CHÍN KIẾT SỬ

 Cửu Kiết – Chín Kiết sử

Phật Pháp chưa diệt, Tăng tự diệt,

Đạo đức cần tu, chẳng ai tu,

Thành thật chân chánh, bị chế diễu,

Gian ngoa xảo trá, được tán dương.

Muốn đời Ngũ Trựơc nên tươi sáng,

Chúng sanh tỉnh hẳn ba lần mê,

Ân cần nhắn nhủ Tăng Ni trẻ:

Chấn hưng Phật Giáo cậy Tỳ Kheo!

Người tu Phật cần nên biết phá bỏ 5 triền cái (xem bài viết trước) và 9 kiết sử sau đây. Tầm quan trọng của việc phá bỏ chúng có liên quan đến Tứ Thánh Quả, sau khi nhập quả Dự Lưu -Sơ quả Tu Đà Hoàn, chúng ta nên tu dưỡng cấp độ Đạo Đức của mình thăng tiến hơn nữa. Con đường đã chỉ rõ, phương pháp tu tập cũng đã chỉ rõ trong bài viết Tâm Vương và Tâm Sở (Duy Thức Học) chỉ cần chúng ta tu Tâm của mình, không còn các chìm đắm trong ngũ dục, giận dữ, đố kị, si mê, kiêu căng, ngạo nghễ, tham lam, bỏn sẻn….những mầm mống Ác tâm trong A-lại-da thức của chúng ta. Chỉ giữ chánh niệm 6 chữ hồng danh “Nam Mô A-Di-Đà Phật”  trong tâm lúc đi, đứng, nằm, ngồi…cũng đủ quét sạch trần cấu, ý nghĩ xấu xa loạn động luôn luôn dấy khởi từng giờ, từng phút trong bộ não cấu uế của chúng ta về mọi người và mọi vật xung quanh trong cuộc sống trần tục này. Dùng chánh niệm để thay thế ác niệm, dùng cái tốt để trấn áp cái xấu. Nghĩ tưởng về 1 vị Phật còn đỡ tạo nghiệp hơn khi nghĩ về chúng sanh.

Tác ý là nghiệp. Mỗi 1 ý nghĩ xấu khởi lên trong đầu (chưa hành động ra bằng miệng và thân) thôi cũng đã tạo ra 1 nghiệp Ác rồi. Điều này tôi đã trải nghiệm qua rồi, nên thấy quá Sợ HãiNguy Hiểm. Nguy hiểm là vì để tâm ý của mình buông lung, phóng dật tùm lum, niệm khởi toàn chuyện xấu ác, còn Sợ hãi là vì chưa biết lúc nào quả báo Ác xảy ra đối với mình. Chỉ còn đủ Duyên là kết thành Quả Ác mình lãnh trọn, không kêu trời trách đất gì được. Nên lúc nào cũng niệm thầm trong đầu “Nam mô A-Di-Đà Phật“. Để đè nén dòng ý nghĩ khởi trong từng giây của bộ não luôn luôn suy nghĩ, luôn luôn hoạt động. Tùy vào từng tế bào thần kinh mà tốc độ truyền đạt khác nhau, nhưng suy nghĩ của chúng ta chạy nhanh lắm, nhiều tài liệu cho kết quả khác nhau, nhưng trung bình tốc độ đọc bài và suy nghĩ lúc này sẽ là 20-30 mét/giây. Đó là dây thần kinh thị giác thôi, còn biết bao nhiêu dây thần kinh thính giác, vị giác, khứu giác….trong đầu luôn luôn hoạt động thì sẽ cho ra không biết bao nhiêu ý niệm xấu tốt lẫn lộn tùm lum. Nếu không niệm Phật tu hành tiêu trừ nghiệp chướng đang tạo ra hằng ngày thì không biết khi chết thoi thóp trên giường bệnh không biết có được chết yên ổn hay không nữa? hay lúc lâm chung cận tử nghiệp, oan gia trái chủ đến đòi nợ, nghiệp cảnh đài (khúc phim quay chậm các việc mình đã làm lúc còn sống) mà nhiều tài liệu nước ngoài đã nói tới kể lại kinh nghiệm của người chết đi sống lại.

Vì Sao Ở Ác Gặp Lành, Ở Hiền Gặp Dữ?

http://www.youtube.com/watch?v=FzVGRsfwxO0

Chắc chắn khi chúng ta nhận diện rõ mặt “kẻ thù”, quyết tâm phá bỏ chúng, thì con đường Siêu phàm Nhập Thánh là trong tầm tay của chúng ta. Đạo đức của chúng ta càng thăng tiến cao qua quá trình tu tập thì quả vị Thánh của chúng ta dù xuất gia hay chưa xuất gia, xứng đáng đem cúng dường lên 10 phương chư Phật và Phật A-Di-Đà. Hãy đem thành quả tu dưỡng đạo đức của mình vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc tiếp tục tu tập tiếp thì nhất định quả vị Phật là không còn xa vời trong lí thuyết nữa. Đã đến lúc chúng ta nên nhìn thẳng vào vấn đề mà giải quyết chúng, đã đến lúc chúng ta cắt đứt duyên trần tục mà thoát ly sanh tử ra khỏi bể khổ đã muôn đời muôn kiếp chìm ngập đọa lạc trong vô lượng kiếp trước. Kiếp này và kiếp sau của chúng ta nhất định sẽ tươi sáng, huy hoàng, hạnh phúc và an lạc muôn đời muôn kiếp. Nam Mô A-Di-Đà Phật!

Cửu Kiết – Chín Kiết sử

1. Ái kết: say đắm cảnh ngũ dục không rời;

2. Khuể kết: giận dữ bất bình đối với nghịch cảnh;

3. Mạn kết: kiêu căng ngạo nghễ;

4. Vô minh kết: ngu si mờ ám đối với kẻ chân chính;

5. Kiến kết: tà kiến không tin nhơn quả;

6. Thủ kết: vọng chấp sự hiểu biết không chơn chánh và giới pháp sai lầm làm lắm điều ác;

7. Nghi kết: do dự không tin chơn lý, không tu hành theo hạnh chơn chánh, làm nhiều điều không chơn chánh;

8. Tật kết: ghen ghét những bậc hiền đức;

9. Xan kết: keo bẩn không chịu bố thí lại làm nhiều điều ác. Chín điều này ràng buộc chúng sanh trong đường sanh tử vì nó khiến chúng sinh gây nhiều tội lỗi.

NĂM HẠ PHẦN KIẾT SỬ HAY ĐẠI KINH MALUNKYAPUTTA

Năm hạ phần kiết sử (Olambhàgiyàsam yoyanà) là thân kiến, nghi, giới cấm thủ, tham dục và sân là những kiết sử trói buộc con người vào sanh tử luân hồi. Có thoát ly khỏi các hạ phần kiết sử, mới mong đạt được Thánh quả.

Thế Tôn hỏi các Tỳ kheo có ai thọ trì năm hạ phần kiết sử này thời Tôn giả Màlunkyaputta đáp là có thọ trì năm pháp này nhưng bị ngoại đạo dùng ví dụ đứa con nít ngây thơ đang nằm ngửa, không có tự thân, thời đâu có thân kiến; không biết đến các pháp, thời từ đâu có thể khởi lên các nghi hoặc đối với các pháp; không có giới, thời từ đâu có thể khởi lên giới cấm thủ trong các giới; không có dục vọng, thời từ đâu nó có thể khởi lên tham dục trong các dục; nếu đứa con nít nằm ngửa không có biết các loài hữu tình, thời từ đâu nó có thể khởi lên lòng sân?

Đứng trước những lời chỉ trích như vậy, đức Phật dạy cách trả lời là đứa con nít nằm ngửa, tuy không có thân kiến hiện hành, nhưng thật sự thân kiến sống tiềm tàng trong nó. Tuy không có nghi hoặc khởi lên, nhưng nghi hoặc tùy miên sống tiềm tàng trong nó. Tuy không có giới, nhưng giới cấm thủ tùy miên sống tiềm tàng trong nó. Tuy không có tham dục, nhưng tham dục tùy miên sống tiềm tàng trong nó. Tuy không có các loài hữu tình, nhưng sân tùy miên sống tiềm tàng trong nó.

Theo lời yêu cầu của Tôn giả A Nan, Thế Tôn bắt đầu giảng về năm hạ phần kiết sử.

Trước hết là hạng vô văn phàm phu không yết kiến các bậc Thánh và các bậc Chân nhân, không thuần thục pháp các bậc Thánh và các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Thánh và các bậc Chân nhân, sống với thân bị thân kiến triền phược, bị thân kiến chi phối, không như thật tuệ tri sự xuất ly ra khỏi thân kiến đã khởi lên. Do vậy thân kiến của vị này kiên cố, không được nhiếp nhục, trở thành một hạ phần kiết sử. Cũng vậy đối với nghi hoặc, đối với giới cấm thủ, đối với tham dục, đối với sân, năm hạ phần kiết sử của vị này trở thành kiên cố, không được nhiếp phục, trở thành hạ phần kiết sử.

Trái lại đối với các bậc Đa văn Thánh đệ tử, vị này đến yết kiến các bậc Thánh, các bậc Chân nhân, thuần phục pháp các bậc Thánh, các bậc Chân nhân, tu tập pháp của bậc Thánh, của bậc Chân nhân, không bị năm hạ phần kiết sử chi phối, không bị năm hạ phần kiết sử triền phược. Vị này như thật tuệ tri sự xuất ly các hạ phần kiết sử khởi lên. Nhờ vậy năm hạ phần kiết sử với các tùy miên được đoạn trừ.

Tiếp đến đức Phật giải thích con đường đưa đến sự đoạn trừ năm hạ phần kiết sử. Con đường ấy cần phải thực hành mới mong biết rõ, thấy rõ, và đoạn trừ đuợc năm hạ phần kiết sử. Như một cây lớn đứng thẳng với lõi cây. Nếu người không đẽo vỏ trong, không đẽo giác cây, vẫn có thể đẽo được lõi cây; sự tình như vậy không xảy ra. Cũng vậy lộ trình nào, con đường nào đưa đến sự đoạn trừ năm phần hạ kiết sử, nếu không thực hành con đường ấy, thời không có hy vọng được thấy rõ, được hiểu rõ hay được đoạn diệt; sự tình như vậy không xảy ra. Và con đường nào, lộ trình nào đưa đến đoạn trừ năm phần hạ kiết sử, nếu thực hành con đường ấy, thời năm hạ phần kiết sử được biết rõ, được thấy rõ, hay được đoạn diệt; sự tình như vậy có xảy ra.

Rồi đức Phật dùng hai ví dụ để nêu rõ sự cần thiết phải thực hành lộ trình ấy, con đường ấy. Ví như đối với một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy sau khi đẽo vỏ trong, sau khi đẽo giác cây, sẽ đẽo được lõi cây; sự tình này xảy ra. Ví như sông Hằng nước đầy tràn, con quạ có thể uống được. Rồi một người ốm yếu đi đến và nghĩ như sau: “Sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng, với tay của ta, ta đến được bờ bên kia an toàn”. Nhưng người ấy không thể lội cắt ngang sông Hằng. Cũng vậy bất cứ ai, khi được nghe giảng pháp để đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, nếu tâm của vị ấy không phấn khởi, không tịnh tín, không có an trú, không có hướng đến, thời vị ấy cần phải được xem giống như người ốm yếu kia. Ví như sông Hằng, nước đầy tràn con quạ có thể uống được. Rồi một người lực sĩ đi đến và quyết định với tay của mình, lội cắt ngang sông Hằng và đến được bờ bên kia một cách an toàn. Cũng vậy bất cứ ai, khi được giảng pháp để đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, nếu tâm của vị ấy phấn khởi, tịnh tín, an trú và hướng đến thời vị ấy được xem là giống như nhà lực sĩ kia, có khả năng đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử.

Rồi đức Phật trình bày lộ trình đưa đến đoạn năm hạ phần kiết sử.

Ở đây, vị Tỳ kheo do viễn ly các sanh y (upadhi), do đoạn trừ các pháp bất thiện, do làm cho an tịnh thân thể ác hạnh một cách toàn diện, vị này ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Vị này chánh quán mọi sắc pháp, mọi thọ pháp, mọi tưởng pháp, mọi hành pháp, mọi thức pháp là vô thường, khổ, như bệnh, như cục bướu, như mũi tên, như điều bất hạnh, như bịnh chướng, như kẻ địch, như phá hoại, là không, là vô ngã… Vị này giải thoát tâm khỏi các pháp ấy (tức năm hạ phần kiết sử). Sau khi giải thoát tâm khỏi các pháp ấy, vị ấy tập trung vào bất tử giới (amata dhàtu) và nghĩ rằng: “Đây là tịch tịnh, đây là vi diệu, đây là sự an chỉ tất cả hành, sự xả ly tất cả sanh y, ái diệt, ly tham, đoạn diệt, Niết bàn”. Nếu an trú vững chắc ở đây, vị này đạt đến sự đoạn diệt các lậu hoặc. Nếu vị ấy không đạt đến sự đoạn diệt các lậu hoặc, thời do tham pháp và hỷ pháp của mình, do sự đoạn tận năm hạ phần kiết sử, vị ấy được hóa sanh, nhập Niết bàn ở đấy, không phải trở lui đời này nữa. Đây là lộ trình, đây là con đường đưa đến đoạn tận năm hạ phần kiết sử.

Cũng vậy vị Tỳ kheo diệt tầm diệt tứ, chứng và trú Thiền thứ hai… chứng và trú Thiền thứ ba,… chứng và trú Thiền thứ tư. Vượt lên mọi sắc tưởng, chứng và trú Không vô biên xứ,… chứng và trú Thức vô biên xứ,… chứng và trú Vô sở hữu xứ. Vị này chánh quán mọi sắc pháp, mọi thọ pháp, mọi tưởng pháp, mọi hành pháp, mọi thức pháp là vô thường, khổ, như bệnh, như cục bướu, như mũi tên, như điều bất hạnh, như bệnh chứng, như kẻ địch, như phá hoại, là không, là vô ngã. Vị này giải thoát tâm khỏi các pháp ấy. Vị ấy tập trung tâm vào bất tử giới, và nghĩ rằng: “Đây là tịch tịnh, đây là vi diệu, tức là sự an chỉ tất cả hành, sự xả ly tất cả sanh y, sự ái diệt, vô tham, đoạn diệt, Niết bàn”. Nếu an trú vững chắc ở đây, vị ấy đạt đến sự đoạn tận các lậu hoặc. Nếu vị ấy không đạt đến sự đoạn tận các lậu hoặc, thời do sự tham pháp và sự hỷ pháp của mình, do sự đoạn tận năm hạ phần kiết sử, vị ấy được hóa sanh, nhập Niết bàn ở đấy, không phải trở lui đời này nữa. Đây là lộ trình, đây là con đường đưa đến đoạn tận năm hạ phần kiết sử.

Cuối cùng, Tôn giả A Nan hỏi đức Phật rằng đây là con đường đưa đến sự đoạn trừ các năm hạ phần kiết sử, thời do hành trì như thế nào mà một số Tỳ kheo chứng tâm giải thoát, một số chứng tuệ giải thoát. Thế Tôn trả lời là do sự sai khác về căn tánh.

“Nếu bánh mật làm dịu được sự khao khát của con người, thời những lời dạy của đức Bổn sư làm dịu đi khát vọng của con người, giải thoát con người khỏi các tùy miên, loại trừ các đấu tranh, kháng tranh, đem lại sự hòa đồng, thông cảm cho tất cả mọi người” (Kinh Bánh Mật)

ĐẠI NGUYỆN:

CHÚNG SANH VÔ BIÊN THỆ NGUYỆN ĐỘ PHIỀN NÃO VÔ TẬN THỆ NGUYỆN ĐOẠN PHÁP MÔN VÔ LƯỢNG THỆ NGUYỆN HỌC PHẬT ĐẠO VÔ THƯỢNG THỆ NGUYỆN THÀNH.

NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT

Chia sẻ:

  • X
  • Facebook
  • Email
Thích Đang tải...

Có liên quan

Hình đại diện của Không hiểu

Tác giả: HUỆ AN

Buddhist ĐẠI NGUYỆN: CHÚNG SANH VÔ BIÊN THỆ NGUYỆN ĐỘ PHIỀN NÃO VÔ TẬN THỆ NGUYỆN ĐOẠN PHÁP MÔN VÔ LƯỢNG THỆ NGUYỆN HỌC PHẬT ĐẠO VÔ THƯỢNG THỆ NGUYỆN THÀNH GIÁC CHÚNG SANH HỮU TÌNH NGỘ NHẬP PHẬT TRI KIẾN NGUYỆN SANH TÂY PHƯƠNG TỊNH ĐỘ TRUNG CỬU PHẨM LIÊN HOA VI PHỤ MẪU HOA KHAI KIẾN PHẬT NGỘ VÔ SANH BẤT THỐI BỒ TÁT VI BẠN LỮ NGUYỆN HỒI HƯỚNG: NGUYỆN ĐEM CÔNG ĐỨC NÀY HƯỚNG VỀ KHẮP TẤT CẢ ĐỆ TỬ VÀ CHÚNG SANH ĐỀU TRỌN THÀNH PHẬT ĐẠO NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI TIẾP DẪN ĐẠO SƯ A DI ĐÀ PHẬT

Từ khóa » Phá Kiết Sử