Chi Tiết Hỏi đáp - Bệnh Viện Trung ương Quân đội 108

Rụng tóc pelade (alopecia areata) được đặc trưng bởi 1 hoặc vài đám rụng tóc hình tròn, hình ovale ở da đầu, vùng râu, lông mày, lông mi, hoặc vùng có lông khác. Đây là bệnh thường gặp, gần như đều cả ở hai giới, khắp mọi lục địa. Bệnh gặp ở mọi lứa tuổi nhưng chủ yếu ở người trẻ tuổi khoảng từ 15 tuổi -45 tuổi, rất hiếm gặp ở người già và hầu như không gặp ở trẻ dưới 3 tuổi.

Căn nguyên sinh bệnh học của Pelade còn chưa rõ. Yếu tố gen có vai trò quan trọng, nhưng rụng tóc được gây ra không chỉ do tổn thương gen đơn thuần. Cũng như các bệnh viêm khác, các yếu tố môi trường cũng có vai trò quan trọng trong sự khởi phát của bệnh. Nghiên cứu cơ chế bệnh sinh của bệnh rụng tóc Pelade được tập trung vào 2 hướng chính: vai trò của yếu tố miễn dịch và bản chất của bệnh học nang lông. Nhiều giả thuyết về căn sinh bệnh học được đưa ra, nhưng chưa có thuyết nào được khẳng định chắc chắn. Tuy vậy vẫn tồn tại rất nhiều dữ kiện có lợi cho một cơ chế miễn dịch mà các cơ sở của nó vẫn cần phải làm cho sáng tỏ hơn.

Những phương pháp điều trị bao gồm:

a. Điều trị tại chỗ bằng cách gây xung huyết da: là làm xung huyết bởi kích thích tại chỗ. Thường dùng để điều trị Pelade khu trú. Các hóa chất thường dùng gồm: cồn iode, acide acetic trong dung dịch Hoffmann, dầu cade trong vaseline, tuyết carbonic. Áp đến ban đỏ rõ nhưng không gây phỏng nước. Áp anthraline (0.5%) dưới dạng kem cho kết quả tốt trong điều trị Pelade nặng. Theo Fiedler kết quả thẩm mỹ đã thấy được sau 3 tháng áp thuốc ở 25% / 68 bệnh nhân bằng kích thích có thể chịu được ở vùng da đầu.

b. Corticoit liệu pháp:

- Corticoit đường toàn thân làm mọc tóc gần như luôn luôn với liều cao (0,5-1 mg/kg/ngày). Sự mọc tóc này có nguy cơ rụng lại và rụng nhanh khi giảm liều và có rất nhiều tác dụng phụ toàn thân trong trường hợp sử dụng kéo dài. Nó chỉ được chỉ định trong các trường hợp ngoại lệ (Sự thất bại của các phương pháp điều trị khác, ảnh hưởng tâm lý nặng nề).

- Bôi corticoit tại chỗ: corticoit trung bình và mạnh được sử dụng rộng rãi trong điều trị pelade từng đám. Bằng chứng về hiệu quả của chúng còn hạn chế. Một nghiên cứu mù đôi, so sánh hai nửa đầu, một bên bôi kem fluocinolone acetonide 0,2%, ngày 2 lần, bên kia bôi tá dược, cho kết quả mọc tóc lại ở bên bôi thuốc là 54%, còn bên bôi tá dược là 0%. Mancuso và cs (2003) nghiên cứu ngẫu nhiên đa trung tâm ca thiệp có đối chứng so sánh ở những bệnh nhân rụng tóc ít hơn 26% diện tích cho kết quả hơn 75% mọc tóc lại ở những bệnh nhân bôi betamethasone valerate dạng bọt so với 27% mọc tóc ở nhóm bôi betamethasone dipropionate dạng nhũ tương. Kết quả thường thất bại trong những trường hợp lan rộng.

- Tiêm dưới tổn thương dung dịch corticosteroit có thể có hiệu quả trong những trường hợp khu trú. Việc sử dụng corticosteroit tiêm dưới tổn thương đã được mô tả lần đầu tiên vào năm 1958 với việc sử dụng hydrocortisone. Đa số các tác giả đều đưa ra các kết quả mọc tóc lại ở 60-90 % bệnh nhân thể từng đám. Chang và cs (2009) còn cho kết quả mọc lại tóc ở 6 trên 10 bệnh nhân rụng tóc trên 50% diện tích. Điều trị bằng phương pháp này cần phải nhắc lại hàng tháng vì vậy có những tác dụng phụ không tránh khỏi (teo trung ,thượng bì) và có nguy cơ bị mù trong những ca tiêm ở vùng thái dương và trán.

c. Minoxidil:

Minoxidil là một chất gây giãn mạch máu ngoại u. Vào năm 1980 Zappacosta báo cáo trường hợp mọc tóc xảy ra ở một bệnh nhân bị rụng tóc androgenic và được điều trị cao huyết áp bằng minoxidil đường uống.

Trong phần lớn các nghiên cứu Minoxidil có kết quả có ý nghĩa hơn so với placebo. Sự mọc tóc tơ xảy ra ở các thời hạn khác nhau (1 tháng đến 1 năm, trung bình 2-3 tháng). Tỷ lệ mọc tóc lại chấp nhận về mặt thẩm mỹ là tương đối thấp và chỉ đạt 50% trong 2 nghiên cứu.

d. PUVA(Psoralene + Ultraviolet A): ý tưởng đưa PUVA trị liệu vào điều trị Pelade đầu tiên dựa trên sự ghi nhận tăng lông tóc ở một số bệnh nhân vẩy nến được điều trị bằng PUVA.

-Phương pháp:

+PUVA toàn thân: thực hiện sau khi uống 8-MethoxyPsoralene(meladinine), tùy theo sơ đồ kinh điển với nhịp điệu 3lần / tuần, kèm theo tăng liều UVA từ 1J/cm­2 cho mỗi lần chiếu cho đến khi đạt được ban đỏ một cách kín đáo sau đó tiếp tục duy trì liều đó.

+ PUVA giới hạn ở da đầu: dung dịch Meladinine (0,1%) được bôi 45 phút trước khi chiếu tia khu trú ở da đầu. Liều khởi đầu là 0,25 J/ cm2 2 lần trong tuần. Tăng dần liều UVA từng nấc từ 0,25-0,50 J/ cm2 cho đến khi đạt được ban đỏ kín đáo.

+ Phương pháp hỗn hợp: kết hợp uống 8- methoxypsoralene và chiếu tại chỗ, hoặc xen kẽ luân phiên PUVA khu trú và PUVA toàn thân. Trong tất cả các phương thức dừng chiếu được quyết định sau khi đạt được sự mọc tóc hài lòng hoặc không có kết quả điều trị sau nhiều lần chiếu (Lassus sau 20 lần hoặc ít hơn 30% mọc lại sau 40 lần chiếu).

e. Dị ứng tiếp xúc trị liệu: phương pháp dựa trên áp ở vùng Pelade các phân tử có thể gây mẫn cảm: dinitrochlorobenzène (DNCB), dibutylester de acide squarrique(DEAS), diphenciprone.

g. Cyclosporine A: Xử dụng chất ức chế miễn dịch này tại chỗ (dung dịch dầu 5% 2 lần / ngày trong 6 tháng) không có hiệu quả tốt trong thực nghiệm của Mauduit và cộng sự cũng như trong nghiên cứu của De Prost .

Parodi và Rebora mới đây có thông báo hiệu quả tốt của phân tử này khi xử dụng dưới dạng dung dịch cho các trường hợp Pelade toàn phần.

h. Một số phương pháp khác:

-Cồn HDM (Hạt đậu miêu): được chiết suất từ hạt đậu miêu, đã được Bác sỹ Nguyễn Thái Điềm, Giáo sư Nguyễn Xuân Hiền Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 sử dụng bôi kết hợp chiếu UVB có hiệu quả nhất định.

- Cồn HDM kết hợp chloralsalicilic 2%: Tại Khoa Da liễu - Dị ứng, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 đã điều trị cho 41 bệnh nhân Pelade từ 03/2002-12/2005 có hiệu quả mọc tóc bình thường 82,93% sau 4 tháng.

Nhìn chung điều trị bệnh rụng tóc Pelade là vấn đề còn khó khăn và cá thể hóa trên từng bệnh nhân. Bạn có thể đến Bệnh viện TƯQĐ 108 để khám và tư vấn nhé. TS. Bùi Thị Vân Khoa Da liễu, Bệnh viện TƯQĐ 108

Từ khóa » điều Trị Rụng Tóc Bằng Phương Pháp Luồn Chỉ