Câu Mở đoạn Là Gì
Có thể bạn quan tâm
Đề bài: Cách viết một đoạn văn hay
Nội dung chính Show- 1. Hướng dẫn viết đoạn văn cho học sinh bậc Tiểu học (lớp 2,3,4)
- 2. Hướng dẫn cách viết đoạn văn đối với học sinh bậc THCS (Lớp 7,8,9)
- Đặc điểm của đoạn văn
- Câu chủ đề của đoạn văn
- Cấu trúc của đoạn văn
- Lập luận trong đoạn văn
Mục Lục bài viết:1. Cách viết đoạn văn lớp 2,3,42. Cách viết đoạn văn lớp 7,8,9
Cách viết một đoạn văn hay
Đoạn văn bao gồm nhiều câu văn được liên kết chặt chẽ với nhau cả về hình thức và nội dung nhằm thể hiện đề tài cần trình bày. Tùy theo từng lớp học, cấp học cũng như trình độ mà các em học sinh cần đạt được theo chương trình học mà yêu cầu và phương pháp viết đoạn văn cũng có sự khác nhau:
1. Hướng dẫn viết đoạn văn cho học sinh bậc Tiểu học (lớp 2,3,4)
- Đề bài: Đối với học sinh cấp tiểu học, cụ thể là học sinh lớp 2,3,4, yêu cầu viết đoạn văn tương đối đơn giản, thường yêu cầu các em kể lại một câu chuyện hay tả lại một đồ vật, con vật, cảnh vật nào đó.- Hình thức đoạn văn: Thông thường, với đề viết đoạn văn các em chỉ cần viết từ 3-7 dòng.
- Cấu tạo của đoạn văn: Cũng giống như một bài văn cần có 3 phần: Mở bài, Thân bài và Kết bài, khi viết một đoạn văn, để đảm bảo tính mạch lạc, hấp dẫn các em cũng cần viết theo cấu trúc 3 phần: Mở đoạn, Thân đoạn, Kết đoạn.
- Cách viết đoạn văn:+ Mở đoạn: Các em cần giới thiệu được đối tượng, nội dung cần được nói đến.+ Thân đoạn: Phát triển, làm rõ nội dung được nêu ra trong phần mở đoạn ( Mỗi ý các em có thể diễn đạt bằng 2-3 câu)
+ Kết bài: Tóm tắt lại nội dung bài viết bằng một câu ngắn hoặc trình bày suy nghĩ, tình cảm của mình.
Ví dụ:
Đề bài: Viết đoạn văn ngắn tả cơn mưa
- Mở đoạn:Giới thiệu về cơn mưa: "Cơn mưa mùa hạ bất chợt kéo đến giữa cái nắng oi ả của một chiều tháng 5".
- Thân đoạn:+ Chỉ ra những dấu hiệu của cơn mưa: Những đám mây đen nặng hạt ùn ùn xua đuổi nhau trên bầu trời. Da trời lúc này đây không còn màu xanh lam yên bình nữa mà được thay thế bằng một màu đen kịt đục ngục. Mưa bắt đầu rơi.
+ Khung cảnh xung quanh khi có mưa rơi:
- Những hạt mưa thì nhau rơi xuống, nhảy nhót trên các cung đường của thành phố
- Trên những toà nhà cao tầng, trên những hàng cây xanh của phố thị.
- Dòng người trên đường như vội vã hơn, ai cũng cố chạy thật nhanh để tránh mình ướt sũng.
- Một vài anh chị có ô thông thả đi trên vỉa hè, ngắm nhìn cơn mưa đầy thích thú.
- Trong các quán tạp hoá, những chiếc áo nỉ lông đủ sắc màu được bày bán...
- Kết đoạn:Trình bày cảm xúc của em về cơn mưa: Cơn mưa mùa hạ bất chợt đến, bất chợt đi để lại cho lòng người nhiều cảm xúc khó tả.
>> Xem bài mẫu chi tiết TẠI ĐÂY.
* Những lưu ý khi viết đoạn văn:
Việc đưa vào những đề viết đoạn văn trong chương trình tập làm văn lớp 2,3 không chỉ giúp học sinh rèn luyện kĩ năng viết bài, trình bày vấn đề dựa trên những quan sát, cảm nhận mà cònlàm tiền đề để lớp 4,5 các em có thể viết một bài văn hoàn chỉnh. Khi viết đoạn văn ngắn, các em cần chú ý những điểm sau:- Khi mới tập viết đoạn văn, các em có thể viết theo những câu hỏi gợi ý trong sách giáo khoa và hướng dẫn của giáo viên.- Các câu trong đoạn văn cần phải có sự liên kết cả về nội dung và hình thức. Khi viết các câu thành một đoạn văn các em cần thêm những từ nối để tạo ra sự liên kết về nội dung giữa các câu thay vì chỉ trả lời theo những câu hỏi gợi ý.
- Miêu tả theo trình tự: Từ xa đến gần, từ khái quát đến cụ thể. Quan sát và miêu tả những điểm nổi bật.
2. Hướng dẫn cách viết đoạn văn đối với học sinh bậc THCS (Lớp 7,8,9)
Viết đoạn văn trong chương trình tập làm văn của học sinh THCS yêu cầu cao hơn cả về nội dung và hình thức. Để đạt điểm cao khi viết đoạn văn, các em có thể áp dụng những bước sau:
- Bước 1: Xác định yêu cầu đề bài
Để tránh tình trạng viết lan man, không đúng trọng tâm đề bài, thao tác quan trọng đầu tiên các em cần làm là đọc kĩ đề bài để xác định: đối tượng cần viết? Dung lượng bài viết (Khoảng bao nhiêu chữ).
Ví dụ: Viết một đoạn văn cảm nhận về nhân vật Phương Định
Đọc yêu cầu của đề bài, ta có thể xác định được đối tượng cần viết đoạn văn cảm nhận là nhân vật Phương Định trong Những ngôi sao xa xôi.
--> Từ đó ta có thể tìm ra một số ý chính cho đoạn văn:+ Phương Định là một cô gái trẻ trung, yêu đời+ Phương Định là một người chiến sĩ đầy trách nhiệm
+ Phương Định là một người sống tình cảm
>> Xem đoạn văn mẫu TẠI ĐÂY.
- Bước 2: Viết đoạn văn theo yêu cầu của đề
Sau khi đã xác định được yêu cầu đề bài và gạch ra được những ý chính cho bài viết, các em có thể bắt tay vào quá trình viết bài.- Hình thức đoạn văn: Các em có thể lựa chọn một trong những hình thức: Quy nạp, Diễn dịch, Móc xích, Tổng-Phân-Hợp tùy theo mong muốn và ý tưởng cho bài viết của các em.- Cấu trúc đoạn văn: Cần đảm bảo 3 phần: Mở đoạn, Thân đoạn và Kết đoạn.+ Phần mở đoạn (Mở đầu): Giới thiệu về đối tượng cần trình bày cảm nhận/suy nghĩ.+ Phần thân đoạn: Triển khai nội dung bài viết. Các em có thể dựa vào những ý chính vừa xác định để triển khai, phát triển ý cho đoạn văn, cần đảm bảo tính liên kết, logic giữa các câu.
+ Phần kết đoạn: Kết đoạn có nhiệm vụ kết thúc vấn đề. Các em có thể viết câu ngắn để khái quát nội dung vừa trình bày hoặc thể hiện cảm xúc cá nhân, mở rộng vấn đề để tạo sự thu hút với người đọc.
- Dung lượng bài viết: Thông thường, trong đề bài thường yêu cầu về dung lượng.
Ví dụ: Đoạn văn nghị luận 200 chữ liên quan tới dịch Covid-19
>> Xem bài mẫu chi tiết TẠI ĐÂY.
Khi viết đoạn văn các em cần đảm bảo yêu cầu của đề bài, tuy nhiên các em có thể viết dài hoặc ngắn hơn so với yêu cầu đề bài bởi đoạn văn đủ ý, nội dung sâu sắc thì dù các em có viết quá số chữ quy định thì bài viết của các em vẫn được điểm cao.
Để làm tốt tất cả các dạng đề bài trong Tập làm văn, bên cạnh bài Cách viết một đoạn văn hay, các em có thể tham khảo thêm phương pháp làm bài đối với nhiều dạng đề khác như: Cách viết một bài văn miêu tả hay, Cách viết bài văn nghị luận xã hội, Cách viết bài cảm nhận về một tác phẩm thơ, văn, Cách làm bài văn thuyết minh hay.
Cách viết một đoạn văn như thế nào? Làm thế nào để viết một đoạn văn đúng về hình thức, hấp dẫn về nội dung. Để giải đáp cho những câu hỏi này, các em hãy cùng tham khảo bài Hướng dẫn cách viết một đoạn văn cho học sinh tiểu học, THCS dưới đây nhé.
Hãy viết một đoạn văn theo câu mở đoạn mẫu Soạn bài Luyện tập viết đoạn văn nghị luận, soạn văn lớp 10 Viết một đoạn văn ngắn kể về cô giáo hoặc thầy giáo cũ của em Viết một đoạn văn ngắn tả về bà ngoại Viết một đoạn văn tả lá, thân hay gốc của một cây mà em yêu thích Viết một đoạn văn ngắn tả về anh, chị hay em của em
Chọn câu phù hợp nhất với chủ đề của văn bản Cây tre Việt Nam.
Đọc kĩ văn bản cây tre Việt Nam và trả lời các câu hỏi sau:
Đọc kĩ đoạn kết của văn bản và cho biết:
Nhận xét về ngôn ngữ của vân bản theo những gợi ý sau.
Đọc các đoạn thơ sau và trả lời câu hỏi:
Những câu mở đầu sau đây có tác dụng gì?
(Last Updated On: 13/09/2021)
Hiện nay, đoạn văn còn có nhiều cách hiểu khác nhau, nhưng hợp lí hơn cả là nên coi đoạn văn vừa là sự phân đoạn nội dung, vừa là sự phân đoạn hình thức. Theo đó, khái niệm đoạn văn được hiểu là một tập hợp câu có quan hệ chặt chẽ với nhau, diễn đạt một nội dung nhất định, được phân đoạn trong văn bản bằng chỗ lùi đầu dòng, viết hoa và kết thúc bằng dấu chấm ngắt đoạn.
Đặc điểm của đoạn văn
a. Về nội dung
Là đơn vị cơ sở của văn bản, là chỉnh thể trên câu nên đoạn văn diễn đạt một nội dung nhất định. Cố nhiên, về mặt nội dung, đoạn văn có thể hoàn chỉnh ở một mức độ nào đó (thể hiện lôgic – ngữ nghĩa), hoặc có thể không hoàn chỉnh (thể hiện biểu cảm – thẩm mĩ). Sự không hoàn chỉnh về nội dung của đoạn văn là do thể loại văn bản hoặc ý đồ của người viết chi phối chứ không phải tùy tiện hoặc vô ý thức. Chính đặc điểm không hoàn chỉnh này cho phép chúng ta phân biệt đoạn văn với văn bản. Chỉ có văn bản mới có nội dung hoàn chỉnh, trọn vẹn, còn các đơn vị bậc dưới văn bản (trong đó có đoạn văn) không nhất thiết phải hoàn chỉnh. Khi đoạn văn biểu hiện một nội dung tương đối hoàn chỉnh thì nó sẽ có những đặc điểm kết cấu đồng dạng ở mức cao nhất với văn bản và được gọi là đoạn ý, có giá trị kết cấu. Chẳng hạn, xét đoạn văn sau:
Hoàng Tuệ là một trí thức có bản lĩnh. Tư tưởng của ông không gò bó. Ông đọc nhiều, tiếp thu nhiều, nhạy cảm với cái mới, nhưng có sự độc lập suy nghĩ, tự mình suy nghĩ, suy ngẫm. Lối tư duy giáo điều, xơ cứng xa lạ với Hoàng Tuệ. Cũng xa lạ với Hoàng Tuệ cái thói quen nghĩ theo, nói dựa; ông thường có nhận định, ý kiến riêng của mình, thẳng thắn phát biểu một cách có trách nhiệm, và không chỉ trong khoa học. Những ý kiến đó lắm khi độc đáo, và không ít khi ngang tàng. Chính vì vậy mà nhiều người thích ông, nhưng cũng có người không hiểu hết ông.
Đoạn văn trên có 6 câu; các câu trong đoạn đều tập trung làm sáng tỏ nội dung: Hoàng Tuệ là một trí thức có bản lĩnh.
Trường hợp đoạn văn không có sự hoàn chỉnh (ở một mức độ nào đó) về nội dung thì được gọi là đoạn diễn đạt, chỉ có chức năng biểu cảm. Chẳng hạn, xét hai đoạn văn dưới đây:
(1) Nói phải có đầu, có đuôi, có nội dung. Chớ nói lung tung như nhiều cán bộ ở các cuộc hội nghị, mít tinh nói rồi không biết đường nào mà đi nữa. Nói ít nhưng thấm thía thì quần chúng vẫn thích hơn.
(2) Muốn nói gì phải chuẩn bị trước (Hồ Chí Minh).
Từng đoạn trên chưa hoàn chỉnh về nội dung, bởi đoạn (2) chỉ có một câu (vốn là câu tiếp theo của đoạn 1) được tách ra để nhấn mạnh. Hai đoạn này mới thể hiện nội dung tương đối hoàn chỉnh (lời khuyên của Hồ Chí Minh về cách nói, cách viết).
b. Về hình thức
Mỗi đoạn văn đều có một cấu trúc nhất định và được nhận diện về hình thức:
– Mở đầu bằng chữ lùi đầu dòng, viết hoa.
– Kết thúc bằng dấu chấm ngắt đoạn, xuống dòng.
– Là phần nằm giữa hai khoảng trống trong văn bản.
Ở dạng nói, việc nhận diện đoạn văn (còn gọi đoạn lời) khó khăn hơn. Tuy vậy, dựa vào ngữ điệu, chỗ ngừng và vài từ ngữ đánh dấu như mặt khác, tiếp theo, thứ nhất, thứ hai, v.v. ta có thể nhận diện được đoạn lời.
c. Về cấu tạo
Cấu tạo đoạn văn khá đa dạng. Nếu căn cứ vào số lượng câu trong đoạn văn thì có thể chia đoạn văn làm hai loại: đoạn bình thường (gồm có nhiều câu) và đoạn đặc biệt (chỉ có một câu). Nếu dựa vào câu chủ đề, đoạn văn cũng chia làm hai loại: đoạn văn có câu chủ đề (gồm đoạn diễn dịch, đoạn quy nạp, đoạn kết hợp diễn dịch và quy nạp) và đoạn văn không có câu chủ đề (gồm đoạn song hành, đoạn móc xích). Nếu dựa vào cách thức lập luận, đoạn văn chia thành năm loại: đoạn diễn dịch, đoạn quy nạp, đoạn kết hợp diễn dịch và quy nạp, đoạn song hành và đoạn móc xích. Chẳng hạn, cho đoạn văn:
Nghệ thuật thơ trong “Nhật kí trong tù” thật là phong phú. Có bài là lời phát biểu trực tiếp, đọc hiểu ngay. Có bài lại dùng lối ngụ ngôn rất thâm thúy. Có bài tự sự. Có bài trữ tình hay vừa tự sự vừa trữ tình. Lại có bài châm biếm.
Đoạn văn trên, là đoạn văn bình thường, nếu căn cứ vào số lượng câu; là đoạn văn có câu chủ đề, nếu dựa vào câu chủ đề; là đoạn diễn dịch, khi ta nhìn từ cách thức lập luận.
Câu chủ đề của đoạn văn
a. Khái niệm câu chủ đề
Câu chủ đề là câu mang nội dung khái quát, thể hiện ý chính (chủ đề) của đoạn văn; bao giờ cũng là câu đầy đủ thành phần và thường tương đối ngắn gọn.
Ví dụ: Dạy văn chương ở phổ thông có nhiều mục đích (1). Trước hết, nó tạo điều kiện cho học sinh tiếp xúc với một loại sản phẩm đặc biệt của con người, kết quả của một thứ lao động đặc thù – lao động nghệ thuật (2). Đồng thời, dạy văn chương chính là hình thức quan trọng giúp các em hiểu biết, nắm vững và sử dụng tiếng mẹ đẻ cho đúng cho hay (3). Dạy văn chương cũng là một trong những con đường của giáo dục thẩm mĩ (4). (Lê Ngọc Trà)
Trong đoạn văn trên, câu (1): Dạy văn chương ở phổ thông có nhiều mục đích là câu chủ đề của đoạn văn.
b. Cách viết câu chủ đề
Câu chủ đề thường là một câu, có độ dài không lớn so với các câu khác trong đoạn văn. Về vị trí, câu chủ đề có thể đứng đầu đoạn văn, có thể đứng cuối đoạn văn. Câu chủ đề cũng có thể gồm hai câu trở lên, gọi là câu chủ đề ghép. Câu chủ đề ghép có thể ghép liền (các câu đứng cạnh nhau), có thể ghép dãn cách (đầu đoạn – cuối đoạn). Chẳng hạn, xét hai đoạn văn dưới đây:
Ví dụ 1. Vấn đề trong sáng là khá phức tạp (1). Quan niệm về sự trong sáng cũng như quan niệm về dân tộc, không phải là một cái gì tuyệt đối cố định (2). Có sự trong sáng quay lại sau, lấy cha ông làm mẫu mực tuyệt đối, nhưng cũng có sự trong sáng nhìn ra trước, mở đường đi cho con cháu mai sau (3). Có sự trong sáng dân tộc hẹp hòi, chỉ biết say mê ngắm nhìn dân tộc mình, nhưng có sự trong sáng đặt dân tộc mình là một bộ phận của nhân loại (4). Có sự trong sáng động và trong sáng tĩnh, trong sáng giàu và trong sáng nghèo (5). (Chế Lan Viên)
Ví dụ 2. Tiếng cười trong truyện tiếu lâm Việt Nam mang rất nhiều cung bậc khác nhau (1). Tiếng cười ở mảng truyện về người nông dân chủ yếu để giải thoát buồn phiền, mệt nhọc nên cung bậc cười thật vô tư, thoải mái (2). Ở mảng truyện về tầng lớp tiểu thương, trí thức rởm như thầy đồ, thầy lang, thầy cúng, thầy bói,… lại là tiếng cười chế diễu, đả kích (3). Còn ở mảng truyện về bọn cường hào, quan lại, tiếng cười trở nên quyết liệt, mạnh mẽ, không khoan nhượng (4). Phải nói là các cung bậc cười trong truyện tiếu lâm thật phong phú, đa dạng, tiếng cười vừa để giáo dục con người, vừa để cười cho sảng khoái, để tồn tại, để phấn đấu cho cuộc đời tốt đẹp hơn (5).
Ở ví dụ 1, các câu (1) và (2) là câu chủ đề (đoạn diễn dịch), còn ở ví dụ 2, câu chủ đề là câu (1) và (5), (đoạn kết hợp diễn dịch với quy nạp). Câu chủ đề trong hai đoạn văn trên là câu chủ đề ghép nhưng cách ghép khác nhau: các câu đứng cạnh nhau (ví dụ 1), các câu dãn cách (ví dụ 2).
Cấu trúc của đoạn văn
a. Cấu trúc nội dung
Thông thường, đoạn văn có sự hoàn chỉnh nhất định nào đó về nội dung, nghĩa là có cấu trúc nội dung. Cấu trúc nội dung là quan hệ của tất cả các thành tố nội dung trong đoạn văn, bao gồm:
– Ý chính của đoạn văn, tức là ý bao trùm, toát ra từ tất cả các câu trong đoạn. Ý chính được gọi là chủ đề của đoạn văn. Nó được thể hiện dưới hai hình thức: 1/ Hàm chứa trong một câu, hoặc hơn một câu (câu chủ đề); 2/ Ẩn vào trong tất cả các câu của đoạn văn, (nghĩa là, ý chính không được hiển ngôn mà phải khái quát ý nghĩa bộ phận của các câu trong đoạn).
– Các ý bộ phận, tức là các thành tố nội dung chi tiết, có nhiệm vụ triển khai (giải thích, chứng minh) ý chính. Các ý bộ phận bị chi phối bởi ý chính. Do đó, các ý bộ phận phải được xác lập và trình bày đầy đủ, mạch lạc, lôgíc.
b. Cấu trúc hình thức
– Về bố cục, đoạn văn ở dạng lí tưởng có ba phần: phần mở đoạn (M), phần triển khai đoạn (a), phần kết đoạn (K). Trong ba phần, phần (a) luôn luôn có mặt (dù là đoạn tối giản), còn phần (M) và (K) có thể vắng mặt.
– Về ngôn ngữ, dùng các đơn vị ngôn ngữ (từ, câu) và các phương tiện liên kết để tường minh nội dung đoạn văn. Chẳng hạn, xét hai đoạn văn sau đây:
Ví dụ 1. Ngoài ánh sáng của một tâm hồn lớn, “Nhật kí trong tù” còn tỏa ánh sáng của một trí tuệ lớn (1). Đó là ánh sáng của thế giới quan, nhân sinh quan Mác-Lênin, là ánh sáng của những kinh nghiệm đấu tranh cách mạng của một lãnh tụ vĩ đại (2). “Học đánh cờ” là tư tưởng chỉ đạo chiến lược, chiến thuật quân sự được hình tượng hóa thành thơ (3). “Cảm tưởng đọc Thiên gia thi” là tuyên ngôn bằng thơ của thơ ca cách mạng và nhà thơ cách mạng (4). “Cột cây số”, “Nghe tiếng giã gạo”… là những bài học lớn về đạo đức cách mạng (5). Thơ “Nhật kí trong tù” bài nào cũng lấp lánh áng sáng của trí tuệ lớn (6).
Ví dụ 2. Ca dao là bầu sữa tinh thần nuôi dưỡng tuổi thơ (1). Ca dao là hình thức trò chuyện tâm tình của những chàng trai, cô gái đang yêu (2). Ca dao là tiếng nói biết ơn, tự hào về công đức tổ tiên và anh linh của những người đã khuất (3). Ca dao là phương tiện bộc lộ nỗi tức giận hoặc lòng hân hoan của những người sản xuất (4).
Ta thấy, đoạn văn ở ví dụ 1 có đầy đủ ba phần: câu (1) là phần mở đoạn (M), các câu (2), (3), (4), (5) là phần triển khai đoạn (a), còn câu (6) là phần kết đoạn (K). Ý chính của đoạn văn được thể hiện ở câu (1) và (6), ý trong các câu (2), (3), (4), (5) là các ý bộ phận. Còn đoạn văn ở ví dụ 2 chỉ có phần triển khai đoạn (a), không có phần mở đoạn (M) và kết đoạn (K). Ý chính của đoạn văn ẩn vào ý bộ phận trong các câu (1), (2), (3), (4).
Lập luận trong đoạn văn
Lập luận là xác lập một số lí lẽ và dẫn chứng nhằm hướng đến một kết luận, một ý kiến hay một nhận định nào đó. Mỗi đoạn văn thường thể hiện một cách lập luận nhất định. Lập luận bằng cách nào là tùy thuộc vào nội dung và chiến lược giao tiếp của người viết/ người nói.
Các kiểu lập luận thường gặp trong đoạn văn:
a. Diễn dịch
Diễn dịch là kiểu lập luận đi từ cái khái quát (cái chung) đến cái cụ thể (cái riêng). Kiểu lập luận này, câu đầu tiên trong đoạn văn là câu chủ đề (kết luận), còn các câu tiếp sau có nhiệm vụ triển khai, làm sáng tỏ chủ đề (các luận cứ).
Ví dụ: Giữa cơ thể và môi trường có ảnh hưởng qua lại với nhau. Môi trường có ảnh hưởng đến mọi đặc tính của cơ thể. Chỉ cần so sánh những loại lá cây mọc trong những môi trường khác nhau là thấy rõ điều đó. Để thực hiện những nhiệm vụ thứ yếu hoặc do ảnh hưởng của môi trường, lá mọc trong không khí có thể biến thành tua cuốn như đậu hà lan, hay tua móc gai bám vào trụ leo như ở cây mây. Ở những miền khô ráo, lá có thể biến gai giảm bớt sự thoát hơi nước như ở cây xương rồng, hay dầy lên và chứa nhiều nước như ở cây lá bỏng.
b. Quy nạp
Quy nạp là kiểu lập luận bắt đầu bằng cái cụ thể, riêng lẻ đến cái khái quát, cái chung. Ở kiểu lập luận này, câu kết thúc là câu chủ đề, nó thâu tóm những câu mang thông tin cụ thể đứng ở phía trước.
Ví dụ: Quan lại vì tiền mà bất chấp công lí. Sai nha vì tiền mà tra tấn cha con Vương Ông. Tú bà, Mã Giám Sinh, Bạc Bà, Bạc Hạnh vì tiền mà làm nghề buôn thịt bán người. Sở Khanh vì tiền mà táng tận lương tâm. Khuyển Ưng vì tiền mà lao vào tội ác. Cả một xã hội chạy theo đồng tiền.
c. Kết hợp diễn dịch với quy nạp
Kiểu lập luận này có sự phối hợp giữa diễn dịch và quy nạp: câu đầu nêu nội dung khái quát, các câu tiếp theo là những thông tin cụ thể, chi tiết (lí lẽ, dẫn chứng) vừa làm sáng tỏ nội dung khái quát (ở câu đầu), vừa chuẩn bị cho một nội dung khái quát ở câu cuối nhưng mức độ cao hơn. Câu cuối đoạn khái quát hóa, đúc kết lại những nội dung đã trình bày trong những câu đứng trước.
Ví dụ: Nghệ thuật và tuyên truyền không phải hoàn toàn khác nhau, nhưng cũng không hoàn toàn giống nhau. Tuyên truyền cũng là một thứ nghệ thuật. Nghệ thuật tuyên truyền là một phần trong nghệ thuật nói chung. Và bất cứ tác phẩm nghệ thuật nào cũng có ít nhiều tính tuyên truyền nhưng nói như thế không phải có thể kết luận rằng nghệ thuật và tuyên truyền chỉ là một. Tuyên truyền cao đến một mức nào đó thì tuyên truyền trở thành nghệ thuật. Nghệ thuật thiết thực đến một mức nào đó thì nghệ thuật có tính rõ rệt là tuyên truyền. Cho nên, có thể có những người tuyên truyền không phải hoặc chưa phải là nghệ sĩ nhưng không thể có những nghệ sĩ hoàn toàn không phải là người tuyên truyền. (Trường Chinh)
Trên đây là ba cách lập luận thường gặp. Ngoài ra, trong đoạn văn, chúng ta có thể sử dụng một số kiểu lập luận khác như song hành, móc xích, so sánh, nhân quả, v.v..
(Nguồn tham khảo: Nguyễn Hoài Nguyên, Giáo trình thực hành văn bản tiếng Việt)
Từ khóa » Câu Kết đoạn Là Gì
-
Câu Mở đoạn Và Câu Kết đoạn Là Gì - Tuấn Huy - HOC247
-
Liên Kết Câu Và Liên Kết đoạn Văn Là Gì ? Ví Dụ ? Bài Tập Luyện Tập ?
-
Liên Kết Câu Và Liên Kết đoạn Văn
-
Liên Kết Câu Và Liên Kết đoạn Văn Là Gì? - Luật Hoàng Phi
-
Liên Kết Câu Và Liên Kết đoạn Văn Là Gì? Bài Tập Ví Dụ Minh Họa
-
Liên Kết Câu Và Liên Kết đoạn Văn
-
Liên Kết Câu Và Liên Kết đoạn Văn , Trắc Nghiệm Ngữ Văn Lớp 9
-
Nội Dung Của Câu Kết đoạn Là Gì
-
Cách Liên Kết đoạn Văn Trong Văn Bản - Thư Viện Khoa Học
-
Liên Kết Câu Và Liên Kết đoạn Văn Là Gì? - Nội Thất Hằng Phát
-
Liên Kết Câu Và Liên Kết đoạn Văn –Tiếng Việt Lớp 9
-
Soạn Bài Liên Kết Câu Và Liên Kết đoạn Văn
-
Liên Kết Câu Và Liên Kết đoạn Văn Là Gì?
-
Cách Sử Dụng Liên Kết Câu Và Liên Kết đoạn Văn?