Chỉ Số Về Mức độ Chênh Lệch Giàu Nghèo (hệ Số GINI) Thành Phố ...
Có thể bạn quan tâm
- HOẠT ĐỘNG TRONG NGÀNH
- Tin tức - sự kiện
- Thống kê tập trung
- Thống kê Bộ, ngành
- KINH TẾ - XÃ HỘI
- Thời sự - Chính trị
- Kinh tế
- Văn hóa - Xã hội - Môi trường
- TƯ LIỆU ĐỊA PHƯƠNG
- Số liệu thống kê
- Kinh tế - Xã hội
- Chuyên đề cơ sở
- NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
- SÁCH HAY THỐNG KÊ
- QUỐC TẾ
- Thống kê nước ngoài
- Hội nhập quốc tế
- LIÊN HỆ
- THƯ VIỆN
- Thư viện ảnh
- Thư viện video
- Thư viện tài liệu
- GIỚI THIỆU
Thực trạng bất bình đẳng thu nhập của thành phố Hải Phòng
Hệ số bất bình đẳng trong phân phối thu nhập (hệ số GINI) của cả nước biến động không nhiều, giảm từ 0,430 năm 2016 xuống 0,375 năm 2020; Vùng Đồng bằng sông Hồng giảm từ 0,407 xuống 0,375 nằm trong ngưỡng an toàn và hiệu quả, phù hợp với mục tiêu tăng trưởng cao. Qua bảng số liệu hệ số GINI giai đoạn 2016-2020 cho thấy, bất bình đẳng thu nhập của Hải Phòng có sự thay đổi lớn giảm từ 0,398 năm 2016 xuống 0,268 năm 2020, cho thấy người dân của thành phố Hải Phòng bình đẳng và dễ dàng hơn trong việc tiếp cận các cơ hội phát triển về trình độ học vấn, kỹ năng làm việc thông qua giáo dục. Hệ số GINI năm 2020 cả nước, vùng đồng bằng Sông Hồng và thành phố Hải Phòng tương ứng: 0,375, 0,327 và 0,268. Như vậy, bất bình đẳng về thu nhập của người dân Hải Phòng luôn luôn thấp hơn cả nước và Vùng Đồng bằng Sông Hồng. Các vùng miền, tỉnh/thành phố có sự khác nhau về điều kiện tự nhiên, trình độ văn hóa, trình độ sản xuất, kết cấu hạ tầng và trình độ dân trí, lợi thế so sánh…, Những đặc điểm đó dẫn đến sự phát triển của các vùng miền, tỉnh/thành phố có sự khác biệt làm cho sự chênh lệch về thu nhập cũng như bất bình đẳng giữa các nhóm dân cư cũng có sự khác nhau rõ rệt. Hệ số GINI của cả nước, vùng đồng bằng Sông Hồng và của thành phố Hải Phòng có xu hướng giảm dần qua các năm, khoảng cách bất bình đẳng ngày càng được thu hẹp. Vùng Đồng bằng sông Hồng và thành phố Hải Phòng hệ số GINI có tốc độ giảm mạnh và thấp hơn so với cả nước và các tỉnh/thành khác.Từ biểu đồ 1 cho thấy hệ số GINI tại các vùng kinh tế có những biến động tăng giảm ở các năm khác nhau, nhưng đều có xu hướng giảm dần. So cả nước và các khu vực khác, hệ số GINI của thành phố Hải Phòng có tốc độ giảm mạnh nhất so với khu vực, khoảng cách về bất bình đẳng thu nhập của thành phố Hải Phòng ngày càng được thu hẹp. Điều đó cho thấy, trong những năm qua, tăng trưởng kinh tế của Hải Phòng có bước tiến vượt bậc, công tác an sinh xã hội được đẩy mạnh, người dân được hưởng thụ mức cao hơn bình quân chung của cả nước.
Xem xét trên mức thu nhập của các nhóm: Mức độ bất bình đẳng thu nhập còn được thể hiện ở chênh lệch giữa thu nhập của nhóm 1 và nhóm 5. Thu nhập 20% của nhóm người có thu nhập thấp nhất và 20% của nhóm người có thu nhập cao nhất đều tăng trong giai đoạn 2016-2020.
Từ bảng 2 cho thấy, thu nhập bình quân đầu người/tháng tăng qua các năm, trong đó thu nhập bình quân đầu người/tháng năm 2020 cao gấp gần 1,2 lần so với năm 2016, tuy nhiên lại giảm 6,7% so với năm 2019. Thu nhập bình quân đầu người nhóm thu nhập thấp nhất của người dân Hải Phòng năm 2019 là 2.404 nghìn đồng, tăng bình quân 1,6% giai đoạn 2016-2019; nhóm thu nhập cao nhất năm 2019 là 12.152 nghìn đồng, tăng bình quân 4,0%. Tốc độ tăng trưởng về thu nhập của nhóm thu nhập thấp chậm hơn nhóm thu nhập cao, làm cho khoảng cách giàu nghèo càng tăng trong giai đoạn 2016-2019. Năm 2016 thu nhập của nhóm cao nhất gấp 7,8 lần nhóm thu nhập thấp, đến năm 2019 đã gấp 8,4 lần. Tuy nhiên, đến năm 2020, do tác động tiêu cực của dịch bệnh Covid-19 và hiệu quả của các chính sách an sinh xã hội tới các đối tượng là người nghèo, gia đình chính sách nên nhóm thu nhập thấp tăng 13,9% trong giai đoạn 2016-2020, nhưng ở nhóm thu nhập cao nhất lại giảm -3,4%, điều này đã kéo theo sự chênh lệch thu nhập giữa 2 nhóm nghèo nhất và giàu nhất chỉ còn 3,9 lần, cho thấy khoảng cách thu nhập giữa các nhóm ngày càng gần, bất bình đẳng thu nhập giai đoạn này có xu hướng giảm. So sánh thu nhập năm 2020 và năm 2016 cho thấy, nhóm 1 có mức tăng nhanh nhất so với các nhóm còn lại. Tốc độ tăng ở nhóm 1 cao hơn ở nhóm 5 (tương ứng 1,74 lần nhóm 1 và 0,87 lần ở nhóm 5) đã khiến cho khoảng cách thu nhập của người dân của Hải Phòng ngày càng được thu hẹp. Tuy nhiên nếu so sánh chênh lệch số tuyệt đối về thu nhập giữa những người giàu nhất và những người nghèo nhất cũng đang là một thách thức của mục tiêu phát triển theo hướng đảm bảo công bằng xã hội.Tỷ lệ nghèo
Số liệu bảng 3 cho thấy, tỷ lệ hộ nghèo của thành phố Hải Phòng giảm nhanh qua các năm. Năm 2016 toàn thành phố có 2,81% số hộ nghèo, tương ứng với 15.525 hộ, đến năm 2020 giảm xuống còn 0,2% hộ nghèo, tương ứng 1.268 hộ. Khu vực thành thị có tỷ lệ nghèo giảm nhiều hơn khu vực nông thôn, chúng tỏ bất bình đẳng thu nhập giữa khu vực nông thôn và thành thị là khá lớn.Ảnh hưởng của dịch bệnh đến cơ hội việc làm của người lao động hiện nay
Năm 2020 đại dịch Covid -19 đã tác động đến kinh tế toàn cầu cũng như kinh tế Việt Nam, trong bối cảnh đó, kinh tế Thành phố vẫn duy trì ổn định và phát triển, được đánh giá là điểm sáng trong phát triển kinh tế -xã hội của cả nước. Tuy nhiên, không nằm ngoài ảnh hưởng chung, đại dịch cũng đã ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động SXKD của các doanh nghiệp (DN) trên địa bàn thành phố, nhiều ngành, lĩnh vực đã phải thu hẹp sản xuất, cắt giảm lao động, có mức tăng trưởng âm so cùng kỳ. Để ứng phó với tác động của dịch Covid-19, DN đã phải áp dụng nhiều giải pháp như: Điều chỉnh nguồn nhân lực, cắt giảm chi phí hoạt động SXKD, thay đổi phương thức cũng như chiến lược SXKD... những giải pháp này phần nào tác động tích cực đến hoạt động SXKD của doanh nghiệp. Tuy nhiên, những khó khăn về thị trường, nguồn thu, dòng tiền đã khiến nhiều DN buộc phải sử dụng các biện pháp cắt giảm tiền lương và lao động… đây là những giải pháp tiêu cực nhưng DN buộc phải áp dụng để duy trì sự tồn tại trong thời kỳ dịch bệnh này, nhiều DN đã phải áp dụng các giải pháp tạm thời như cắt giảm lao động, cho lao động nghỉ việc không lương, giãn việc/nghỉ luân phiên, giảm lương lao động, thu hẹp quy mô SXKD hoặc tạm ngừng hoạt động. Do tác động của dịch Covid-19, trong năm 2020 có tới 74,4% số DN phải áp dụng các giải pháp liên quan đến lao động. Giải pháp cho lao động giãn việc/nghỉ luân phiên có 41% DN lựa chọn, cao nhất trong các giải pháp về lao động; có 25,37% DN áp dụng giải pháp cắt giảm lao động; 22,18% DN cho lao động nghỉ không lương và 21,03% DN giảm lương lao động. Theo quy mô, DN có quy mô nhỏ và vừa có tỷ lệ áp dụng các giải pháp về lao động nhiều nhất, lên tới gần 81,8%, trong khi tỷ lệ này ở nhóm DN quy mô lớn là 76,3%, quy mô siêu nhỏ là thấp nhất với 66,6%. Cho lao động giãn việc/nghỉ luân phiên là giải pháp được DN ở tất cả các nhóm ưu tiên lựa chọn, trong đó các DN quy mô vừa và lớn áp dụng giải pháp này lên tới trên 51%. Tiếp theo là giải pháp cắt giảm lao động được các DN quy mô nhỏ và vừa áp dụng nhiều nhất so với các nhóm DN còn lại, lần lượt là 27,05% và 25,31%. Giải pháp cho lao động nghỉ không lương và giảm lương cũng được một bộ phận DN áp dụng và tỷ lệ áp dụng giữa các nhóm DN chênh lệch không nhiều. Nền kinh tế bị đình trệ kéo theo nhu cầu về lao động của các DN sụt giảm đã dẫn đến tình trạng cắt giảm lao động ở tất cả các khu vực doanh nghiệp. Tỷ lệ DN cho lao động nghỉ việc nhiều nhất là khối DN ngoài nhà nước với tỷ lệ lên tới 25,9%; khu vực DN FDI với 21,3% và khu vực DN nhà nước với 21,05%. Lao động làm việc trong khu vực DN FDI có mức lương ổn định nhất so với các khu vực DN còn lại, chỉ 11,9% DN FDI áp dụng giải pháp cho lao động nghỉ không lương và 7,7% DN áp dụng giải pháp giảm lương nhân viên; trong khi tỷ lệ DN cho lao động nghỉ không lương và giảm lương khu vực DN Nhà nước lần lượt là 19,3% và 29,82%; khu vực DN ngoài nhà nước lần lượt là 23,3% và 22,7%. Theo khu vực kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản (số lượng DN ít) có tỷ lệ DN áp dụng giải pháp cắt giảm lao động và cho lao động giãn việc/nghỉ luân phiên cao nhất, với tỷ lệ lần lượt là 32,4% và 48,6%; khu vực công nghiệp và xây dựng có tỷ lệ DN áp dụng hai giải pháp trên ở mức 26,4% và 43,6%; khu vực dịch vụ ở mức 24,5% và 39%. Có thể thấy, các giải pháp điều chỉnh nguồn nhân lực của các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trong mùa dịch khiến cho thu nhập của mỗi lao động bị ảnh hưởng nghiêm trọng.Khuyến nghị nhằm hạn chế bất bình đẳng thu nhập tại Hải Phòng trong giai đoạn 2021-2025
Bất bình đẳng thu nhập sẽ dẫn đến bất bình đẳng xã hội, gây ra các vấn đề như tỷ lệ thất nghiệp tăng, tỷ lệ tội phạm tăng, năng suất lao động bình quân giảm, do đó, đây là vấn đề giải quyết của quốc gia nói chung và của thành phố Hải Phòng nói riêng. Trong bối cảnh các tỉnh, thành phố phải xử lý những hậu quả của đại dịch Covid-19, Thành phố cần có những biện pháp để khắc phục những khó khăn hiện nay, giảm bớt thiệt hại về thu nhập cho người lao động. Về phía chính quyền thành phố: Đã ban hành nhiều chính sách giúp ngăn ngừa, kiểm soát bệnh dịch, hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động tháo gỡ khó khăn, đảm bảo an sinh xã hội, đưa ra các gói hỗ trợ để giúp người lao động có thêm thu nhập trong giai đoạn nghỉ việc, giãn việc do dịch Covid-19. Tuy nhiên, để các chính sách này phát huy được hiệu quả, cần có sự kết phối hợp chặt chẽ từ các Bộ, ngành, các địa phương nhằm thúc đẩy nhanh các thủ tục hướng dẫn, cải cách thủ tục hành chính nhằm bảo đảm các gói hỗ trợ được triển khai kịp thời, hiệu quả và đúng đối tượng. Về phía các doanh nghiệp: Cần phải nghiên cứu đổi mới, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất, kinh doanh; tìm thị trường mới cho nguyên liệu đầu vào, nghiên cứu mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm ngoài các thị trường tiêu thụ truyền thống; sử dụng công nghệ thông tin để đa dạng hóa từ kinh doanh trực tiếp đến kinh doanh trực tuyến; tạo điều kiện cho người lao động có cơ hội đào tạo nâng cao trình độ và kỹ năng. Về phía người lao động: Cần nỗ lực nghiên cứu, học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, tự trang bị các kỹ năng mềm để đảm bảo khả năng thích nghi với sự thay đổi không ngừng của thị trường lao động. Người lao động cũng nên hiểu và chia sẻ với doanh nghiệp trong giai đoạn khó khăn này. Trong quá trình thực hiện triển khai các gói hỗ trợ của Chính phủ, người lao động cần thực hiện nghiêm túc, khai báo trung thực theo hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền; đảm bảo các gói hỗ trợ đến được đúng đủ và đủ đối tượng. Trong dài hạn, Thành phố cần thực hiện giảm bất bình đẳng thu nhập qua việc giúp người dân ở các khu vực tiếp cận được các dịch vụ xã hội cơ bản như giáo dục và y tế. Đặc biệt quan tâm đến những địa phương có khó khăn về điều kiện tự nhiên, hạ tầng cơ sở, trình độ dân trí, trình độ sản xuất,… Theo đó, Thành phố cần có chính sách ưu tiên, đầu tư cho giáo dục ở khu vực khó khăn; cần có chính sách hỗ trợ về tài chính cho hộ gia đình nghèo, giảm bớt các chi phí cho giáo dục để đảm bảo cơ hội tiếp cận giáo dục cho lao động nghèo, thực hiện cải cách giáo dục nhằm cân bằng cơ hội và phát triển kỹ năng cho người lao động là vô cùng quan trọng. Thành phố cần xây dựng được chiến lược đầu tư nguồn lực con người, khuyến khích tạo việc làm, khuyến khích hình thành một tầng lớp trung lưu rộng lớn trong xã hội; thiết kế hệ thống thuế sao cho không triệt tiêu động lực làm giàu của những người giàu; tăng đầu tư công vào những địa phương kém phát triển; đồng thời, nâng cao chất lượng quản lý đầu tư công cũng như cải thiện chất lượng dịch vụ công, để các kết quả đầu tư đến với người dân, đặc biệt là nhóm người dân nghèo. Về chính sách hỗ trợ y tế: Thành phố tiếp tục thực hiện chính sách mua thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo; hỗ trợ bảo hiểm y tế cho người cận nghèo và học sinh, sinh viên; hỗ trợ cho khám, chữa bệnh cho các địa phương kinh tế còn khó khăn. Đồng thời, tăng đầu tư công cho cơ sở hạ tầng y tế, đây cũng là cơ chế chính sách cần thiết, quan trọng trong nâng cao chất lượng sống và bảo vệ sức khỏe cho người dân. Để giải quyết bất bình đẳng thu nhập của địa phương, Thành phố cần xây dựng được một chiến lược tăng trưởng kinh tế mới cùng các chính sách phân phối thu nhập phù hợp, tập trung cải cách thể chế pháp luật, thị trường cạnh tranh, công bằng và mở, tạo “sân chơi” bình đẳng cho cả các doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ; đồng thời đặt ra vấn đề bình đẳng, công bằng xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống dân cư dựa trên cơ sở phát triển các loại hình kinh tế, khuyến khích người dân làm giàu và thực hiện phân phối thu nhập theo sự đóng góp của các nguồn lực./.Phạm Thị Lý
Trưởng phòng Phòng Thống kê Xã hội, Cục Thống kê TP Hải Phòng Về trang trước In trang Các bài viết khác Các nước thu nhập trung bình cần trải qua 2 quá trình chuyển đổi liên tiếp để gia nhập nhóm thu nhập cao11/12/2024
Xuất khẩu nông sản Việt Nam sang Trung Quốc trong bối cảnh hậu Covid-1911/12/2024
Quản trị an ninh kinh tế trên địa bàn tỉnh An Giang11/12/2024
Nghiên cứu thay đổi tổ chức, quản lý điều tra chăn nuôi hằng năm28/11/2024
Phân tích ảnh hưởng của các nhân tố đến biến động năng suất lao động tổng hợp chung toàn nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2021 - 202326/11/2024
Xu hướng phát triển hoạt động tự sản tự tiêu của hộ gia đình giai đoạn 2020-2022 tương đối ổn định22/11/2024
Sự cần thiết Sửa đổi Bộ Chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững của Việt Nam - Đề xuất và kiến nghị20/11/2024
Triển khai chỉ tiêu 6.5 về thu nhập của huyện nông thôn mới đặc thù không có đơn vị hành chính cấp xã thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-202518/11/2024
Quy trình xác nhận tiêu chí 10 Thu nhập thuộc Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới giai đoạn 2021-202515/11/2024
Sử dụng số liệu để phân tích, đánh giá nâng cao năng suất các nhân tố tổng hợp14/11/2024
Thực trạng quản trị hoạt động truyền thông thương hiệu của các trường đại học thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội13/11/2024
Sự cần thiết xây dựng Hệ thống chỉ tiêu kế hoạch28/10/2024
Khoa học dữ liệu - công cụ đảm bảo thành công cho tiến trình chuyển đổi số của Việt Nam18/10/2024
Đánh giá khả năng an toàn tài chính theo khía cạnh dòng tiền của các doanh nghiệp logistics niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam15/10/2024
Quy trình tính toán tỷ trọng đóng góp của hoạt động du lịch trong tăng trưởng kinh tế tỉnh Quảng Ninh09/10/2024
Kết hợp giữa Học máy (Machine Learning) và Thống kê: Kết nối giữa hai thế giới08/10/2024
Giải quyết thách thức mang tính toàn cầu về Ô nhiễm nhựa - Vai trò của công cụ ràng buộc pháp lý tiêu chuẩn quốc tế02/10/2024
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển con người ở Việt Nam: Giải pháp hướng tới sự phát triển bền vững01/10/2024
Tác động rủi ro tín dụng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại trên địa bàn Hà Nội30/09/2024
Nâng cao năng suất lao động con đường ngắn nhất để Việt Nam phát triển nhanh và bền vững27/09/2024
Xây dựng cơ sở dữ liệu về an sinh quốc gia - Những thách thức25/09/2024
Giải pháp nâng cao giá trị kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam24/09/2024
Nghiên cứu xây dựng phương pháp xác định điểm cắt theo các tiêu chí thu nhập phục vụ rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo giai đoạn 2022-202523/09/2024
Sự cần thiết xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển con người04/09/2024
Đánh giá khả năng sinh lời vốn kinh doanh của các doanh nghiệp Logistics niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam19/08/2024
Ứng dụng học máy phân tích ảnh viễn thám: Giải pháp mới phân tích dữ liệu cây cà phê Việt Nam16/08/2024
Sự phát triển và các vấn đề nảy sinh trong nền kinh tế Gig09/08/2024
Tác động của xu hướng công nghệ số đến nghiệp vụ và quản trị ngân hàng tại các ngân hàng thương mại08/08/2024
Đo lường hình ảnh Cần Thơ trong tâm trí khách du lịch nội địa07/08/2024
Các nhân tố tác động đến chi tiêu hộ gia đình05/07/2024
Xu thế sử dụng dữ liệu điện thoại di động trong công tác lập bản đồ dân số động theo thời gian05/07/2024
Trình độ phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh năm 202205/07/2024
Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động đổi mới của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên18/06/2024
Thống kê Liên Hợp Quốc - Đánh giá Văn hóa chất lượng qua Mô hình trưởng thành và đảm bảo chất lượng thống kê07/06/2024
Phân tích đánh giá chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận của các doanh nghiệp Việt Nam giai đoạn 2015-202206/06/2024
Trình độ phát triển kinh tế - xã hội của các vùng ba năm 2020-202222/04/2024
Tin tức nổi bật Sản xuất công nghiệp 11 tháng năm 2024: Ngành chế biến, chế tạo dẫn dắt tăng trưởng Tổng quan thị trường giá cả tháng Mười một và 11 tháng năm 2024 Sức lan tỏa mạnh mẽ từ “giấc mơ thế kỷ” đường sắt tốc độ cao trục Bắc – Nam Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam 2024 Giới thiệu Tạp Chí IN Kỳ II tháng 12 năm 2023 (660) Kỳ I tháng 12 năm 2023 (659) Kỳ II tháng 11 năm 2023 (658) Kỳ I tháng 11 năm 2023 (657) Infographic Tình hình kinh tế - xã hội cả nước tháng Mười và 10 tháng năm 2023 Tin qua ảnh Chùm tin ảnh Hội nghị triển khai kế hoạch công tác năm 2024 của Tổng cục Thống kê Chùm ảnh Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê tham dự Diễn đàn Thống kê Trung Quốc - ASEAN lần thứ 9 Chùm ảnh Tống thống Hoa Kỳ Joe Biden trong chuyến thăm cấp Nhà nước đến Việt Nam Chùm ảnh Hội nghị tập huấn điều tra người khuyết tật năm 2023 và điều tra chi tiêu của khách du lịch, khách quốc tế đến Việt Nam Hội thảo quốc tế Quản lý hệ sinh thái, quản trị dữ liệu, giám hộ dữ liêu Thư viện ảnh Hội nghị công bố chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững của Việt Nam Video Số hóa dữ liệu thống kê tăng khả năng tiếp cận của người dùng tin Sôi nổi hội thi Đôi đũa vàng GSO năm 2024 Diễn đàn kinh tế: Bức tranh kinh tế 9 tháng năm 2024 Liên kết website Liên kết websiteChọn liên kếtTổng cục Thống kê Thăm dò ý kiếnĐánh giá khách quan của bạn về thông tin chúng tôi cung cấp? Vui lòng tích vào ô bên dưới để trả lời!
Tôi đánh giá cao Tôi rất hài lòng Bình thường Không có gì nổi bật Đánh giá Xem kết quả Kết quả Đánh giá của đọc giả về thông tin chúng tôi cung cấp Tổng cộng: phiếuTẠP CHÍ CON SỐ & SỰ KIỆN
Đơn vị chủ quản: Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư Giấy phép xuất bản số: 340/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 09 tháng 6 năm 2021 Phó Tổng biên tập phụ trách: Bùi Bích Thủy Trụ sở chính: 54 Nguyễn Chí Thanh, Đống Đa, Hà Nội Điện thoại: (84-24) 3734.4920 - 3734.4970 - 3734.4971 | Fax: 84-24-3734.4969 Email: [email protected] Website: consosukien.vn © 2018 Thuộc về Tổng cục thống kê. All rights reserved. Đang online: 87 Tổng truy cập: 55.359.320 TopTừ khóa » Chỉ Số Gini Của Việt Nam
-
Thông Cáo Báo Chí Về Kết Quả Khảo Sát Mức Sống Dân Cư Năm 2020
-
Xu Hướng Bất Bình đẳng Trong Phân Phối Thu Nhập ở Việt Nam Giai ...
-
Định Vị Việt Nam Trong Lộ Trình Tăng Trưởng Toàn Diện - Chi Tiết Tin
-
Nghiên Cứu Thực Trạng Bất Bình đẳng Về Thu Nhập Tại Việt Nam Giai ...
-
Chỉ Số Về Mức độ Chênh Lệch Giàu Nghèo (hệ Số GINI) TP Hải Phòng ...
-
Danh Sách Quốc Gia Theo Chỉ Số Bình đẳng Thu Nhập - Wikipedia
-
Hệ Số Gini – Wikipedia Tiếng Việt
-
Xu Hướng Bất Bình đẳng Thu Nhập Tại Việt Nam Nằm Trong Ngưỡng ...
-
Bất Bình đẳng Thu Nhập ở Việt Nam Hiện Nay: Thực Trạng Và Khuyến ...
-
Việt Nam - World Bank Data
-
[PDF] 89310 - World Bank Documents
-
[PDF] Xu Hướng Bất Bình đẳng Thu Nhập ở Việt Nam
-
Phân Hóa Giàu Nghèo ảnh Hưởng đến An Ninh Trật Tự - Bộ Lao động