Chính Trị – Wikipedia Tiếng Việt

Bernie Sanders, thượng nghị sĩ, thành viên đảng Dân chủ Mỹ phát biểu trước hàng nghìn người dân vào năm 2015
Một phần của loạt bài về Chính trị
Các dạng chính phủ
Danh sách các dạng chính phủ
Nguồn gốc quyền lực
Dân chủ (nhiều người cai trị)
  • Demarchy
  • Trực tiếp
  • Tự do
  • Đại nghị
  • Xã hội
  • Xã hội chủ nghĩa
  • Khác
Đầu sỏ (ít người cai trị)
  • Bán dân chủ
  • Chế độ quý tộc
  • Lão nhân
  • Đạo tặc
  • Kritarchy
  • Nhân tài
  • Noocracy
  • Đảng trị
  • Tài phiệt
  • Quân trị
  • Kỹ trị
  • Thần quyền
Chuyên quyền (một người cai trị)
  • Despotism
  • Độc tài
  • Độc tài quân sự
  • Bạo chúa
Vô trị (không ai cai trị)
  • Vô trị
  • Không nhà nước
Tư tưởng quyền lực
  • Quân chủ
  • Cộng hoà
(các hệ tư tưởng xã hội–chính trị)
  • Tuyệt đối
  • Lập hiến
  • Pháp gia
  • Đại nghị
  • Cộng hòa lập hiến
  • Tổng thống
  • Bán tổng thống
  • Xã hội chủ nghĩa
  • Chuyên chế
  • Tự do
(các hệ tư tưởng xã hội–kinh tế)
  • Vô trị
  • Thực dân
  • Cộng sản
  • Despotism
  • Phát xít
  • Phong kiến châu Âu
  • Xã hội chủ nghĩa
  • Toàn trị
  • Tôn giáo
  • Phi tôn giáo
  • Quốc giáo
  • Nhà nước thế tục
  • Quốc tế
  • Địa phương
(các hệ tư tưởng văn hoá–địa lý)
  • Thành bang
  • Tổ chức quốc tế
  • Quốc gia dân tộc
  • Chính phủ thế giới
  • Chủ nghĩa dân tộc
  • Chủ nghĩa quốc tế
  • Chủ nghĩa toàn cầu
Cấu trúc quyền lực
Chủ nghĩa đơn nhất
  • Nhà nước đơn nhất
  • Đế quốc
  • Thân vương quốc
Quốc gia phụ thuộc
  • Quốc gia liên kết
  • Danh sách lãnh thổ phụ thuộc
  • Nước tự trị (Anh)
  • Bảo hộ
  • Chính phủ bù nhìn
  • Quân vương bù nhìn
  • Quốc gia vệ tinh
  • Thuộc địa tự trị
  • Quốc gia phụ lưu
  • Quốc gia đệm
  • Nước chư hầu
  • Phó vương quốc
Chủ nghĩa liên bang
  • Bang liên
  • Phân quyền
  • Liên bang
Quan hệ quốc tế
  • Cường quốc nhỏ
  • Cường quốc vùng
  • Trung cường quốc
  • Đại cường quốc
  • Siêu cường quốc
  • Cường quốc siêu cấp
Đơn vị hành chính
Liên quan
  • Chế độ lai
  • Dân chủ thụt lùi
  • Dân chủ hoá
  • x
  • t
  • s

Chính trị (Tiếng Anh: politics) là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, cũng như các dân tộc và các quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực Nhà nước; là sự tham gia của nhân dân vào công việc của Nhà nước và xã hội, là hoạt động chính trị thực tiễn của giai cấp, các đảng phái chính trị, các nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện đường lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích.[1]

Từ khi xuất hiện, chính trị ảnh hưởng tới quá trình tồn tại và phát triển của mỗi cộng đồng, mỗi quốc gia, dân tộc và toàn nhân loại. Trước khi chính trị học ra đời với tư cách là một khoa học (political science) nghiên cứu chính trị như một chỉnh thể, có đối tượng, phương pháp, khái niệm, phạm trù..., đã có các quan niệm, quan điểm, thậm chí tư tưởng, học thuyết của các học giả khác nhau bàn về các khía cạnh của chính trị.[2]

Khái niệm

[sửa | sửa mã nguồn]

Các quan niệm trước Chủ nghĩa Mác-Lênin

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Ở phương Tây thời kỳ cổ đại, nổi lên các triết gia, chính trị gia lỗi lạc về chính trị:[3] 
  1. Herodotus: Được mệnh danh là người "cha của chính trị học". Từ chỗ nghiên cứu và phân tích sự khác biệt giữa các hình thức chính thể: Quân chủ, Quý tộc và Dân chủ, ông khẳng định chính trị tốt nhất là thể chế hỗn hợp của các chính thể này.
  2. Platon: Chính trị là "nghệ thuật cung đình"  liên kết trực tiếp của người anh hùng và sự thông minh. Sự liên kết đó được thực hiện bằng sự thống nhất tư tưởng và tinh thần hữu ái. Chính trị là nghệ thuật cai trị. Cai trị bằng sức mạnh là độc tài, cai trị bằng nghệ thuật mới là đích thực. 
  3. Aristotle: Chính trị là sản phẩm của sự phát triển tự nhiên- là hình thức giao tiếp cao nhất của con người; con người là động vật chính trị; quyền lực chính trị có thể được phân chia thành lập pháp, hành pháp và tư pháp. 
  • Ở phương Đông cổ đại, nhất là ở Trung Quốc thời kỳ "bách gia chư tử"  -  trăm hoa đua nở  -  trăm nhà đua tiếng cũng xuất hiện những tư tưởng chính trị kiệt xuất. Nổi bật nhất là các quan niệm của Khổng tử, Hàn Phi tử, Lăo tử... [3]
  1. Khổng tử: Chính trị là công việc của người quân tử, là làm cho chính đạo, chính danh. Ông xây học thuyết về Nho gia với các quan điểm Tam cương, Ngũ thường - là cơ sở nền tảng cho các xã hội phong kiến phương Đông lúc bấy giờ và cả sau này. 
  2. Hàn Phi tử: Ông quan niệm để thực hiện hoạt động chính trị cần thiết phải xây dựng và ban hành pháp luật. Với luận thuyết nổi tiếng về thế, thuật và pháp - ông là đại diện tiêu biểu của phái Pháp gia. 
  3. Lão tử: Với quan điểm "vô vi nhi trị"  -  không làm gì mà mọi người tự thuần phục, tự tìm đến với con đường chính đạo thì đó là cái gốc của nghệ thuật trị nước
  • Thời kỳ đêm trường trung cổ: Chính trị được các nhà Thần học và chủ nghĩa duy tâm như Tômat Đa-Canh...cho rằng "chính trị có nguồn gốc từ quyền lực tối cao của Thượng đế".[3]
  • Thời kỳ các học thuyết và  tư tưởng tư sản về chính trị: Nổi tiếng với các thuyết "tam quyền phân lập, khế ước xã hội". Chính trị được quan niệm là công việc của những "công dân" có tài sản. [3]

Các tư tưởng và học thuyết nêu trên ít nhiều đã đề cập được những vấn đề cơ bản của chính trị như vấn đề tổ chức Nhà nước, các hình thức Nhà nước và các chính thể, vấn đề quyền lực Nhà nước, thủ lĩnh chính trị....Tuy nhiên do những hạn chế về lập trường, quan điểm, điều kiện lịch sử- xã hội mà các học thuyết đó ít nhiều còn bộc lộ những quan điểm thô sơ, chất phác, thậm chí là sai lầm về chính trị.[3]

Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin

[sửa | sửa mã nguồn]

Nghiên cứu một cách nghiêm túc các quan điểm trước đi trước về chính trị, đồng thời vận dụng một cách khoa học các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin đã đề xuất những nhận định về chính trị như sauː[3]

  1. Chính trị là lợi ích, là quan hệ lợi ích, là đấu tranh giai cấp trước hết vì lợi ích giai cấp.
  2. Cái căn bản nhất của chính trị là việc tổ chức quyền lực nhà nước, là sự tham gia vào công việc Nhà nước, là định hướng cho nhà nước, xác định hình thức, nội dung, nhiệm vụ của Nhà nước.
  3. Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. Đồng thời, chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế.
  4. Chính trị là lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm nhất, liên quan tới vận mệnh hàng triệu người. Giải quyết những vấn đề chính trị vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật.

Chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, cũng như các dân tộc và các quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực Nhà nước; là sự tham gia của nhân dân vào công việc của Nhà nước và xã hội, là hoạt động chính trị thực tiễn của giai cấp, các đảng phái chính trị, các nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện đương lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích[3]

Các quan điểm hiện nay

[sửa | sửa mã nguồn]

Hiện nay, trên thế giới đã hình thành 4 cách hiểu khác nhau về chính trị:[4]

  • Nghệ thuật của phép cai trị
  • Những công việc của chung
  • Sự thỏa hiệp và đồng thuận
  • Quyền lực và cách phân phối tài nguyên hay lợi ích

Nếu quan niệm rằng chính trị chỉ là những hoạt động xoay quanh vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước thì, theo lý luận của chủ nghĩa Marx, trong xã hội cộng sản tương lai sẽ không có chính trị bởi vì lúc đó nhà nước đã tiêu vong. Nói cách khác, chính trị sẽ dần dần trở nên thừa thãi và mất hẳn trong xã hội lý tưởng của nhân loại – xã hội cộng sản.

Chính trị theo nghĩa rộng hơn là hoạt động của con người nhằm làm ra, gìn giữ và điều chỉnh những luật lệ chung mà những luật lệ này tác động trực tiếp lên cuộc sống của những người góp phần làm ra, gìn giữ và điều chỉnh những luật lệ chung đó. Với cách hiểu như thế này thì dù trong xã hội cộng sản, chính trị vẫn còn tồn tại và vẫn giữ vai trò hết sức quan trọng đối với từng con người cũng như toàn xã hội. Trong bất kỳ xã hội nào thì cũng cần những luật lệ chung để hoạt động nhịp nhàng và khoa học, tránh tình trạng vô tình hay cố ý xâm phạm quyền lợi, lợi ích, tài sản, sức khỏe hay thậm chí tính mạng của người khác hay của cộng đồng. Một ví dụ đơn giản, xã hội dù có phát triển đến đâu thì cũng cần có luật giao thông để con người có thể lưu thông một cách trật tự và hiệu quả. Hay, con người không thể sống trong một xã hội mà tình trạng an ninh không đảm bảo (cướp bóc, khủng bố chẳng hạn) do thiếu luật lệ. Mặc dù phần lớn xã hội hiện nay trên thế giới không tránh khỏi các hiện tượng cướp bóc và khủng bố nhưng phải thừa nhận rằng pháp luật đã góp phần ngăn chặn đáng kể những hành vi bất lương đó.

Nguồn gốc và bản chất

[sửa | sửa mã nguồn]

Nguồn gốc kinh tế chính trị

[sửa | sửa mã nguồn]

Xét về sự xuất hiện của chính trị trong lịch sử nhân loại: Chính trị ra đời gắn liền với sự xuất hiện của giai cấp và nhà nước. Sự xuất hiện đó lại liên quan chặt chẽ đến vấn đề tư hữu tư liệu sản xuất -  tư hữu những của cải dư thừa của xã hội- cũng tức là liên quan đến hoạt động kinh tế. Để bảo vệ cho sự tư hữu về tư liệu sản xuất đó, những tầng lớp "trên" của xã hội đã tổ chức ra nhà nước nhằm mục đích cưỡng chế các giai tầng xã hội khác. Như vậy chính trị xuất hiện trong lịch sử xuất phát từ kinh tế.[5]

Xét trên góc độ lợi ích: Chủ nghĩa Marx-Lenin khẳng định chính trị chính là lợi ích, là quan hệ giữa các giai cấp trong việc phân chia lợi ích. Như vậy chính trị chính là sự biểu hiện tập trung của kinh tế.[5]

Xét trên quan điểm về các hình thái kinh tế, xã hội: Chính trị thuộc kiến trúc thượng tầng, bao gồm hệ tư tưởng chính trị, nhà nước, các đảng phái xuất hiện khi xã hội phân chia thành các giai cấp dựa trên cơ sở hạ tầng kinh tế. Như vậy, chính Cơ sở hạ tầng kinh tế là yếu tố quyết định đến sự hình thành các quan điểm và các thiết chế chính trị[5]

Bản chất giai cấp của chính trị

[sửa | sửa mã nguồn]

Mối quan hệː Chính trị bao giờ cũng là sự bộc lộ mối quan hệ giữa các giai cấp: Trong một xã hội có giai cấp, chính trị với những thiết chế được đặt ra là để xác lập mối quan hệ giữa các giai cấp. Khái niệm quan hệ chính trị cho chúng ta thấy, đó là quan hệ giữa các giai cấp, trong việc giành, giữ và tổ chức quyền lực Nhà nước. Trong các quan hệ đó, các giai cấp xác định đâu là giai cấp thống trị, đâu là giai cấp, tầng lớp bị thống trị, đâu là giai cấp, tầng lớp tham gia vào thực hiện các nhiệm vụ chính trị.[6]

Đảng phái, Nhà nướcː Bản chất chính trị của giai cấp thể hiện ở sự tổ chức thành Đảng phái, thành Nhà nước để giai cấp thống trị đạt được mục đích trấn áp giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội vì lợi ích trước hết và trên hết của giai cấp mình. Thông qua hoạt động của các Đảng phái là đội tiên phong của chính mình, đồng thời thông qua hoạt động của Nhà nước, giai cấp thống trị gián tiếp can thiệp vào các hoạt động tổ chức sản xuất và đời sống xã hội.[6]

Quyền lực chính trịː Bản chất chính trị của giai cấp còn liên quan đến vấn đề quyền lực chính trị. Karl Marx khẳng định "Quyền lực chính trị thực chất là bạo lực có tổ chức của giai cấp này, trấn áp giai cấp khác". Mỗi một giai cấp sẽ có cách thức sử dụng quyền lực chính trị khác  nhau. Chế độ phong kiến sử dụng quyền lực tuyệt đối thuộc về một người, chế độ tư sản sử dụng quyền lực trên cơ sở thuyết Tam quyền phân lập; chế độ xã hội chủ nghĩa quyền lực được xuất phát từ nhân dân và có sự phân công, phân nhiệm trong sử dụng[6]

Văn hóa tư tưởng chính trịː Bản chất giai cấp của chính trị thể hiện ở chế độ văn hóa chính trị, bao gồm hệ tư tưởng, nền tảng pháp lý và các giá trị, chuẩn mực được áp dụng cho toàn xã hội[6]

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Lịch sử chính trị kéo dài trong suốt lịch sử loài người và không giới hạn trong các thể chế chính phủ hiện đại.

Frans de Waal lập luận rằng những con tinh tinh đã tham gia chính trị thông qua việc "thao túng xã hội để bảo đảm và duy trì các vị trí có ảnh hưởng".[7] Các hình thức ban đầu của con người về tổ chức xã hội - các nhóm người và bộ lạc còn thiếu các cấu trúc chính trị tập trung.[8] Chúng được gọi là xã hội không nhà nước.

Có một số lý thuyết và giả thuyết khác nhau liên quan đến sự hình thành nhà nước sớm tìm cách khái quát hóa để giải thích tại sao nhà nước phát triển ở một số nơi mà không phải là những nơi khác. Các học giả khác tin rằng việc khái quát hóa là không có giá trị và mỗi trường hợp hình thành nhà nước sớm nên được xử lý riêng biệt.[9]

Các lý thuyết tự nguyện cho rằng các nhóm người khác nhau đã cùng nhau hình thành các nhà nước do kết quả của một số lợi ích hợp lý được chia sẻ chung.[10] Các lý thuyết chủ yếu tập trung vào sự phát triển của nông nghiệp, và áp lực dân số và tổ chức theo sau và dẫn đến sự hình thành nhà nước. Một trong những lý thuyết nổi bật nhất về sự hình thành nhà nước sơ khai và sơ cấp là giả thuyết thủy lợi, cho rằng nhà nước là kết quả của nhu cầu xây dựng và duy trì các dự án thủy lợi quy mô lớn.[11]

Các lý thuyết xung đột về sự hình thành nhà nước coi xung đột và sự thống trị của một số dân số đối với dân số khác là chìa khóa cho sự hình thành các quốc gia.[10] Trái ngược với các lý thuyết tự nguyện, những lập luận này tin rằng mọi người không tự nguyện đồng ý tạo ra một nhà nước để tối đa hóa lợi ích, nhưng các nhà nước đó hình thành do một số hình thức áp bức của một nhóm người đối với các nhóm người khác.

Một số lý thuyết lại cho rằng chiến tranh là rất quan trọng đối với sự hình thành nhà nước.[10]

Ý thức hệ chính trị

[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: Ý thức hệ

Ý thức hệ chính trị hay hệ tư tưởng chính trị là toàn bộ những học thuyết, tư tưởng, quan điểm, của một giai cấp về: giành và giữ quyền lực nhà nước; xác định chế độ chính trị; hình thức tổ chức nhà nước; và quan hệ với các giai cấp, tầng lớp khác.[12]

Hệ tư tưởng chính trị có vai  trò vô cùng quan trọng, thể hiện ở những điểm sauː Đó là kim chỉ nam soi đường cho quá trình đấu tranh của một giai cấp. Chỉ có hệ tư tưởng chính trị mới chứa đựng những mục tiêu và phương pháp để một giai cấp tiến lên giành chính quyền. Hệ tư tưởng chính trị xác định mối quan hệ giữa giai cấp này với giai cấp khác. Hệ tư tưởng chính trị mô tả chế độ chính trị, xác định hình thức và bản chất Nhà nước, các cơ chế phân chia quyền lực chính trị. Hệ tư tưởng chính trị xác định mục tiêu, nội dung và phương thức lãnh đạo, quản lý xã hội.[12]

Trong quan hệ với thể chế chính trị, hệ tư tưởng chính trị là mục đích, là nội dung của thể chế đó. Hệ tư tưởng chính trị nào thì xác định thể chế chính trị đó; trong quan hệ với hệ thống chính trị, hệ tư tưởng chính trị là  là "hạt nhân tinh thần", là phần "linh hồn" của hệ thống đó.[12]

Khổng Tửː Triết gia Khổng Tử (551– 471 TCN) là một trong những nhà tư tưởng đầu tiên có cách tiếp cận riêng đến Học thuyết chính trị. Căn bản trong học thuyết của ông là "quân tử (người cầm quyền) nên học tự kỷ luật, nên cai trị người dân của mình bằng chính gương của mình, và nên đối xử với họ bằng tình thương và sự quan tâm." [13] Niềm tin chính trị của ông gắn chặt với luân thường đạo lý và đạo đức cá nhân. Ông cho rằng chỉ những người quân tử liêm khiết và tuân theo đạo của người quân tử thì mới được cầm quyền, và những tư cách của những nhân vật đó phải kiên định với địa vị trong xã hội. Ông ta cũng nói rằng "Triều đại tốt cốt ở vua làm tròn bổn phận của vua, bề tôi làm tròn bổn phận của bề tôi, cha làm tròn bổn phận của cha, và con làm tròn bổn phận của con."[14]

Platoː Triết gia Hy Lạp cổ đại Plato (428– 328 TCN) nói trong sách Nền Cộng hòa (The Republic) rằng tất cả những chế độ chính trị theo truyền thống như (dân chủ, quân chủ, chính thể đầu sỏ,chính thể hào hiệp - democracy, monarchy, oligarchy và timarchy) vốn đã đồi bại, tham nhũng và nhà nước nên được điều hành bởi tầng lớp những người cầm quyền cũng là triết gia được giáo dục tốt. Họ được đào tạo từ lúc chào đời và được chọn dựa trên năng lực: "những người có kỹ năng đặc biệt về quan sát tổng quan xã hội." [15]

Aristotleː Trong cuốn Chính trị của mình, triết gia Hy Lạp cổ đại Aristotle (384–322 TCN) quả quyết rằng về bản chất, con người là một động vật chính trị. Ông ta cho rằng luân thường và chính trị có liên kết chặt chẽ với nhau, và một đời sống thật sự đạo đức chỉ có thể có ở những người tham gia vào chính trị.[16] Giống như Plato, Aristotle thấy rằng có nhiều hình thức nhà nước khác nhau, và ông cho rằng hình thức "đúng" của nhà nước có thể biến thành một hình thức nhà nước "lệch lạc", nơi mà thể chế bị mục nát. Theo ông, chế độ quân chủ, có một người cai trị, sẽ biến thành chuyên chế; chế độ quý tộc, với một nhóm nhỏ người cai trị, sẽ biến thành chính thể đầu sỏ; và xã hội có tổ chức (polity) do nhiều người dân cùng cai trị thì sẽ biến thành chế độ dân chủ.[17] Theo nghĩa này, Aristotle không dùng từ "democracy" như nghĩa hiện nay là nó mang nghĩa rộng, nhưng có nghĩa đen là do demos, hay thường dân cai trị.[17] Một cái nhìn chính xác hơn về dân chủ mà Aristotle đề cập đến chỉ là chính quyền quần chúng (ochlocracy).

Niccolò Machiavelliː Trong sách của mình, cuốn The Prince (Quân vương), nhà lý luận chính trị người Ý ở giai đoạn Phục Hưng ông Niccolò Machiavelli đề nghị một tầm nhìn thế giới về chính trị để miêu tả các phương pháp thực tế cho chế độ chuyên quyền để giành và giữ quyền lực chính trị. Ông thường được xem là người phản đối quan điểm đạo đức truyền thống đối với người cầm quyền: "đối với Machiavelli, không có nền tảng đạo đức mà ở đó phân xử sự khác nhau giữa việc sử dụng quyền lực hợp pháp hay bất hợp pháp." [18] Thuật ngữ Machiavellian (cũng có nghĩa là xảo quyệt) ra đời, đề cập đến một người thiếu đạo đức dùng các cách mánh khóe để cố thủ quyền hành. Học thuyết của ông đã được các lãnh đạo học tập và thực hành kể cả những lãnh đạo chuyên chế toàn trị như Benito Mussolini và Adolf Hitler, những người đã biện hộ cho việc hành động tàn bạo của mình là cho mục đích an toàn quốc gia.[19] Tuy nhiên, nhiều học giả đã nghi vấn quan điểm này của chủ thuyết Machiavelli, cho rằng "Machiavelli không sáng tạo ra chủ nghĩa Machiavelli", và chưa từng là một 'Machiavellian' quỷ quyệt như ông đã bị gán cho."[20] Thay vào đó, Machiavelli xem trạng thái ổn định của quốc gia là mục tiêu quan trọng hàng đầu, và tranh luận rằng theo truyền thống phẩm chất tốt được xem là khát vọng mang tính đạo đức, như tính độ lượng, đã không được ưa thích đối với người lãnh đạo và có thể dẫn đến việc mất quyền lực chính trị.

John Stuart Mill

John Stuart Millː Vào thế kỷ XIX, John Stuart Mill là người đi tiên phong trong việc dùng khái niệm tự do trong chính trị. Ông ta đã thấy được rằng dân chủ sẽ là sự phát triển chính trị chủ chốt trong thời đại ông ta[21] và, trong cuốn Bàn về tự do (On Liberty) của mình, ông đã cổ vũ cho việc bảo vệ tốt hơn các quyền cá nhân và chống lại ảnh hưởng của nhà nước và sự cầm quyền của đa số. Ông ta cho rằng tự do là quyền quan trọng nhất của loài người.[22] Một nhà bình luận cho rằng cuốn Bàn về tự do như là một lời bảo vệ hùng hồn và mạnh mẽ nhất cho chủ nghĩa tự do chúng ta có."[22] Ông cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của tự do ngôn luận, và tuyên bố rằng chúng ta không thể chắc chắn rằng ý kiến mà chúng ta cố gắng ngắt lời là ý kiến sai trái, và nếu chúng ta chắc chắn như vậy thì việc ngắt lời vẫn là điều sai quấy."[23]

Karl Marx là một trong số những nhà tư tưởng chính trị có ảnh hưởng trong lịch sử. Học thuyết của ông chỉ trích chủ nghĩa tư bản và ông biện luận rằng trong tương lai sẽ có "sự suy tàn không tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản vì các nguyên nhân kinh tế, và được thay thế bởi chủ nghĩa xã hội."[24] Ông ta định nghĩa lịch sử có liên quan đến đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản, hay giai cấp sở hữu tư liệu sản xuất, và giai cấp vô sản, hay giai cấp lao động. Cuộc đấu tranh được sự công nghiệp hóa tăng cường.[25] Nhiều phong trào chính trị sau đó dựa trên tư tưởng của Marx, cho ra các phiên bản rất khác nhau của chủ nghĩa cộng sản; bao gồm Chủ nghĩa Marx-Lenin, Chủ nghĩa Mao, và Chủ nghĩa Marx tự do. Có thể nói rằng người đã người thể hiện học thuyết chủ nghĩa Marx có ảnh hưởng nhất là Lenin, người sáng lập ra Liên Xô. Ông đã sáng tạo học thuyết cách mạng dựa trên nền tảng tư tưởng Marx. Tuy nhiên, những nhà tư tưởng theo Chủ nghĩa Marx tự do đã thách thức sự diễn dịch chủ nghĩa Marx của Lenin; như trường hợp Cornelius Castoriadis, đã miêu tả nhà nước Liên Xô là một hình thức của "chủ nghĩa tư bản quan liêu" hơn là nhà nước cộng sản thực sự.[26]

Thể chế chính trị

[sửa | sửa mã nguồn] Xem thêm: Hiến pháp và Luật pháp

Thể chế chính trị (Political Institute) là những quy định, quy chế, chuẩn mực, quy phạm, nguyên tắc, luật lệ...nhằm điều chỉnh và xác lập các quan hệ chính trị. Mặt khác là những dạng thức cấu trúc tổ chức, các bộ phận chức năng cấu thành của một chủ thể chính trị hay hệ thống chính trị. Thể chế chính trị là hình thức biểu hiện của hệ tư tưởng chính trị, là "con đẻ" của hệ tư tưởng chính trị. Hệ thống chính trị là một bộ phận cấu thành của thể chế chính trị. Thể chế chính trị tồn tại dưới hai dạng thức:[12]

Các quy định, quy chế, quy phạmː Những điều này tồn tại trong các tuyên ngôn về Cương Lĩnh chính trị, điều lệ của một Đảng cầm quyền, những chỉ thị, Nghị quyết của Đảng đó. Đồng thời cũng là các quy định Pháp luật mang tính thành văn hoặc bất thành văn của một quốc gia do giai cấp thống trị ban hành và cưỡng chế thực hiện trên phạm vi toàn lãnh thổ quốc gia đó. Các quy phạm pháp luật này là tồn tại chủ yếu của thể chế chính trị dưới dạng này và chứa trong các Hiến pháp, pháp luật....của quốc gia[12]

Các hình thức cấu trúc tổ chức. Điều này hàm chỉ các tổ chức là thực thể cấu thành hệ thống chính trị có chức năng thực thi quyền lực chính trị[12]

Tổ chức chính trị

[sửa | sửa mã nguồn]

Tổ chức chính trị hay Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các thiết chế quyền lực chính trị, được xã hội thừa nhận bao gồm các tổ chức chính trị như Đảng phái, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội có mối quan hệ mang tính pháp quy với nhau cùng liên kết nhằm thực hiện mục tiêu chính trị phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị. Cấu thành hệ thống chính trị bao gồm các thực thể nhưː Đảng chính trị, Nhà nước, các tổ chức đại diện cho các lực lượng khác nhau trong xã hội.[12]

Đảng phái chính trị

[sửa | sửa mã nguồn]

Đảng là một tổ chức xã hội tự nguyện, tập hợp những người có những đặc điểm chung nhất định, tuân thủ theo những quy tắc nhất định, cùng thực hiện những nhiệm vụ nhất định nhằm thỏa mãn mục tiêu nào đó. Khi một Đảng có mục tiêu chính trị, tập hợp những người có chung một đặc điểm là cùng một giai cấp, cùng có mong muốn đấu tranh giành quyền lực chính trị, thì Đảng đó là Đảng chính trị[27]

Đảng chính trị là bộ phận tích cực nhất và có tổ chức của một giai cấp, làm công cụ đấu tranh cho lợi ích của giai cấp mình. Các Đảng chính trị xuất hiện ngay từ những giai đoạn phát triển đầu tiên của xã hội có giai cấp, gắn liền với những sự khác nhau về lợi ích của các giai cấp và của các tập đoàn hợp thành giai cấp. Nhưng lịch sử thực sự của các Đảng chính trị chỉ bắt đầu từ thời kì Đại cách mạng tư sản Pháp (cuối thế kỷ XVIII).[27]

Đảng chính trị là một tổ chức xã hội tự nguyện, liên minh của những người cùng tư tưởng, theo đuổi những mục đích chính trị nhất định; cố gắng giành ảnh hưởng lãnh đạo đối với đời sống chính trị và tổ chức xã hội, ra sức giành và giữ chính quyền để thực hiện đường lối của mình. Là một bộ phận cấu thành của kiến trúc thượng tầng, Đảng chính trị hành động bằng thuyết phục, truyền bá các quan điểm tư tưởng, bằng cách tập hợp những người cùng chí hướng. Đảng chính trị có những phương tiện vật chất như các cơ quan báo chí, thông tin và xuất bản. Đảng thu hút vào hàng ngũ của mình bộ phận tích cực nhất của giai cấp, chứ không bao giờ toàn bộ giai cấp. Tùy theo giai cấp đóng vai trò như thế nào trong đời sống và trong sự phát triển xã hội (vai trò cách mạng tiến bộ, bảo thủ, phản động) mà đảng của nó thể hiện vai trò đại diện cho lợi ích của giai cấp.[27]

Nhà nước

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Xem thêmː Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp

Nhà nước là một thiết chế quyền lực đặc biệt, là một công cụ do Đảng chính trị và giai cấp thống trị lập ra nhằm duy trì sự thống trị và đảm bảo quyền lợi của giai cấp đó, đồng thời trấn áp giai cấp, tầng lớp khác. Về hình thức, tuỳ vào từng quan hệ sản xuất xã hội khác nhau trong lịch sử mà tồn tại các kiểu và các hình thức Nhà nước khác nhau. Ở xã hội chiếm hữu nô lệ, có bốn phương thức hình thành Nhà nước gồm: Phương thức Aten, Phương thức Roma cổ đại, phương thức Giec  - manh và phương thức phương Đông cổ đại. Ở xã hội phong kiến, quyền lực tập trung mạnh mẽ vào một vị vua được gọi là "thiên tử". Do đó, vua là người đứng đầu nắm toàn bộ quyền hành điều khiển Nhà nước, tiếp đến là hệ thống quan lại, quý tộc từ trung ương đến địa phương. Sang chế độ tư bản chủ nghĩa thì Nhà nước được tổ chức theo học thuyết Tam quyền phân lập với nhiều hình thức khác nhau: Chính thể quân chủ lập hiến, chính thể cộng hoà tổng thống, chính thể cộng hoà đại nghị. Đặc điểm chung của Nhà nước tư sản là sự phân chia quyền lực nhà nước thành các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các quyền này độc lập, đối trọng, kiềm chế và kiểm soát lẫn nhau. Nhà nước xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên nền tảng quyền lực Nhà nước là thống nhất thuộc về nhân dân, nhưng có sự phân chia với nhau trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.[28] 

Nhà nước có vai trò vô cùng quan trọng, là trụ cột của hệ thống chính trị. Thông qua các cơ chế quyền lực, Nhà nước quản lý toàn bộ các mặt của đời sống xã hội: Quyền lập pháp giúp Nhà nước ban hành pháp luật, quyền hành pháp giúp Nhà nước tổ chức và thực thi pháp luật, quản lý nền sản xuất, quản lý đời sống xã hội, quyền tư pháp giúp Nhà nước kiểm sát và xét xử các hành vi vi phạm pháp luật, chống lại chế độ kinh tế, chính trị của quốc gia, dân tộc,... hoạt động của Nhà nước chính là trung tâm của sự vận hành hệ thống chính trị.[28]

Các tổ chức liên minh đại diện

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Xem thêmː Liên Hợp Quốc

Các tổ chức liên minh, liên kết, đại diện cho các lực lượng khác nhau trong xã hội. Đó là các tổ chức đoàn kết toàn dân tộc, các tổ chức đại diện cho quyền và lợi ích của các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội. Các tổ chức này góp phần tham gia vào hoạt động của hệ thống chính trị trong việc tạo ra khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bảo vệ lợi ích cho các giai tầng xã hội trước giai cấp thống trị. Một mặt các tổ chức này đóng vai trò lớn trong hệ thống chính trị, góp phần xây dựng và hoàn thiện hệ thống này; mặt khác, trong nhiều trường hợp chính các tổ chức này lại là nguyên nhân phá vỡ hệ thống chính trị hiện thời. Đó là khi một giai cấp tiến bộ trong lịch sử ra đời, có tổ chức tiên phong, đại diện xong chưa nắm được quyền lực chính trị. Khi đó, thông qua con đường bạo lực cách mạng, nó sẽ lật đổ chính quyền của giai cấp thống trị lỗi thời, lạc hậu, cũng tức là đạp đổ hệ thống chính trị hiện thời để xây dựng lên một hệ thống chính trị mới mang bản chất giai cấp của chính nó.[28]

Khoa học chính trị

[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: Khoa học chính trị

Chính trị học

[sửa | sửa mã nguồn]

Chính trị học là nghiên cứu quyền lực chính trị, phương thức giành quyền lực chính trị, các thiết chế và các hình thức tổ chức thực hiện quyền lực chính trị, các kiểu hệ thống chính trị đã có trong lịch sử và đang tồn tại trong thời đại ngày nay.[29]

Chính trị học cũng nghiên cứu quá trình hoạt động chính trị nhằm giành chính quyền, duy trì và sử dụng quyền lực chính trị. Chú ý nghiên cứu làm rõ các vấn đề: mục tiêu chính trị trước mắt và mục tiêu lâu dài mang tính hiện thực; những biện pháp, phương tiện, thủ thuật, hình thức tổ chức có hiệu quả để đạt các mục tiêu đề ra; sự lựa chọn và sắp xếp cán bộ. Chính trị học cũng nghiên cứu các mối quan hệ về lí luận chính trị của các chế độ xã hội.[29]

Triết học chính trị

[sửa | sửa mã nguồn]

Triết học chính trị nghiên cứu các vấn đề cơ bản về nhà nước, chính quyền, chính trị, tự do, công lý, tài sản, quyền, luật và việc thực thi luật pháp bởi các cơ quan thẩm quyền. Mục tiêu nghiên cứu của triết học chính trị nhằm lý giải về mối quan hệ cũng như sự tồn tại của các vấn đề trên một cách thấu đáo bởi các nhà triết học; cụ thể là trả lời các câu hỏi như những yếu tố kể trên là gì, tại sao lại phải có chúng, cái gì khiến cho chính quyền là hợp pháp, những quyền và tự do nào cần được bảo vệ và tại sao, luật pháp là gì và khi nào có thể hủy bỏ luật một cách hợp lẽ.

Xã hội học chính trị

[sửa | sửa mã nguồn]

Xã hội học chính trị đương đại liên quan đến, nhưng không giới hạn, việc nghiên cứu về các mối quan hệ giữa nhà nước, xã hội và công dân. Nghiên cứu về sự hình thành chính trị xã hội của nhà nước hiện đại; sự bất bình đẳng xã hội giữa các nhóm (giai cấp, chủng tộc, giới tính) ảnh hưởng đến chính trị như thế nào; các quan điểm, tư tưởng, tính cách, phong trào xã hội và xu hướng bên ngoài của các tổ chức chính thức của quyền lực chính trị ảnh hưởng đến chính trị chính thức; nghiên cứu mối quan hệ quyền lực trong và giữa các nhóm xã hội (ví dụ như gia đình, nơi làm việc, quan liêu, truyền thông...). Nói cách khác, xã hội học chính trị thường liên quan đến các xu thế xã hội, hệ thống chính trị ảnh hưởng đến các quá trình hoạt động chính trị cũng như tìm hiểu xem các lực lượng xã hội khác nhau làm việc cùng nhau như thế nào để thay đổi các chính sách chính trị. Từ quan điểm này, chúng ta có thể xác định ba khung lý thuyết chính đó làː đa nguyên, lý thuyết ưu tú hoặc quản lý và phân tích lớp (mà trùng lặp với chủ nghĩa Mác phân tích)[30]

Kinh tế chính trị học

[sửa | sửa mã nguồn]

Kinh tế chính trị học là một môn khoa học xã hội nằm trong khoa học kinh tế, nghiên cứu về kinh tế để rút ra các kết luận về kinh tế và từ đó rút ra các kết luận về chính trị. Theo Enghen: "Kinh tế chính trị học theo nghĩa rộng nhất là khoa học về những quy luật chi phối sự sản xuất và sự trao đổi những tư liệu sinh hoạt vật chất trong xã hội loài người..."  Theo nghĩa hẹp, kinh tế chính trị học nghiên cứu một phương thức sản xuất cụ thể và tìm ra quy luật vận động của riêng nó. Kinh tế chính trị học là môn khoa học xã hội nghiên cứu những cơ sở kinh tế chung của đời sống xã hội tức là các quan hệ kinh tế trong những giai đoạn nhất định của xã hội loài người.[31]

Xã hội chính trị

[sửa | sửa mã nguồn]

Địa chính trị

[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: Địa chính trị

Địa chính trị (tiếng Anh: Geo-politics) là lĩnh vực nghiên cứu về tác động của các yếu tố địa lý tới hành vi của các quốc gia và quan hệ quốc tế. Cụ thể, địa chính trị xem xét việc các yếu tố như vị trí địa lý, khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, dân số, hay địa hình tác động như thế nào tới chính sách đối ngoại của một quốc gia và vị thế của quốc gia đó trong hệ thống quốc tế.[32]

Tham nhũng chính trị

[sửa | sửa mã nguồn]

Tham nhũng chính trị là việc sử dụng quyền lực của các quan chức chính phủ vì lợi ích cá nhân bất hợp pháp. Hành vi bất hợp pháp của một chủ văn phòng chỉ là tham nhũng chính trị chỉ khi hành động đó liên quan trực tiếp đến các nghĩa vụ chính thức của họ, được thực hiện theo luật màu sắc hoặc liên quan đến việc buôn bán ảnh hưởng[33]

Các hình thức tham nhũng khác nhau, bao gồm hối lộ, tống tiền, chủ nghĩa địa phương, bảo trợ, ảnh hưởng đến việc bán rong và biển thủ. Tham nhũng có thể tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hình sự như buôn lậu ma túy, rửa tiền và buôn bán người, mặc dù không hạn chế trong các hoạt động này. Sử dụng sai quyền lực của chính phủ cho các mục đích khác, như đàn áp các đối thủ chính trị và tàn bạo của cảnh sát nói chung.[34]

Các hoạt động tạo thành sự tham nhũng bất hợp pháp khác nhau tùy thuộc vào quốc gia hoặc thẩm quyền. Ví dụ, một số thực tiễn về chính sách tài chính hợp pháp tại một nơi có thể là bất hợp pháp ở một nơi khác. Trong một số trường hợp, các quan chức chính phủ có quyền hạn rộng hoặc không rõ ràng, làm cho việc phân biệt giữa các hành động pháp lý và bất hợp pháp rất khó khăn. Trên toàn cầu, hối lộ ước tính khoảng hơn 1 nghìn tỷ đô la Mỹ mỗi năm.  Một quốc gia tham nhũng chính trị tự do được biết đến như một nhà kleptocracy, nghĩa đen là "cai trị bởi kẻ trộm". Một số hình thức tham nhũng - hiện nay được gọi là "tham nhũng về thể chế"  - được phân biệt với hối lộ và các loại lợi ích cá nhân rõ rệt khác. Một vấn đề tương tự về tham nhũng phát sinh trong bất kỳ tổ chức nào phụ thuộc vào sự hỗ trợ tài chính từ những người có quyền lợi có thể mâu thuẫn với mục đích chính của tổ chức.[34]

Chính trị toàn cầu

[sửa | sửa mã nguồn]

Chính trị toàn cầu đặt tên cho cả hai lĩnh vực nghiên cứu các mô hình chính trị và kinh tế của thế giới và lĩnh vực đang được nghiên cứu. Trọng tâm của lĩnh vực đó là các quá trình toàn cầu hoá chính trị khác nhau liên quan đến vấn đề quyền lực xã hội. Các ngành học nghiên cứu các mối quan hệ giữa các thành phố, quốc gia-quốc gia, vỏ-các quốc gia, các tập đoàn đa quốc gia, các tổ chức phi chính phủvà các tổ chức quốc tế.  khu vực hiện tại của cuộc thảo luận bao gồm quốc gia và dân tộc quy định mâu thuẫn, dân chủ và chính trị của quốc gia tự quyết, toàn cầu hóa và mối quan hệ của mình để nghiên cứu chế độ dân chủ, xung đột và hòa bình, chính trị so sánh, kinh tế chính trị, và kinh tế chính trị quốc tế về môi trường. Một lĩnh vực quan trọng của chính trị toàn cầu là cuộc tranh luận trong lĩnh vực chính trị toàn cầu về tính hợp pháp.  Có thể lập luận rằng, chính trị toàn cầu nên được phân biệt với lĩnh vực chính trị quốc tế, nhằm tìm hiểu mối quan hệ chính trị giữa các quốc gia, và do đó có một phạm vi hẹp hơn. Tương tự, quan hệ quốc tế nhằm tìm hiểu mối quan hệ kinh tế và chính trị chung giữa các quốc gia, là một lĩnh vực hẹp hơn chính trị toàn cầu.[35]

Thủ lĩnh chính trị

[sửa | sửa mã nguồn]

Thủ lĩnh chính trị là một cá nhân kiệt xuất trong lĩnh vực chính trị, xuất hiện và trưởng thành từ phong trào cách mạng của quần chúng ở những điều kiện lịch sử nhất định, có sự giác ngộ về lợi ích, mục tiêu và lý tưởng của giai cấp, có tri thức, có năng lực tổ chức và tập hợp quần chúng để giải quyết những nhiệm vụ chính trị do lịch sử đặt ra.[36] Một số thủ lĩnh chính trị nổi tiếng nhưː Chủ tịch Hồ Chí Minh, Lãnh tụ Cuba Fidel Castro, Chủ tịch Mao Trạch Đông

  • Về trình độ hiểu biết: Người thủ lĩnh chính trị nhất thiết phải là người thông minh, hiểu biết sâu rộng các lĩnh vực; có tư duy khoa học; nắm vững được quy luật phát triển theo hướng vận động của quá trình chính trị; có khả năng dự đoán được tình hình; làm chủ được khoa học và công nghệ lãnh đạo, quản lý.[36]
  • Về phẩm chất chính trị: thủ lĩnh chính trị phải là người giác ngộ lợi ích giai cấp; đại diện tiêu biểu cho lợi ích giai cấp; trung thành với mục tiêu lý tưởng đã chọn; dũng cảm đấu tranh bảo vệ lợi ích giai cấp, có bản lĩnh chính trị vững vàng trước những diễn biến phức tạp của lịch sử.[36] 
  • Về năng lực tổ chức: thủ lĩnh chính trị là ngưới có khả năng về công tác tổ chức, nghĩa là biết đề ra mục tiêu đúng; phân công nhiệm vụ đúng chức năng cho cấp dưới và cho từng người; biết tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị; có khả năng động viên, cổ vũ, khích lệ mọi người hoạt động; có khả năng kiểm soát, kiểm tra công việc.[36]
  • Về đạo đức, tác phong:  thủ lĩnh chính trị phải là người có tính trung thực, công bằng không tham lam, vụ lợi; cởi mở và cương quyết; có lối sống giản dị; có khả năng giao tiếp và có quan hệ tốt với mọi người; biết lắng nghe ý kiến của người khác; có lòng tin vào chính bản thân mình; có khả năng tự kiểm tra bản  thân, khả năng giữ gìn và bảo vệ ý kiến của mình; có lòng say mê công việc và lòng tin vào cấp dưới.[36]
  • Về khả năng làm việc: có sức khỏe tốt, khả năng làm việc với cường độ cao, có khả năng giải quyết vấn đề một cách sáng tạo, những lúc phong trào lâm vào khó khăn, thủ lĩnh chính trị có thể đưa ra được những quyết đinh sáng suốt; nhạy cảm và năng động; biết cảm nhận cái mới và đấu tranh vì cái mới.[36]

Quyền lực chính trị

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Xem thêmː Tam quyền phân lập

Quyền lực là sức mạnh để thực hiện  hành vi tác động đến người khác thông qua sự thừa nhận của họ. Quyền lực là năng lực buộc người khác phải thực hiện ý chí của mình. Quyền lực là một quan hệ xã hội đặc biệt, xuất hiện khi có sự chỉ huy  -  phục tùng của một người hay một nhóm người đối với một người hay một nhóm người khác. Nếu chỉ có chủ thể quyền lực mà không có đối tượng chịu sự tác động của quyền lực thì quyền lực đó là rỗng không[37]

Quyền lực chính trị là quyền sử dụng sức mạnh của một hay liên minh giai cấp, tập đoàn xã hội để đạt mục đích thống trị xã hội, thoả mãn lợi ích giai cấp mình. Đặc điểm của quyền lực chính trị là quyền lực xã hội nhằm để giải quyết lợi ích giai cấp, lợi ích quốc gia, nhân loại; là khả năng áp đặt và thực thi các giải pháp phân bổ giá trị có lợi cho một giai cấp; là sức mạnh bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp giai cấp khác.[37]

Đấu tranh chính trị

[sửa | sửa mã nguồn]

Đấu tranh chính trị là việc sử dụng các phương tiện chính trị buộc một đối thủ phải làm theo ý muốn, dựa trên ý định thù địch. Thuật ngữ chính trị mô tả tương tác được tính toán giữa chính phủ và đối tượng mục tiêu bao gồm cả số dân của chính phủ, quân đội hoặc tổng dân số của một quốc gia khác. Các chính phủ sử dụng nhiều kỹ thuật để ép buộc các hành động nhất định, qua đó đạt được lợi thế tương đối so với đối thủ. Các kỹ thuật bao gồm các hoạt động tuyên truyền và tâm lý, phục vụ mục tiêu quốc gia và quân sự tương ứng. Tuyên truyền có nhiều khía cạnh và một mục đích chính trị thù địch và cưỡng chế. Các hoạt động tâm lý là dành cho các mục tiêu chiến lược và chiến thuật quân sự và có thể được dành cho các nhóm quân đội và dân sự thù địch[38]

Mục tiêu cuối cùng của đấu tranh chính trị là thay đổi quan điểm và hành động của đối phương nhằm ủng hộ lợi ích của một quốc gia mà không sử dụng quyền lực quân sự. Kiểu thuyết phục hoặc ép buộc có tổ chức này cũng có mục đích thực tế để cứu mạng sống bằng cách tránh sử dụng bạo lực nhằm mục đích chính trị hơn nữa. Do đó, chiến tranh chính trị cũng liên quan đến "nghệ thuật làm bạn bè nồng nhiệt và làm phiền kẻ thù, giúp đỡ vì một người gây ra và từ bỏ kẻ thù"[39]

Phong trào chính trị

[sửa | sửa mã nguồn]

Phong trào chính trị là một nhóm xã hội hoạt động, hành động cùng nhau để đạt được mục tiêu chính trị, trên phạm vi địa phương, khu vực, quốc gia hoặc quốc tế. Các phong trào chính trị phát triển, điều phối,  ban hành,  sửa đổi, diễn giải và sản xuất các tài liệu nhằm mục đích giải quyết các mục tiêu nhất định nào đó. Một phong trào xã hội trong lĩnh vực chính trị có thể được tổ chức xung quanh một vấn đề hoặc tập hợp các vấn đề hoặc xung quanh một tập hợp các mối quan tâm chung của một nhóm xã hội. Trong một đảng chính trị, một tổ chức chính trị cố gắng gây ảnh hưởng hoặc kiểm soát chính sách của chính phủ, thường bằng cách chỉ định ứng cử viên của họ và ứng cử viên vào các vị trí chính trị và chính phủ. Ngoài ra, các bên tham gia vào các chiến dịch bầu cử và tiếp cận giáo dục, kháng nghị những hành động nhằm thuyết phục công dân hoặc các chính phủ phải có hành động về các vấn đề và mối quan tâm đó là trọng tâm của phong trào.[40]

Kinh tế chính trị

[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: Kinh tế chính trị

Kinh tế chính trị là các quá trình và hiện tượng trong đời sống kinh tế, chính trị và xã hội, bản chất, quy luật chi phối sự vận động của các quá trình, hiện tượng kinh tế khách quan vận dụng vào các hoạt động kinh tế để đạt hiệu quả kinh tế cao trên cơ sở phân tích quá trình, hiện tượng,dự báo. Kinh tế chính trị không dựa vào đơn thuần tiến trình lịch sử, mô tả đơn thuần các sự kiện lịch sử mà căn cứ vào tiến trình lịch sử phát triển của các quan hệ sản xuất, dùng phương pháp tư duy và lý luận lôgic để vạch ra những quy luật kinh tế chi phối sự vận động của mỗi phương thức sản xuất. Kinh tế chính trị không chỉ dừng lại ở tiếp cận các sự kiện mà phải thâm nhập vào bản thân đời sống kinh tế xã hội, chỉ ra các phương pháp vận dụng lý thuyết kinh tế vào đời sống thực tế.[31]

Ngoài ra, Kinh tế chính trị là ngành nghiên cứu những quan hệ sản xuất của con người trong mối liên hệ qua lại với lực lượng sản xuất, với kiến trúc thượng tầng. Nó đi sâu vạch rõ bản chất của các hiện tượng và quá trình kinh tế để rút ra quy luật chi phối sản xuất, phân phối, trao đối, tiêu dùng, tức là rút ra các quy luật kinh tế của sự vận động xã hội. Đối tượng của kinh tế chính trị là nghiên cứu một cách toàn diện, tổng hợp về các quan hệ sản xuất.[31]

  • Chủ nghĩa trọng thương: đối tượng là lĩnh vực lưu thông, chủ yếu là ngoại thương.[31] 
  • Chủ nghĩa trọng nông: đối tượng là lĩnh vực sản xuất nông nghiệp.[31] 
  • Kinh tế chính trị tư sảnː những quy luật kinh tế song cho rằng chủ nghĩa tư bản là tuyệt đối, vĩnh viễn, không nhìn thấy toàn bộ quy luật vận động và phát triển xã hội.[31] 
  • Kinh tế chính trị hiện đại. Tập trung vào kinh tế thuần tuý, tách kinh tế khỏi chính trị, che đậy quan hệ sản xuất và mâu thuẫn giai cấp.[31]

Văn hóa chính trị

[sửa | sửa mã nguồn]

Văn hóa là toàn bộ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra hoặc tác động vào nhằm phục vụ mục đích cuộc sống con người.[41]

Văn hóa chính trị là một lĩnh vực, một biểu hiện đặc biệt của văn hóa của loài người trong xã hội có giai cấp, văn hóa chính trị được hiểu là trình  độ phát triển của con người thể hiện ở trình độ hiểu biết về chính trị, trình độ tổ chức hệ thống tổ chức quyền lực theo một chuẩn giá trị xã hội nhất định nhằm  điều hòa các quan hệ lợi ích giữa các giai cấp và bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền, phù hợp với xu thế phát triển và tiến bộ xã hội.[41]

Sẽ là rất khó nếu có thể liệt kê tất cả các các giá trị, chuẩn mực của văn hoá chính trị. Nhưng  trong tất cả các kiểu, các hình thức văn hoá chính trị, có thể xem xét các hệ giá trị cấu thành một nền văn hoá chính trị như sauː trình độ giác ngộ lý luận chính trị, lập trường, quan điểm của giai cấp. Hệ thống các giá, trị chuẩn mực phù hợp với lợi ích của giai cấp được cụ thể hoá dưới dạng các quy phạm pháp luật, có chức năng điều chỉnh hành vi của toàn xã hội. Tập hợp những giá trị được quy phạm hoá thành những chuẩn mực có chức năng điều chỉnh các chủ thể tham gia vào đời sống chính trị[41]

Nhân vật chính trị

[sửa | sửa mã nguồn]

Chính khách hay Nhà Chính trị hay Chính trị gia là một người hoạt động tích cực trong Đảng chính trị hoặc một người giữ hoặc tìm kiếm vị trí trong Chính phủ. Ở các quốc gia dân chủ, các chính trị gia tìm kiếm các vị trí tự chọn trong chính phủ thông qua bầu cử hoặc, đôi khi, bổ nhiệm tạm thời để thay thế các chính trị gia đã chết, từ chức hoặc đã bị bãi nhiệm.Tại các quốc gia phi dân chủ, họ sử dụng các phương tiện khác để đạt được quyền lực thông qua cuộc hẹn, hối lộ, cuộc cách mạng và mưu đồ. Một số chính trị gia cũng có kinh nghiệm trong nghệ thuật hoặc khoa học. Các nhà chính trị đề xuất, hỗ trợ và tạo ra các luật lệ hoặc chính sách chi phối đất đai. Nói chung, một "nhà chính trị" có thể là bất cứ ai đang tìm cách đạt được quyền lực chính trị ở bất kỳ cơ quan hành chính nào. Chính khách của bất cứ quốc gia nào cũng phải biết diễn thuyết nghĩa là hùng biện, có ngữ điệu, diễn giải có logic, nói đúng, rõ ràng bản chất sự việc, nguyên nhân các vấn đề và các giải pháp khắc phục. Chính khách là một nghề nên rất chuyên nghiệp do đó họ rất giữ danh giá, gắn bó với cộng đồng (đối tượng mà họ kiếm phiếu). Chính trị chính là sản phẩm của chính khách.[42]

Học giả chính trị là người chuyên nghiên cứu, tìm hiểu sâu, chi tiết về lĩnh vực chính trị. Đó là những người tự học, thường xuyên, không mệt mỏi và có phương pháp tiếp cận tốt đối với lĩnh vực chính trị. Các học giả chính trị thường có ảnh hưởng, đóng góp, cống hiến quan trọng trong lĩnh vực chính trị thường có các giải thưởng cao quý hoặc được vinh danh ở cấp độ quốc gia hoặc quốc tế. Các công trình nghiên cứu của họ có tầm ảnh hưởng quan trọng trong lĩnh vực giáo dục cao cấp, ảnh hưởng đến một số trường đại học. Ngoài ra các học giả chính trị cũng là một giáo sư đại học, nhà văn chính trị, nhà phê bình chính trị, phóng viên chính trị hoặc giữ các chức vụ quan trọng trong các trường đào tạo về chính trị.[43]

Xem thêm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Lý thuyết móng ngựa
  • Đề cương chính trị
  • Chính trị học
  • �chính trị Việt Nam

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Tài liệu Tiếng Việt

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Chính trị học Đại cương, Trường Đại học Khoa học thuộc Đại học Thái Nguyên, Bùi Trọng Tài, Lê Văn Cảnh, 2011.
  • Bộ giáo dục và Đào tạo. Giáo trình Triết học Mác - Lênnin(Dùng trong các trường Cao đẳng, Đại học). Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. Hà Nội, 2004
  • Phạm Tất Dong - Lê Ngọc Hùng. Xã hội học. Nhà xuất bản Thế giới. Hà Nội, 2008 
  • Trần Thái Dương. Hỏi đáp những tri thức cơ bản môn lý luận Nhà nước và pháp luật. Nhà xuất bản Tư pháp. Hà Nội, 2004. 
  • Bùi Xuân Đính. Nhà nước và pháp luật thời Phong kiến Việt Nam-  những suy ngẫm. Nhà xuất bản Tư pháp. Hà Nội, 2005. 
  • TS. Đinh Văn Mậu - TS. Phạm Hồng Thái: Lý luận chung về nhà nước và pháp luật. Nhà xuất bản Tổng hợp Đồng Nai, Biên Hoà, 2005. 
  • Nguyễn Hữu Khiển, Đinh Văn Mậu, Phạm Bính, Giáo Trình Chính trị Học Nhà xuất bản Đại Học Quốc gia 2003
  • PGS. TS Thái Vĩnh Thắng- PGS. TS Nguyễn Đăng Dung  - Nguyễn Chu Dương.  Thể chế chính trị các nước châu Âu. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. Hà Nội, 2008. 
  • Trung tâm Nghiên cứu xuất bản sách và tạp chí.- Trương Thìn. Hương ước xưa và quy ước làng văn hoá ngày nay. Nhà xuất bản Lao động xã hội, Hà Nội, 2005 
  • Nguyễn Trọng Luật.Tập bài giảng chính trị học đại cương. Tài liệu lưu hành nội bộ 
  • GS.TS Dương Xuân Ngọc - TS. Lưu Văn An. Tìm hiểu môn chính trị học dưới dạng hỏi và đáp. Nhà xuất bản Lý luận chính trị. Hà Nội, 2007. 
  • Lê Hồng Lôi (Lê Quốc Khánh, Trần Thị Thuý Ngọc dich). Đạo của Quản lý. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2004. 
  • Hội đồng trung  ương chỉ đạo biên soạn giáo trình Quốc gia các Bộ môn khoa học Mác- Lênin, Tư tưởng HCM. Giáo trình Triết học Mác - Lênin. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. Hà Nội, 2008. 
  • Bộ giáo dục và đào tạo.  Chính trị (Dùng trong các trường trung học chuyên nghiệp). Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. Hà Nội, 2002. 
  • Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. Hà Nội, 2009. 
  • PGS.TS Nguyễn Hữu Khiển. Phân tích triết học những vấn đề cơ bản về chính trị và khoa học chính trị. Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội, 2006. 
  • Trung tâm Khoa học và nhân văn quốc gia.Viện nghiên cứu tôn giáo. GS.TS Đỗ Quang Hưng.  Bước đầu tìm hiểu về mối quan hệ giữa Nhà nước và giáo hội. Nhà xuất bản Tôn giáo. Hà Nội, 2003

Tài liệu Tiếng Anh

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Connolly, William (1981). Appearance and Reality in Politics. Cambridge: Cambridge University Press.
  • James, Paul; Soguk, Nevzat (2014). Globalization and Politics, Vol. 1: Global Political and Legal Governance. Luân Đôn: Sage Publications. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2016.
  • Ryan, Alan: On Politics: A History of Political Thought from Herodotus to the Present. Luân Đôn: Allen Lane, 2012. ISBN 978-0-713-99364-6

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Theo định nghĩa của Từ điển Bách Khoa Việt Nam Lưu trữ 2016-09-19 tại Wayback Machine. Nguyên văn: "CHÍNH TRỊ: toàn bộ những hoạt động có liên quan đến các mối quan hệ giữa các giai cấp, giữa các dân tộc, các tầng lớp xã hội, mà cốt lõi của nó là vấn đề giành chính quyền, duy trì và sử dụng quyền lực nhà nước, sự tham gia vào công việc của nhà nước, sự xác định hình thức tổ chức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà nước".
  2. ^ Chính trị học Đại cương, Đại học Thái Nguyên, 2011, trang 5.
  3. ^ a b c d e f g Chính trị học Đại cương, Đại học Thái Nguyên, 2011, trang 6
  4. ^ Andrew Heywood, Politics (third edition), Palgrave Macmillan, New York, 2007
  5. ^ a b c Chính trị học Đại cương, Đại học Thái Nguyên, 2011, trang 7
  6. ^ a b c d Chính trị học Đại cương, Đại học Thái Nguyên, 2011, trang 9
  7. ^ Waal, Frans de, (1948-...)., Auteur. (2007). Chimpanzee politics power and sex among apes. Johns Hopkins University Press. ISBN 978-0-8018-8656-0. OCLC 493546705.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  8. ^ Fukuyama, Francis. (2012). The origins of political order: from prehuman times to the French Revolution. Farrar, Straus and Giroux. tr. 56. ISBN 978-0-374-53322-9. OCLC 1082411117.
  9. ^ Spencer, Charles S.; Redmond, Elsa M. (ngày 15 tháng 9 năm 2004). “Primary State Formation in Mesoamerica”. Annual Review of Anthropology. 33 (1): 173–199. doi:10.1146/annurev.anthro.33.070203.143823. ISSN 0084-6570.
  10. ^ a b c Carneiro, Robert L. (ngày 21 tháng 8 năm 1970). “A Theory of the Origin of the State: Traditional theories of state origins are considered and rejected in favor of a new ecological hypothesis”. Science (bằng tiếng Anh). 169 (3947): 733–738. doi:10.1126/science.169.3947.733. ISSN 0036-8075. PMID 17820299.
  11. ^ Origins of the state: the anthropology of political evolution. Internet Archive. Philadelphia: Institute for the Study of Human Issues. 1978. tr. 30.Quản lý CS1: khác (liên kết)
  12. ^ a b c d e f g Chính trị học Đại cương, Đại học Thái Nguyên, 2011, trang 10
  13. ^ Confucius on Politics at the Stanford Encyclopedia of Philosophy
  14. ^ Lunyu 12.11, The Analects of Confucius (available in English here)
  15. ^ p113, Plato, The Republic, translated by Desmond Lee, 1955, Penguin Classics, ISBN 0-14-044914-0
  16. ^ Aristotle's Politics at The Internet Encyclopedia of Philosophy
  17. ^ a b Aristotle's views on politics at the Stanford Encyclopedia of Philosophy
  18. ^ Machiavelli's The Prince at the Stanford Encyclopedia of Philosophy
  19. ^ Machiavelli, Niccolò, The Prince, Editor's Introduction by Angelo Codevilla, page xvii. Yale University Press, 1997.
  20. ^ Niccolo Machiavelli at the Stanford Encyclopedia of Philosophy
  21. ^ p11, Tansey, Stephen J., Politics: The Basics, 1995, Luân Đôn, ISBN 0-145-19199-8
  22. ^ a b Social and Political Philosophy of John Stuart Mill at the Stanford Encyclopedia of Philosophy
  23. ^ p229, Mill, John Stuart, On Liberty, ISBN 1-59986-973-X (also available online here Lưu trữ 2009-02-12 tại Wayback Machine
  24. ^ Karl Marx at the Stanford Encyclopedia of Philosophy
  25. ^ Marx, K. & Engels, F. (1848), The Communist Manifesto
  26. ^ The Strange Afterlife of Cornelius Castoriadis by Scott McLemee, Chronicle of Higher Education, 26 tháng 3 năm 2004.
  27. ^ a b c Chính trị học Đại cương, Đại học Thái Nguyên, 2011, trang 52
  28. ^ a b c Chính trị học Đại cương, Đại học Thái Nguyên, 2011, trang 39
  29. ^ a b Chính trị học Đại cương, Đại học Thái Nguyên, 2011, trang 11
  30. ^ Bentley, Peter, Arnold Rose, Talcott Parsons, and Neil Smelser. "Political Sociological Theories:Theories of the State and Power." 16 Jan. 2003. Web. 28 Sept 2009
  31. ^ a b c d e f g Kinh tế Chính trị Mác – Lenin (in lần thứ hai có sửa chữa, bổ sung), Vũ Anh Tuấn, Phạm Quang Phân, Tô Đức Hạnh, Nhà xuất bản Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2007
  32. ^ Địa chính trị (Geopolitics) Lưu trữ 2016-03-05 tại Wayback Machine, Lê Hồng Hiệp, nghiencuuquocte.net
  33. ^ Dalberg-Acton, John (Lord Acton). Letter to Bishop Mandell Creighton, ngày 5 tháng 4 năm 1887. Published in Historical Essays and Studies, edited by J. N. Figgis and R. V. Laurence (Luân Đôn: Macmillan, 1907)
  34. ^ a b “Political Coruption Law & Definition”. USLegal. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2016.
  35. ^ “Globalization and Politics, Vol. 2: Global Social Movements and Global Civil Society (2014)”.
  36. ^ a b c d e f Chính trị học Đại cương, Đại học Thái Nguyên, 2011, trang 70
  37. ^ a b Chính trị học Đại cương, Đại học Thái Nguyên, 2011, trang 32
  38. ^ Smith, Paul A., On Political War (Washington: National Defense University Press, 1989), p. 7
  39. ^ Codevilla, Angelo and Paul Seabury, War: Ends and Means (Washington, DC: Potomac Books, Inc., 2006), p. 151.
  40. ^ George, Susan (2001-10-18). Một phong trào mới cho chính trị mới ". Viện xuyên quốc gia.
  41. ^ a b c Chính trị học Đại cương, Đại học Thái Nguyên, 2011, trang 60
  42. ^ “Chính khách và chính trị”.
  43. ^ “Học giả là học thật”.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn] Wikiquote có sưu tập danh ngôn về: Chính trị
  • Định nghĩa của chính trị tại Wiktionary
  • x
  • t
  • s
Ý thức hệ chính trị
  • Cánh tả
  • Trung dung
  • Cánh hữu
  • Chủ nghĩa bảo thủ
  • Chủ nghĩa cá nhân
  • Chủ nghĩa cải cách
  • Chủ nghĩa chuyên chế
  • Chủ nghĩa vị lợi
  • Chủ nghĩa công nghiệp
  • Chủ nghĩa công xã
  • Chủ nghĩa cộng đồng
  • Chủ nghĩa cộng hòa
  • Chủ nghĩa cộng sản
  • Chủ nghĩa cơ yếu
  • Chủ nghĩa cuồng tín
  • Chủ nghĩa cực đoan
  • Dân chủ Kitô giáo
  • Dân chủ xã hội
  • Chủ nghĩa dân tộc
  • Chủ nghĩa hiến pháp
  • Chủ nghĩa Hồi giáo
  • Chủ nghĩa môi trường
  • Chủ nghĩa nam giới
  • Chủ nghĩa nữ quyền
  • Chủ nghĩa phát xít
  • Chủ nghĩa phân phối
  • Chế độ quân chủ
  • Chủ nghĩa quân phiệt
  • Chủ nghĩa tiến bộ
  • Chủ nghĩa toàn cầu
  • Chủ nghĩa tư bản
  • Chủ nghĩa tự do
  • Chủ nghĩa tự do cá nhân
  • Chủ nghĩa triệt để
  • Chủ nghĩa trí thức
  • Chủ nghĩa vô chính phủ
  • Chủ nghĩa xã hội
  • Chính trị xanh
Chủ đề Chính trị
  • x
  • t
  • s
Đề cương chính trị • Chính trị • Chủ đề chính trị
Tổng quan
Lịch sử chính trị
  • Thế giới
  • Châu Á
  • Châu Âu
  • Châu Phi
  • Châu Mỹ
  • Châu Úc
  • Thế kỷ 18
  • Thế kỷ 19
  • Thế kỷ 20
  • Thế kỷ 21
Hệ tư tưởng chính trị
  • Cánh tả
  • Trung dung
  • Cánh hữu
  • Chủ nghĩa bảo thủ
  • Chủ nghĩa cá nhân
  • Chủ nghĩa cải cách
  • Chủ nghĩa chuyên chế
  • Chủ nghĩa vị lợi
  • Chủ nghĩa công nghiệp
  • Chủ nghĩa công xã
  • Chủ nghĩa cộng đồng
  • Chủ nghĩa cộng hòa
  • Chủ nghĩa cộng sản
  • Chủ nghĩa cơ yếu
  • Chủ nghĩa cuồng tín
  • Chủ nghĩa cực đoan
  • Dân chủ Kitô giáo
  • Dân chủ xã hội
  • Chủ nghĩa dân tộc
  • Chủ nghĩa hiến pháp
  • Chủ nghĩa Hồi giáo
  • Chủ nghĩa môi trường
  • Chủ nghĩa nam giới
  • Chủ nghĩa nữ quyền
  • Chủ nghĩa phát xít
  • Chủ nghĩa phân phối
  • Chế độ quân chủ
  • Chủ nghĩa quân phiệt
  • Chủ nghĩa tiến bộ
  • Chủ nghĩa toàn cầu
  • Chủ nghĩa tư bản
  • Chủ nghĩa tự do
  • Chủ nghĩa tự do cá nhân
  • Chủ nghĩa triệt để
  • Chủ nghĩa trí thức
  • Chủ nghĩa vô chính phủ
  • Chủ nghĩa xã hội
  • Chính trị xanh
Thể chế chính trị
  • Dân chủ (Dân chủ trực tiếp, Dân chủ đại nghị, Dân chủ tự do)
  • Cộng hòa (Cộng hòa lập hiến, Cộng hòa đại nghị, Cộng hòa xã hội, Cộng hòa tư bản)
  • Quân chủ (Quân chủ tuyệt đối, Quân chủ lập hiến)
  • Chế độ độc tài
  • Chế độ phong kiến
  • Chế độ chuyên quyền
  • Chế độ đạo tặc
  • Chế độ nhân tài
  • Chế độ tài phiệt
  • Chủ nghĩa tuyệt đối
  • Chủ nghĩa vô chính phủ
  • Chủ nghĩa bảo thủ
  • Chủ nghĩa tập đoàn
  • Chủ nghĩa bình quyền
  • Chủ nghĩa phát xít
  • Chủ nghĩa liên bang
  • Chủ nghĩa tự do
  • Chủ nghĩa cực đoan
  • Chủ nghĩa dân tộc
  • Chủ nghĩa xã hội
  • Chủ nghĩa toàn trị
  • Chủ nghĩa cộng sản
Tổ chức chính trị
Đảng phái chính trị
  • Dân chủ phi đảng phái
  • Hệ thống đơn đảng
  • Hệ thống hai đảng
  • Hệ thống đa đảng
  • Đảng Cộng hòa
  • Đảng Dân chủ
  • Đảng Tự do
  • Đảng Cộng sản
  • Đảng Xã hội
  • Đảng cầm quyền
Nhà nước
  • Nhà nước chiếm hữu nô lệ
  • Nhà nước phong kiến
  • Nhà nước tư bản chủ nghĩa
  • Nhà nước xã hội chủ nghĩa
  • Nhà nước quân chủ
  • Nhà nước cộng hòa
  • Nhà nước đơn nhất
  • Nhà nước liên bang
  • Nhà nước liên hiệp
  • Lập pháp (Quốc hội, Nghị viện, Hạ viện)
  • Hành pháp (Chính phủ)
  • Tư pháp (Tòa án, Viện kiểm sát)
Các tổ chức đại diện
  • Liên Hợp Quốc
  • Mặt trận Tổ quốc
  • Đoàn Thanh niên
Xã hội chính trị
Tổng quan
  • Địa chính trị
  • Tham nhũng chính trị
  • Chính trị toàn cầu
  • Thủ lĩnh chính trị
  • Quyền lực chính trị
  • Đấu tranh chính trị
  • Phong trào chính trị
Văn hóa chính trị
Chính khách nổi tiếng
Thế kỷ 20
  • Hồ Chí Minh
  • Fidel Castro
  • Mao Trạch Đông
  • Kim Nhật Thành
  • Joseph Stalin
Học giả chính trị nổi tiếng
  • Khổng Tử
  • Plato
  • Aristotle
  • Niccolò Machiavelli
  • John Stuart Mill
  • Karl Marx
Khoa học chính trị
Tổng quan
  • Chính trị học
  • Triết học chính trị
  • Xã hội học chính trị
  • Kinh tế chính trị học
Chính trị theo vùng
Chính trị Châu Á
  • Bắc Á
  • Nam Á
  • Đông Á
  • Tây Á
  • Trung Á
  • Đông Nam Á
  • Afghanistan
  • Ai Cập
  • Ả Rập Saudi
  • Armenia
  • Azerbaijan
  • Ấn Độ
  • Bahrain
  • Bangladesh
  • Bhutan
  • Brunei
  • Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất
  • Campuchia
  • Đông Timor
  • Gruzia
  • Hàn Quốc
  • Indonesia
  • Iran
  • Iraq
  • Israel
  • Jordan
  • Kazakhstan
  • Kuwait
  • Kyrgyzstan
  • Lào
  • Liban
  • Malaysia
  • Maldives
  • Mông Cổ
  • Myanmar
  • Nepal
  • Nga
  • Nhật Bản
  • Oman
  • Pakistan
  • Philippines
  • Qatar
  • Singapore
  • Síp
  • Sri Lanka
  • Syria
  • Tajikistan
  • Thái Lan
  • Thổ Nhĩ Kỳ
  • Turkmenistan
  • Triều Tiên
  • Trung Quốc
  • Uzbekistan
  • Việt Nam
  • Yemen
  • Abkhazia
  • Đài Loan
  • Nagorno-Karabakh
  • Nam Ossetia
  • Palestine
  • Hồng Kông
  • Ma Cao
Chính trị Châu Âu
  • Bắc Âu
  • Đông Âu
  • Tây Âu
  • Nam Âu
  • Albania
  • Andorra
  • Anh
  • Armenia
  • Áo
  • Azerbaijan
  • Ba Lan
  • Belarus
  • Bỉ
  • Bosna và Hercegovina
  • Bồ Đào Nha
  • Bulgaria
  • Croatia
  • Đan Mạch
  • Đức
  • Estonia
  • Gruzia
  • Hà Lan
  • Hungary
  • Hy Lạp
  • Iceland
  • Ireland
  • Kazakhstan
  • Latvia
  • Liechtenstein
  • Litva
  • Luxembourg
  • Macedonia
  • Malta
  • Moldova
  • Monaco
  • Montenegro
  • Na Uy
  • Nga
  • Romania
  • Pháp
  • Phần Lan
  • San Marino
  • Serbia
  • Séc
  • Síp
  • Slovakia
  • Slovenia
  • Tây Ban Nha
  • Thổ Nhĩ Kỳ
  • Thụy Điển
  • Thụy Sĩ
  • Ukraina
  • Vatican
  • Ý
Chính trị Châu Mỹ
  • Bắc Mỹ
  • Trung Mỹ
  • Nam Mỹ
  • Antigua và Barbuda
  • Argentina
  • Bahamas
  • Barbados
  • Belize
  • Bolivia
  • Brasil
  • Canada
  • Chile
  • Colombia
  • Costa Rica
  • Cuba
  • Dominica
  • Cộng hòa Dominica
  • Ecuador
  • El Salvador
  • Grenada
  • Guatemala
  • Guyana
  • Haiti
  • Hoa Kỳ
  • Honduras
  • Jamaica
  • México
  • Nicaragua
  • Panama
  • Paraguay
  • Peru
  • Saint Kitts và Nevis
  • Saint Lucia
  • Saint Vincent và Grenadines
  • Suriname
  • Trinidad và Tobago
  • Uruguay
  • Venezuela
Chính trị Châu Phi
  • Bắc Phi
  • Nam Phi
  • Trung Phi
  • Tây Phi
  • Đông Phi
  • Angola
  • Algérie
  • Ai Cập
  • Bénin
  • Botswana
  • Burkina Faso
  • Burundi
  • Cabo Verde
  • Cameroon
  • Comores
  • Cộng hòa Congo
  • Cộng hòa Dân chủ Congo
  • Cộng hòa Nam Phi
  • Cộng hòa Trung Phi
  • Côte d'Ivoire
  • Djibouti
  • Eritrea
  • Eswatini
  • Ethiopia
  • Gabon
  • Gambia
  • Ghana
  • GuinéeGuiné-Bissau
  • Guinea Xích đạo
  • Kenya
  • Lesotho
  • Liberia
  • Libya
  • Madagascar
  • Malawi
  • Mali
  • Maroc
  • Mauritanie
  • Mauritius
  • Mozambique
  • Namibia
  • Niger
  • Nigeria
  • Rwanda
  • São Tomé và Príncipe
  • Sénégal
  • Seychelles
  • Sierra Leone
  • Somalia
  • Somaliland
  • Sudan
  • Tanzania
  • Tây Sahara
  • Tchad
  • Togo
  • Tunisia
  • Uganda
  • Zambia
  • Zimbabwe
Chính trị Châu Úc
  • Đông Timor
  • Fiji
  • Indonesia
  • Kiribati
  • Quần đảo Marshall
  • Liên bang Micronesia
  • Nauru
  • New Zealand
  • Palau
  • Papua New Guinea
  • Samoa
  • Quần đảo Solomon
  • Tonga
  • Tuvalu
  • Úc
  • Vanuatu
Tiêu đề chuẩn Sửa dữ liệu tại Wikidata
  • BNE: XX4576319
  • GND: 4046514-7
  • LCCN: sh2002011436
  • NDL: 00570482
  • NKC: ph115795
  • NLK id KSH1998013689 không hợp lệ.

Từ khóa » Trình độ Chính Trị Là Gì