trong bức ảnh chụp mà em đã biết. Em đối xử với ba như người xa lạ. Đến lúc Thu nhận ra ba, tình cảm cha con thức dậy mãnh liệt trong em thì cũng là lúc ông Sáu phải ra đi. Ở khu căn cứ, người cha dồn hết tình cảm yêu quý, nhớ thương đứa con vào việc làm một chiếc ngà voi để tặng con. Trong một trận càn, ông hi sinh. Trước lúc nhắm mắt, ông còn kịp trao cho người bạn để gửi về cho con.

Truyện đã thể hiện tình cảm cha con sâu sắc trong hai tình huống:

Hai cha con gặp nhau sau tám năm xa cách, nhưng thật trớ trêu là bé Thu không nhận ra cha, đến lúc em nhận ra và biểu lộ tình cảm thắm thiết thì ông Sáu lại phải ra đi. Đây là tình huống cơ bản của truyện.

Ở khu căn cứ, ông Sáu dồn tất cả tình yêu thương và mong nhớ đứa con vào việc làm một cây lược ngà để tặng con, nhưng ông đã hi sinh khi chưa kịp tặng món quà ấy cho con gái.

Nếu tình huống thứ nhất bộc lộ tình cảm mãnh liệt của bé Thu với cha thì tình huống thứ hai biểu lộ tình cảm sâu sắc của người cha đối với đứa con: Đó là tình cảm sâu sắc, mạnh mẽ nhưng thật dứt khoát, rạch ròi. Thu còn có một nét cá tính và sự cứng cỏi đến mức ương ạnh, nhưng Thu vẫn là một đứa trẻ với tất cả nét hồn nhiên, ngây thơ của con trẻ. Qua những diễn biến tâm lí của bé, ta thấy tác giả tỏ ra am hiểu tâm lí trẻ con và diễn tả rất sinh động với tấm lòng yêu mến, trân trọng những tình cảm trẻ thơ.

Chiếc lược ngà không chỉ nói lên tình cha con thắm thiết, sâu nặng của cha con ông Sáu mà còn gợi cho người đọc nghĩ đến và thấm thía những đau thương mất mát, éo le do chiến tranh gây ra cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình.

Một trong những điểm tạo nên sự hấp dẫn của truyện Chiếc lược ngà là tác giả đã xây dựng được một cốt truyện khá chặt chẽ, có những yếu tố bất ngờ nhưng hợp lí. Một yếu tố nghệ thuật nữa góp phần tạo nên thành công của truyện ngắn này là việc lựa chọn nhân vật kể chuyện thích hợp. Người kể chuyện trong vai một người bạn của ông Sáu, không chỉ chứng kiến mà còn bày tỏ sự đồng cảm với nhân vật.

Cảm nhận truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng mẫu 5

1. Mở bài

Có những câu chuyện dù phải đọc nhiều lần ta vẫn không thể nhớ. Lại có những câu chuyện dù chỉ đọc một lần ta vẫn không thể quên.

Có những hạnh phúc muộn màng và ngắn ngủi khiến ta phải trào nước mắt.

Có những tình cảm nồng ấm và thiêng liêng mà ta chỉ cảm nhận được trong tổ ấm gia đình...

Tất cả những ấn tượng ấy đều có từ truyện ngắn Chiếc lược ngà của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Một truyện ngắn dung dị nhưng gây xúc động lòng người trước tình cảm sâu nặng của cha con ông Sáu.

2.Thân bài

a. Khái quát tác phẩm Chiếc lược ngà (Dẫn dắt vào bài):

Tác phẩm được Nguyễn Quang Sáng viết năm 1966, tại chiến trường Nam Bộ trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra quyết liệt Điều đáng chú ý là truyện ngắn này viết trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt nhưng lại tập trung nói về tình người – cụ thể ở đây là tình cha con trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh và tình đồng chí của những người cán bộ cách mạng. Tình phụ tử thiêng liêng được miêu tả thật cảm động ở cả hai phía: Người cha cán bộ cách mạng và đứa con gái nhỏ. Đó không chỉ là một tình cảm muôn thuở, có tính nhân bản bền vững, mà còn được thể hiện trong hoàn cảnh ngặt nghèo, éo le và trong cuộc sống nhiều gian khổ, hi sinh của người cán bộ cách mạng. Vì thế, tình cảm ấy càng đáng trân trọng và đồng thời nó cũng cho thấy những nỗi đau mà chiến tranh gây ra cho cuộc sống bình thường của mọi người.

b. Tình cảm gia đình, tình phụ thử thiêng liêng, cảm động trong những năm tháng chiến tranh.

• Tình cảm của bé Thu dành cho cha của mình:

Bé Thu trong câu chuyện, cũng như bao cô bé miền Nam khác đều thiếu thốn tình cha từ nhỏ do cuộc chiến tranh. Từ nhỏ đến hồi tám tuổi, em chỉ được biết ba, hình dung ba qua ảnh và qua lời kể của bà và má. Dù được sống trong tình yêu thương của mọi người nhưng có lẽ Thu cũng cảm thấy thiếu hụt một tình thương, sự che chở, ôm ấp của người cha. Chắc Thu phải từng giờ từng phút trông chờ, ao ước gặp ba em lắm!

* Thái độ và tình cảm của bé Thu khi người cha từ chiến trường về thăm nhà:

– Nhưng thật bất ngờ, thái độ và hành động của Thu lại hoàn toàn trái ngược với sự trông ngóng, sốt ruột của người cha mong gặp con sau nhiều năm xa cách; trái ngược với sự mong đợi, suy nghĩ ở người đọc về cuộc hội ngộ đầy cảm động của hai cha con. Tình thương yêu cha của bé Thu được thể hiện một cách hết sức bất thường. Đó là dứt khoát chối bỏ người cha hiện tại mà em cho là không phải cha mình, để dành trọn vẹn tình thương yêu cho người cha mà em hằng mong nhớ.

– Thoạt đầu, khi nhìn thấy ông Sáu vui mừng vồ vập nhận Thu là con, em tỏ ra lảng tránh, lạnh nhạt và xa cách tròn mắt nhìn… ngơ ngác, lạ lùng… bỏ chạy và cầu cứu Má! Má!. Với ông Sáu thái độ của Thu khiến ông hụt hẫng, đau đớn. Nhưng với Thu đây là phản ứng tâm lí tự nhiên. Bởi từ khi em lớn lên, ông Sáu đâu có ở bên cạnh, chưa bao giờ em được trông thấy cha bằng xương, bằng thịt. Hôm nay một người đàn ông lạ lẫm với vết sẹo dài đỏ ửng, giật giật, trông rât dễ sợ đột ngột xuất hiện tự xưng là cha, làm sao em không sợ hãi? Một nghịch lí trớ trêu, đau xót cho người cha, một sự ngỡ ngàng, lạ lẫm cho đứa con được Nguyễn Quang Sáng miêu tả thật sinh động, tài tình.

– Suốt mấy ngày ông Sáu ở nhà, bé Thu hoàn toàn lạnh lùng trước tình cảm vồ vập của người cha. Ông Sáu càng xích lại gần, bé Thu càng lùi xa. Ông Sáu càng yêu thương, bé Thu càng lảng tránh. Tác giả đã chứng tỏ tài năng của mình trong việc xây dựng nhân vật một bé gái tám tuổi bướng bỉnh và gan góc. Trong tâm hồn trẻ thơ của bé Thu, chỉ có duy nhất hình ảnh một người ba mà nó biết qua bức ảnh chụp với má ngày cưới. Nó nhất quyết không chịu nhận ba, không gọi ba vì thấy ba nó trong bức ảnh không hề có vết thẹo trên má còn người cứ gọi nó là con, bắt nó gọi bằng ba bây giờ lại có vết thẹo dài trên má. Nguyễn Quang Sáng đã tỏ ra rất am hiểu tâm lí trẻ thơ.

Chi tiết gọi "trổng" và chi tiết chắt nước cơm đã khắc hoạ nổi bật sự đáo để hồn nhiên của bé Thu. Đặc biệt là chi tiết bé Thu hất đổ cả chén cơm khi anh Sáu gắp cho nó cái trứng cá. Bị ba đánh, tưởng đâu; con bé sẽ lăn ra khóc, sẽ giẫy, sẽ đạp đổ cả mâm cơm, hoặc sẽ chạy vụt đi. Nhưng không, nó ngồi im, đầu cúi gằm xuống. Nghĩ thế nào nó cầm đũa, gắp lại cái trứng cá để vào chén, rồi lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm. Đành rằng trẻ con chỉ tin vào những gì chúng thấy, đành rằng bé Thu không thể biết được sự ác nghiệt của bom đạn là thế nào, và nó có cách suy nghĩ theo kiểu trẻ con của nó, nhưng phải thừa nhận rằng cô bé này có một cá tính mạnh mẽ. Sự bướng bỉnh, gan góc đến kì lạ của bé Thu sau này trở thành lòng dũng cảm, sự lanh lợi của cô giao liên Thu.

Tình yêu cha của Thu được thể hiện ngay trong chính hành động bướng bỉnh. Vì cha, Thu kiên quyết từ chối sự quan tâm của người lạ, thương cha nên bao nhiêu yêu thương kính trọng được em giữ gìn trong tiếng "ba" trìu mến. Với em, ba là duy nhất, không ai có thể thay thế tình yêu ấy. Đó là nét đẹp phẩm chất nơi thu khiến ta khâm phục. Nếu ai thực sự hiểu được điều đó, sẽ thấy Thu không đáng ghét mà đáng yêu vô cùng.

* Thái độ và tình cảm của bé Thu khi người cha chuẩn bị lên đường.

– Sự nghi ngờ của Thu được giải toả khi nghe bà ngoại giải thích vì sao ba lại có vệt thẹo dài trên má. Nghe bà kể, nó nằm in lăn lộn, thỉnh thoảng thở dài như người lớn. Sự miêu tả nội tâm gián tiếp qua hành động cho thấy những tình cảm, cảm xúc đang trào dâng trong lòng em – yêu thương cha xen lẫn nỗi ân hận.

– Hôm sau trở về nhà, nhìn mọi người vây quanh cha, vẻ mặt Thu buồn rầu Cái nhìn của nó không ngơ ngác, lạnh lùng, nó nhìn với vẻ nghĩ ngợi, sâu xa. Và khi bắt gặp ánh mắt của cha thì đôi mắt ấy như xôn xao. Cái xôn xao của đôi mắt như nói lên bao điều. Khi ông Sáu cất tiếng chào "Thôi ba đi nghe con" thì nỗi niềm trong em bật tung thành tiếng "Ba.......a...a" Tiếng kêu của nó như tiếng xe, xé sự im lặng, xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng "ba" nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay như vỡ tung từ đáy lòng "nó". Tiếng gọi thân thương ấy đứa trẻ nào cũng gọi đến thành quen nhưng với cha con Thu là nỗi khát khao của 8 năm trời xa cách thương nhớ. Đó là tiếng gọi của trái tim, của tình yêu trong lòng đứa bé 8 tuổi mong chờ giây phút gặp ba. Nó vừa kêu, vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Nó vừa ôm chặt lấy cổ ba nó vừa nói trong tiếng khóc: - Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con!. Tình cảm con với ba được thể hiện một cách mãnh liệt, mạnh mẽ, cuống quýt, hối hả và có xen lẫn phần hối hận. Đó là những cảm xúc đã dồn nén từ lâu bỗng vỡ òa ra: Ba bế nó lên. Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai, và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa. Bà con và người kể chuyện cũng như người đọc không thể kìm được nỗi xúc động như có ai đang nắm chặt tim mình bởi vì cái éo le của tình cha con ở đây. Lúc cha con nhận nhau lại cũng chính là lúc người cha phải ra đi.

Bé Thu là đứa trẻ giàu tình cảm. Thái độ của bé Thu với ba trái ngược trong những ngày đầu khi ông Sáu về thăm nhà và lúc ông sắp ra đi. Song, trái ngược mà vẫn nhất quán. Vì quá yêu ba, quá khao khát được có ba nên khi nhận định không phải ba em thì em nhất định không chịu nhận, nhất định không gọi; lấy một tiếng. Cho nên, khi tiếng gọi như xé kia cất lên ta thấy nó thiêng liêng vô cùng. Tiếng gọi ấy càng trở nên thiêng liêng, quý giá bởi đón chờ nó là cả tấm lòng cao đẹp, thương yêu con vô hạn của người cha.

Với sự am hiểu tâm lí trẻ thơ, ngòi bút miêu tả sinh động diễn biến tâm lí trẻ thơ của tác giả đã xây dựng nên một cô bé Thu cứng cỏi, mạnh mẽ, sâu sắc trong tình cảm. Tâm lí và hành động của Thu được miêu tả sinh động, sát với tâm lí lứa tuổi của em. Điểm nổi bật gợi sự xúc động của em là một tình cảm chân thành, mãnh liệt mà thánh thiện dành cho cha.

• Tình cảm của ông Sáu dành cho Thu:

Trong Chiếc lược ngà, tình cảm của ông Sáu dành cho con cũng mãnh liệt, sâu nặng không kém. Tình cảm ấy được tác giả thể hiện phần nào trong chuyến về thăm nhà và được miêu tả kỹ lưỡng hơn khi ông ở căn cứ kháng chiến.

* Tình cảm của ông Sáu dành cho con trong chuyến về thăm nhà:

– Cũng như bao người nông dân Việt Nam khác, ông Sáu đi theo tiếng gọi của quê hương để lên đường đi chiến đấu, để lại người vợ và đứa con thân yêu. Sự xa cách càng làm dâng lên trong ông nỗi nhớ nhung tha thiết đứa con gái mà khi ông đi nó chưa đầy một tuổi. Nỗi nhớ ấy đã trở thành niềm khao khát, ước mơ cháy bỏng trong lòng ông.

Chính vì vậy mỗi lần vợ lên thăm là một lần ông hỏi: "Sao không cho con bé lên cùng?". Không được gặp con ông đành ngắm con qua ảnh vậy...Mặc dầu tấm ảnh đó đã rách nát, cũ kĩ lắm rồi, nhưng ông luôn giữ gìn nó vô cùng cẩn thận, coi nó như một báu vật.

– Thế rồi niềm ao ước ấy đã trở thành hiện thực. Ông Sáu được nghỉ phép. Ngày về thăm con, trên xuồng mà ông Sáu cứ nôn nao cả người. Ông Sáu đang nghĩ tới đứa con, nghĩ tới giây phút hai cha con gặp nhau như thế nào. Những điều ấy choáng hết tâm trí khiến ông không còn biết mình đang ngồi trên xuồng với người bạn. Khi xuồng vừa cập bến, ông Sáu đã nhón chân nhảy thót lên bờ. Người bạn đi cùng cũng rất hiểu ông nên không hề trách. Tôi không thể quên được giây phút vô cùng thiêng liêng và trọng đại của ông Sáu, là giây phút người cha mong chờ đứa con sẽ chạy tới ôm xiết lấy mình, là bước trở về sau bao xa cách...

– Người đọc sẽ nhớ mãi hình ảnh một người cha, người cán bộ cách mạng xúc động dang hai tay chờ đón đứa con gái bé bỏng duy nhất của mình ùa vào lòng sau tám năm xa cách. Mong mỏi ngày trở về, nóng lòng được nhìn thấy con, được nghe tiếng gọi thân thương từ con, ông Sáu thực sự bị rơi vào sự hụt hẫng: Anh đứng sững lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy. Mong mỏi bao nhiêu thì đau đớn bấy nhiêu. Ông cũng không ngờ rằng chính bom đạn chiến tranh vừa là nguyên nhân gián tiếp, vừa là nguyên nhân trực tiếp của nỗi đau đớn ấy. Tám năm xa vợ xa con, ở nhà được ba ngày rồi lại lên đường, và ra đi mãi... Ba ngày ông được ở nhà ông chẳng đi đâu xa, để được gần gũi, vỗ về bù đắp những ngày xa con. Lòng người cha ấy đau đớn biết nhường nào khi đứa con là máu mủ của mình gọi mình bằng người ta. Anh quay lại nhìn con vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười. Có lẽ vì khổ tâm đến nỗi không khóc được, nên anh phải cười vậy thôi. Cử chỉ gắp từng miếng trứng cá cho con cho thấy ông Sáu là người sống tình cảm, sẵn sàng dành cho con tất cả những gì tốt đẹp nhất. Và chao ôi là hình ảnh hai đôi mắt của hai cha con trong thời khắc chia xa: Anh nhìn với đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu. Tôi thấy đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao. Người cha ấy sẽ ra đi khi chưa được gọi bằng ba lấy một lần. Đến tận giây phút cuối cùng, khi không còn thời gian để chăm sóc vỗ về nữa, ông mới thực sự được làm cha. Đó là sự thiệt thòi, là sự hi sinh không thể xem là nhỏ của người chiến sĩ cách mạng. Dầu sau này ông Sáu có hi sinh cả tính mạng của mình.

– Có một chi tiết rất đắt giá mà người đọc mãi không thể nào quên trong buổi chia tay. Đó là khi "ông xúc động đến phát khóc" trước tình cảm mãnh liệt của đứa con, trước tiếng "ba" vỡ oà mà bấy lâu nay ông chờ đợi. "Không muốn cho con thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên mái tóc của con". Ai có thể ngờ được một người lính đã dày dạn nơi chiến trường và quen với cái chết cận kề lại là người vô cùng mềm yếu trong tình cảm cha con. Sau bao năm tháng mong chờ, đau khổ, ông Sáu đã được đón nhận một niềm vui vô bờ. Bây giờ, ông có thể ra đi với một yên tâm rằng ở quê nhà có một đứa con gái thân yêu luôn chờ đợi ông, từng giây tưng phút mong ông quay về.

* Tình cảm của ông Sáu dành cho con khi ở khu căn cứ.

– Tình cảm của ông Sáu đối với con còn được nhà văn thể hiện rất cảm động khi ông ở khu căn cứ. Nỗi day dứt, ân hận ám ảnh ông suốt nhiều ngày là việc ông đã đánh con khi nóng giận. Rồi lời dặn của con: "Ba về ba mua cho con một cây lược nghe ba" đã thôi thúc ông nghĩ đến việc làm cho con một cây lược bằng ngà. Làm cây lược trở thành bổn phận của người cha, thành tiếng gọi cầu khẩn của tình yêu thương con. Kiếm được khúc ngà voi, ông Sáu hớn hở như một đứa trẻ được quà và ông dành hết tâm trí, công sức vào việc làm ra cây lược. Hãy nghe đồng đội của ông kể lại:

"Những lúc rỗi, anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc". Phải chăng, bao nhiêu tình yêu thương con ông dồn vào việc làm cây lược ấy? Rồi ông gò lưng tỉ mẩn, khắc từng nét chữ lên sống lưng lược: "Yêu nhớ tặng Thu con của ba". Cây lược ấy, dòng chữ ấy là tình yêu, là nỗi nhớ thương, sự ân hận của ông đối với đứa con gái. Những lúc rỗi cũng như đêm đêm nhớ con ông thường lấy cây lược ra ngắm nghía, rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng, thêm mượt. Làm như vậy, có lẽ ông không muốn con ông bị đau khi chải lược lên tóc. Yêu con, ông Sáu yêu từng sợi tóc của con. Người đọc cảm động trước tấm lòng của người cha ấy. Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ thành một nghệ nhân – nghệ nhân chỉ sáng tạo ra một tác phẩm duy nhất trên đời – Chiếc lược ngà. Cho nên, cây lược ngà đã kết tinh trong nó tình phụ tử mộc mạc, sâu xa mà đơn sơ, giản dị.

– Làm được lược cho con, ông Sáu mong được gặp con, được tận tay chải mái tóc con. Nhưng rồi, một tình cảnh đau thương lại đến với cha con ông Sáu: Trong một trận càn lớn của quân Mỹ ngụy, ông Sáu bị một viên đạn bắn vào ngực. "Trong giờ phút cuối cùng, không còn đủ sức trăng trối lại điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được", tất cả tàn lực cuối cùng chỉ còn cho ông làm một việc "đưa tay vào túi, móc cây lược" đưa cho người bạn chiến đấu. Đó là điều trăng trối không lời nhưng nó thiêng liêng hơn cả những lời di chúc. Nó là sự ủy thác, là ước nguyện cuối cùng, ước nguyện của tình phụ tử.

Chiếc lược ngà như là biểu tượng của tình thương yêu, săn sóc của người cha dành cho con gái, cho dù đến khi không còn nữa ông chưa một lần được chải tóc cho con. Người kể chuyện, đồng đội của ông Sáu đã bộc lộ một sự đồng cảm và xúc động thực sự khi kể lại câu chuyện. Có lẽ, không ai hiểu nhau hơn những người đồng đội, gần nhau hơn những người đồng đội. Cho nên, sau này, khi trao tận tay Thu chiếc lược, giữa thu và người đồng đội của cha mình nảy nở một tình cảm giống như tình cha con.

Có thể nói nhân vật ông Sáu được nhà văn xây dựng bằng những nét nghệ thuật đặc sắc. Nguyễn Quang Sáng đã đặt nhân vật vào cảnh ngộ éo le của đời sống để từ đó ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế đã phát hiện bao cung bậc cảm xúc của tình phụ tử. Hình ảnh ông Sáu – người chiến sĩ Cách mạng, người cha trong truyện Chiếc lược ngà đã để lại bao thổn thức trong lòng người đọc. Ông là hình ảnh tiêu biểu của con người Việt Nam sẵn sàng hi sinh tất cả vì độc lập dân tộc, thống nhất đất nước.

c. Đánh giá vài nét về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm:

– Cảm ơn nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã khắc hoạ rõ nét tâm hồn, tình cảm của ông Sáu và bé Thu. Để khi gấp lại trang sách, người đọc sẽ mãi nhớ những khoảnh khắc éo le mà cũng nhiều xúc động, thiêng liêng của tình cha con sâu sắc. Cái mất mát to lớn nhất mà thiên truyện ngắn đề cập đến là người đã khuất, là tổ ấm gia đình không được tồn tại trọn vẹn trong thực tại. Đó là tội ác, là những đau thương, mất mát của chiến tranh xâm lược mà các thế hệ bạo tàn đã gây ra cho chúng ta. Song cái được mà chúng ta nhìn thấy là không có sự bi lụy xảy ra, sức mạnh của lòng căm thù đã biến cô bé Thu trở thành một người chiến sĩ thông minh, dũng cảm, đã gắn bó cuộc đời con người có ít nhiều mất mát xích lại gần nhau để cùng đứng lên viết tiếp bản ca chiến thắng. Tác phẩm để lại cho chúng ta những suy nghĩ khó quên như thế!

– Chiếc lược ngà cũng là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách sáng tác của nhà văn. Ông đã thực sự thành công trong việc xây dựng cốt truyện chặt chẽ, lựa chọn tình huống bất ngờ mà tự nhiên, hợp lí, miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tinh tế và sâu sắc, nhất là đối với nhân vật bé Thu. Có thể nói rằng, với một tâm hồn nhạy cảm, một trái tim nhân hậu, một tấm lòng chan chứa yêu thương, nhất là đối với trẻ em, Nguyễn Quang Sáng dường như đã cảm nhận đến tận cùng những biểu hiện tình cảm của nhân vật để miêu tả một cách sinh động và tinh tế. Ngoài ra, tác giả cũng rất thành công trong việc lựa chọn ngôi kể và ngôn ngữ lời thoại mang đậm chất địa phương Nam Bộ... đem đến cho người đọc nhiều xúc động. Tất cả đã góp phần tạo nên sức thuyết phục, hấp dẫn cho chủ đề tư tưởng của tác phẩm.

3. Kết bài

Chiếc lược ngà là một câu chuyện cảm động và rất chân thực của Nguyễn Quang Sáng. Câu chuyện về nhân dân yêu nước và anh dũng. Câu chuyện về tình cha con bất tử. Bằng một sự cảm nhận chân thực về tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước trong chiến tranh, ông đã gợi lên niềm tự hào về phẩm giá con người, nét đẹp về tình cảm, về tâm hồn của con người Việt Nam trong thương đau. Thật vậy, trên mảnh đất này, ở mỗi gia đình, mỗi thế hệ, mỗi con người trong những năm tháng đã qua cũng có rất nhiều tình cảm cao đẹp thiết tha khác mà ta cần phải trân trọng, giữ gìn và vun đắp.

--------------------------

Ngoài Cảm nhận truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng, mời các bạn tham khảo thêm Soạn Văn 9 để học tốt môn Văn 9 hơn.

Từ khóa » Tả Bài Văn Chiếc Lược Ngà