Cây Cau

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Còn gọi là binh lang, tân lang.

Tên khoa học Areca catechu L.

Thuộc họ Cau (Palmae). Họ Cau hiện có tên khoa học là Arecaceae.

Người ta dùng hạt cau hay binh lang, tân lang (Semen Arecae) là hạt phơi khô của cây cau.

(Tân = khách, tần = chàng. Khi có khách đem trầu cau ra mời cho nên gọi là tân lang).

(Có dộc - dùng phải cẩn thận).

Mô tả cây

Cây cau

Cây cau

Cây cau là một cây có thân mọc thẳng cao chừng 15-20m, đường kính 10-15cm. Toàn thân không có lá mà có nhiều vết lá cũ mọc, chỉ ở ngọn có một chùm lá to rộng xẻ lông chìm. Lá có bẹ to. Mo ở bông mo sớm rụng. Trong cụm hoa hoa đực ở trên, hoa cái ở dưới. Hoa đực nhỏ màu trắng, thơm gồm 3 lá đài màu lục, 3 cánh hoa trắng, 6 nhị. Hoa cái to, bao hoa không phân hóa. Noãn sào thượng 3 ô. Quả hạch hình trứng to bằng quả trứng gà. Quả bì có sợi, hạt có nội nhũ xếp cuốn. Hạt hơi hình nón cụt, đầu tròn giữa đáy hơi lõm, màu nâu nhạt, vị chát.

Phân bố, trồng hái

Được trồng ở khắp nơi ở Việt Nam để lấy quả ăn trầu và xuất cảng.

Trồng bằng quả thường sau 5-6 năm mới thu hoạch.

Người ta phân biệt cau rừng (sơn binh lang) và cau nhà (gia binh lang). Cau rừng hạt nhỏ, nhọn và chắc hơn. Loại sơn bính lang có nhiều ở Nghệ Tĩnh và Thanh Hóa.

Trước đây (vào năm 1930) diện tích trồng cau ước lượng chừng 2500 hecta ở miền Bắc Việt Nam chủ yếu là Hải Hưng, sau đến Kiến An, Quảng Ninh và cuối cùng đến Nam Hà, Thái Bình. Tại miển trung, diện tích trồng trước đây ước chừng 1.400 hecta. Tại miền Nam Việt Nam, nhân dân cung trồng nhiều ở My Tho, Bến Tre, Rạch Giá, Cần Thơ v.v...

Thành phần hóa học

Trong hạt có tanin. Tỷ lệ tanin trong hạt non chừng 70% nhưng khi chín chỉ còn 15-20%.

Ngoài ra còn chất mỡ (14%) với thành phần chủ yếu gồm: myristin 1/5, olein 1/4, laurin 1/2, các chất đường: sacaroza, mannan, galactan 2% và muối vô cơ.

Hoạt chất chính là 4 ancaloìt: Arecolin, arecaidin, guvaxin, và guvacolin,, Arecolin (hay CH3 arecaidin) chiếm chừng 0,1- 5,0%.

Tác dụng dược lý

Tác dụng của arecolin gần giống các chất petetìerin, pilocacpin và muscarin.

Arecolin gây chảy nước bọt rất nhiều. Nó còn làm tàng bài tiết dịch vị, dịch tràng và làm co nhỏ đồng tử.

Dung dịch 1% arecolin bromhydrat làm co nhỏ đồng tử sau khi nhỏ từ 3 đến 5 phút. Sự co nhỏ đồng tử kéo dài từ nửa giờ đến 2 giờ. Có thể dùng làm giảm áp nhãn trong bệnh glocom.

Areclin còn làm tim đập chậm trừ khí có mặt của canxi, tăng nhu động ruột, liều nhỏ kích thích thần kình, liều lớn gây liệt thần kinh.

Dung dịch hạt cau có tác dụng độc đối với thần kinh của sán, làm cho tê bại các cơ trơn của sán, 20 phút sau khi thuốc vào tới một, con sán bị tê liệt và không bám vào thành một được nữa.

Công dụng và liều dùng

Hạt cau thường được dùng làm thuốc chữa giun sán cho súc vật như chó với liều 4g. Nếu dùng arecolin bromhydrat người ta dùng liều 0,5- 1mg.

Dùng chữa sán cho ngưcri: phối hợp với hạt bí ngô (xem vị hạt bí ngố).

Làm thuóc giúp sự tiêu hóa, chữa viêm ruột, lỵ. Dùng hạt cau khô, mõi ngày 0,5 đến 4g.

Chữa trẻ con chốc đầu: Mài hạt cau thành bột phơi khô hòa với dầu mà bôi. cần theo dõi vì có độc

Nhân dân còn dùng hạt cau phối hợp với thường sơn, thảo quả chữa sốt rét trong đơn thuốc “Thường sơn triệt ngược”.

Từ khóa » Hình ảnh Hạt Cau Phơi