Chùa Thiên Mụ – Wikipedia Tiếng Việt

Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. Mời bạn giúp hoàn thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ. (tháng 6/2022)
Chùa Thiên Mụ天姥寺
Tháp Phước Duyên
Map
Tên khácChùa Linh Mụ
Vị trí
Quốc giaViệt Nam Việt Nam
Địa chỉHương Long, Huế,Thừa Thiên Huế
Thông tin
Tôn giáoPhật giáo
Tông pháiBắc Tông
Khởi lập1601
Người sáng lậpNguyễn Hoàng
icon Cổng thông tin Phật giáo
  • x
  • t
  • s

Chùa Thiên Mụ hay còn gọi là chùa Linh Mụ là một ngôi chùa cổ nằm trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế (Việt Nam) khoảng 5 km về phía tây. Chùa Thiên Mụ chính thức khởi lập năm Tân Sửu (1601), đời chúa Tiên Nguyễn Hoàng - vị chúa Nguyễn đầu tiên ở Đàng Trong.

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]
Bốn trụ biểu và các bậc thang dẫn lên chùa Thiên Mụ
Ảnh chụp tháp Phước Duyên, chùa Thiên Mụ vào năm 1930
Cổng tam quan của chùa Thiên Mụ đầu thế kỷ 20

Trước thời điểm khởi lập chùa, trên đồi Hà Khê có ngôi chùa cũng mang tên Thiên Mỗ hoặc Thiên Mẫu, là một ngôi chùa của người Chăm1.

Truyền thuyết kể rằng, khi chúa Nguyễn Hoàng vào làm Trấn thủ xứ Thuận Hóa kiêm trấn thủ Quảng Nam, ông đã đích thân đi xem xét địa thế ở đây nhằm chuẩn bị cho mưu đồ mở mang cơ nghiệp, xây dựng giang sơn cho dòng họ Nguyễn sau này. Trong một lần rong ruổi vó ngựa dọc bờ sông Hương ngược lên đầu nguồn, ông bắt gặp một ngọn đồi nhỏ nhô lên bên dòng nước trong xanh uốn khúc, thế đất như hình một con rồng đang quay đầu nhìn lại, ngọn đồi này có tên là đồi Hà Khê.

Người dân địa phương cho biết, nơi đây ban đêm thường có một bà lão mặc áo đỏ quần lục xuất hiện trên đồi, nói với mọi người: "Rồi đây sẽ có một vị chân chúa đến lập chùa để tụ linh khí, làm bền long mạch, cho nước Nam hùng mạnh". Vì thế, nơi đây còn được gọi là Thiên Mụ Sơn 2.

Tư tưởng lớn của chúa Nguyễn Hoàng dường như cùng bắt nhịp được với ý nguyện của dân chúng. Nguyễn Hoàng cả mừng, vào năm 1601 đã cho dựng một ngôi chùa trên đồi, ngoảnh mặt ra sông Hương, đặt tên là "Thiên Mụ".

Tên gọi

[sửa | sửa mã nguồn]

Dựa theo huyền thoại, đồng thời căn cứ hình dạng Hán tự từng ghi trên bao tài liệu cấu tạo bằng nhiều chất liệu, đủ khẳng định rằng trong tên Thiên Mụ, ngữ tố "Thiên" có nghĩa là "Trời".

Năm 1862, dưới thời vua Tự Đức, để cầu mong có con nối dõi, nhà vua sợ chữ "Thiên" phạm đến Trời nên cho đổi từ "Thiên Mụ" thành "Linh Mụ" (hay "Bà mụ linh thiêng").

Vấn đề kiêng cữ như đã nêu chỉ diễn tiến từ năm Nhâm Tuất (1862) cho tới năm Kỷ Tỵ (1869). Sau đó, người dân thoải mái gọi hai tên: chùa Thiên Mụ và chùa Linh Mụ.

Vì rằng từ "Linh" đồng nghĩa với "Thiêng", âm người Huế khi nói "Thiên" nghe tựa "Thiêng" nên khi người Huế nói "Linh Mụ", "Thiên Mụ" hay "Thiêng Mụ" thì người nghe đều hiểu là muốn nhắc đến ngôi chùa này.

Một số người còn đặt tên cho chùa là Tiên Mụ (hay "Bà mụ thần tiên"). Cách gọi này không được giới nghiên cứu chấp nhận.

Kiến trúc

[sửa | sửa mã nguồn]
Chính điện

Chùa Thiên Mụ chính thức khởi lập năm Tân Sửu (1601), đời chúa Tiên - Nguyễn Hoàng.

Dưới thời chúa Quốc - Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) theo đà phát triển và hưng thịnh của Phật giáo xứ Đàng Trong, chùa được xây dựng lại quy mô hơn. Năm 1710, chúa Quốc cho đúc một chiếc chuông lớn, nặng tới trên hai tấn, gọi là Đại Hồng Chung, có khắc một bài minh trên đó. Đến năm 1714, chúa Quốc lại cho đại trùng tu chùa với hàng chục công trình kiến trúc hết sức quy mô như điện Thiên Vương, điện Đại Hùng, nhà Thuyết Pháp, lầu Tàng Kinh, phòng Tăng, nhà Thiền... mà nhiều công trình trong số đó ngày nay không còn nữa. Chúa Quốc còn đích thân viết bài văn, khắc vào bia lớn (cao 2m60, rộng 1m2) nói về việc xây dựng các công trình kiến trúc ở đây, việc cho người sang Trung Quốc mua hơn 1000 bộ kinh Phật đưa về đặt tại lầu Tàng Kinh, ca tụng triết lý của đạo Phật, ghi rõ sự tích Hòa thượng Thạch Liêm - người có công lớn trong việc giúp chúa Nguyễn chấn hưng Phật giáo ở Đàng Trong. Bia được đặt trên lưng một con rùa đá rất lớn, trang trí đơn sơ nhưng tuyệt đẹp.

Với cảnh đẹp tự nhiên và quy mô được mở rộng ngay từ thời đó, chùa Thiên Mụ đã trở thành ngôi chùa đẹp nhất xứ Đàng Trong. Trải qua bao biến cố lịch sử, chùa Thiên Mụ đã từng được dùng làm đàn Tế Đất dưới triều Tây Sơn (khoảng năm 1788), rồi được trùng tu tái thiết nhiều lần dưới triều các vua nhà Nguyễn.

Năm 1844, nhân dịp mừng lễ "bát thọ" của bà Thuận Thiên Cao Hoàng hậu (vợ vua Gia Long, bà nội của vua Thiệu Trị), vua Thiệu Trị kiến trúc lại ngôi chùa một cách quy mô hơn: xây thêm một ngôi tháp bát giác gọi là Từ Nhân (sau đổi là Phước Duyên), đình Hương Nguyện và dựng 2 tấm bia ghi lại việc dựng tháp, đình và các bài thơ văn của nhà vua.

Tháp Phước Duyên

[sửa | sửa mã nguồn]
Tháp Phước Duyên

Tháp Phước Duyên là một biểu tượng nổi tiếng gắn liền với chùa Thiên Mụ. Tháp cao 21 m, gồm 7 tầng, được xây dựng ở phía trước chùa vào năm 1844. Mỗi tầng tháp đều có thờ tượng Phật. Bên trong có cầu thang hình xoắn ốc dẫn lên tầng trên cùng, nơi trước đây có thờ tượng Phật bằng vàng. Phía trước tháp là đình Hương Nguyện, trên nóc đặt Pháp luân (bánh xe Phật pháp, biểu tượng Phật giáo. Pháp luân đặt trên đình Hương Nguyện quay khi gió thổi).

Trận bão năm 1904 đã tàn phá chùa nặng nề. Nhiều công trình bị hư hỏng, trong đó đình Hương Nguyện bị sụp đổ hoàn toàn (nay vẫn còn dấu tích). Năm 1907, vua Thành Thái cho xây dựng lại, nhưng chùa không còn được to lớn như trước nữa. Hai bên tháp có hai nhà tứ giác, đặt hai tấm bia đời Thiệu Trị. Sâu vào bên trong là hai nhà lục giác, một nhà để bia và một nhà để quả chuông đúc đời chúa Nguyễn Phúc Chu.

Chùa Thiên Mụ được xếp vào 20 thắng cảnh đất Thần Kinh với bài thơ Thiên Mụ chung thanh do đích thân vua Thiệu Trị sáng tác và được ghi vào bia đá dựng gần cổng chùa.

Thiên Mụ Chung Thanh Cao cương cổ sát trấn điền xuyên Nguyệt tướng thường viên tự tại thiên Bách bát hồng thanh tiêu bách kết Tam thiên thế giới tỉnh tam duyên Tăng hoằng ngọ nhật u minh cảm Liêu lượng dần tiêu đạo vị huyền Phật tích Thánh công thùy hải vũ Thiện nhân tăng quả phổ cai diên. Dịch thơ: Tiếng Chuông Thiên Mụ Trên bến gò xưa chùa lập ra Bên trời tự tại mãi Gương Nga Tiếng ngân trăm tám tan trăm oán Thế giới ba ngàn giải nợ ba Chuông động giữa trưa miền tối ám Kinh gieo canh sớm đạo tăng gia Truyền công Phật Thánh tràn non nước Nhân quả ươm lành khắp chốn xa.

Qua nhiều đợt tu sửa lớn nhỏ, ngoài những công trình kiến trúc như tháp Phước Duyên, điện Đại Hùng, điện Địa Tạng, điện Quan Âm... cùng bia đá, chuông đồng, chùa Thiên Mụ ngày nay còn là nơi có nhiều cổ vật quý giá không chỉ về mặt lịch sử mà còn cả về nghệ thuật. Những bức tượng Hộ pháp, tượng Thập Vương, tượng Phật Di Lặc, tượng Tam Thế Phật... hay những hoành phi, câu đối ở đây đều ghi dấu những thời kỳ lịch sử vàng son của chùa Thiên Mụ.

Trong khuôn viên của chùa là cả một vườn hoa cỏ được chăm sóc vun trồng hàng ngày. Ở đó, hòn non bộ của vị tổ nghề hát tuồng Việt Nam là Đào Tấn được đặt gần chiếc xe ô tô - di vật của cố Hòa thượng Thích Quảng Đức để lại trước khi châm lửa tự thiêu để phản đối chính sách đàn áp Phật giáo của chế độ Ngô Đình Diệm năm 1963.

Cuối khu vườn là khu mộ tháp của cố Hòa thượng Thích Đôn Hậu, vị trụ trì nổi tiếng của chùa Thiên Mụ, người đã cống hiến cả cuộc đời mình cho những hoạt động ích đạo giúp đời.

Hình ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Cổng chùa Thiên Mụ và Tháp Phước duyên nhìn từ trong ra. Cổng chùa Thiên Mụ và Tháp Phước duyên nhìn từ trong ra.
  • Chiếc trống bằng gỗ mít nguyên khối trong chùa Thiên Mụ. Chiếc trống bằng gỗ mít nguyên khối trong chùa Thiên Mụ.
  • Bia đá nói về tháp Phước Duyên trong chùa Thiên Mụ. Bia đá nói về tháp Phước Duyên trong chùa Thiên Mụ.
  • Tam quan chùa Thiên Mụ. Tam quan chùa Thiên Mụ.
  • Chính điện chùa Thiên Mụ. Chính điện chùa Thiên Mụ.
  • Mộ tháp của cố Hòa thượng Thích Đôn Hậu. Mộ tháp của cố Hòa thượng Thích Đôn Hậu.
  • Chiếc xe ô tô - di vật của cố Hòa thượng Thích Quảng Đức. Chiếc xe ô tô - di vật của cố Hòa thượng Thích Quảng Đức.
  • Một chú tiểu tại chùa Thiên Mụ Một chú tiểu tại chùa Thiên Mụ

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Ô châu cận lục của Dương Văn An, năm 1553. Các bản dịch của Bùi Lương, Nhà xuất bản Văn Hoá Á Châu, Sài Gòn, 1961; hoặc của Trịnh Khắc Mạnh và Nguyễn Văn Nguyên, Nhà xuất bản Khoa Học Xã hội, Hà Nội, 1997.
  • Sổ tay văn hoá Việt Nam, Đặng Đức Siêu, Nhà Xuất Bản Lao động Năm 2006.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. Năm 1915, tạp chí Bulletin des Amis du Vieux Huê (BAVH) đăng bài viết của công sứ A. Bonhomme với dòng titre nguyên văn: Thien Mu pagoda..
  2. Huyền thoại đó được ghi thư tịch sớm nhất vào năm Ất Hợi 1696 bởi hoà thượng Thạch Liêm tức Thích Đại Sán, một thiền sư Trung Hoa, trong sách Hải ngoại kỷ sự. Sách này đã được Nguyễn Phương và Nguyễn Duy Bột dịch, Viện Đại học Huế xuất bản năm 1963.
  3. Những kỷ lục Phật giáo khẳng định nền văn hóa Việt Lưu trữ 2007-03-13 tại Wayback Machine

Xem thêm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Quần thể di tích Cố đô Huế

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn] Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Chùa Thiên Mụ.
  • x
  • t
  • s
Chùa Huế
Chùa Ba La Mật • Chùa Giác Lương • Chùa Diệu Đế • Chùa Diệu Đức • Chùa Báo Quốc • Chùa Hà Trung • Chùa Huyền Không • Chùa Huyền Không Sơn Thượng • Chùa Kim Tiên • Chùa Linh Quang • Chùa Linh Sơn Đồng Thuyền • Chùa Quốc Ân • Chùa Sơn Thủy • Chùa Tây Thiên Di Đà • Chùa Thánh Duyên • Chùa Thiên Hưng • Chùa Thiền Lâm • Chùa Thiên Mụ • Chùa Thuyền Tôn • Chùa Tra Am • Chùa Trúc Lâm • Thiền Viện Trúc Lâm Bạch Mã • Chùa Từ Đàm • Chùa Từ Hiếu • Chùa Tường Vân • Chùa Vạn Phước • Chùa Viên Thông .
  • x
  • t
  • s
Quần thể di tích Cố đô Huế
Ngoài kinh thành
  • Phu Văn lâu
  • Miếu Long Thuyền
  • Tòa Thương Bạc
  • Trường Hậu bổ
  • Trấn Bình đài
  • Nghênh Lương đình
  • Bia Quốc Học
  • Đàn Nam Giao
  • Văn Thánh
  • Võ Thánh
  • Hổ Quyền
  • Trấn Hải thành
  • Hải Vân quan
  • Điện Voi Ré
  • Điện Hòn Chén
  • Chùa Thiên Mụ
  • Chùa Thánh Duyên
  • Chùa Diệu Đế
  • Cung An Định
  • Lăng Gia Long
  • Lăng Minh Mạng
  • Lăng Thiệu Trị
  • Lăng Tự Đức
  • Lăng Đồng Khánh
  • Lăng Dục Đức
  • Lăng Khải Định
  • Đàn Sơn Xuyên
  • Miếu Lịch đại đế vương
  • Đình Phú Vĩnh
Trong kinh thành
  • Kỳ đài
  • Quan Tượng Đài
  • Cửu vị thần công
  • Quốc Tử Giám
  • Khâm Thiên Giám
  • Đình Phú Xuân
  • Điện Long An
  • Lục bộ đường
  • Học bộ đường
  • Phụ chính phủ
  • Bình An đường
  • Tàng Thư lâu
  • Viện Cơ mật - Tam tòa
  • Quốc sử quán
  • Linh Hựu quán
  • Miếu Tiên Y
  • Tôn Nhơn phủ
  • Đàn Xã Tắc
  • Cổ nhạc từ
  • Miếu Đô Thành hoàng
  • Miếu Thạch thần tướng quân
  • Đàn Tiên Nông
  • Xiển Võ từ
  • Đàn Âm Hồn
  • Miếu Âm Hồn
  • Tam Pháp Ty
  • Vườn Thường Mậu
  • Vườn Thư Quang
Trong Hoàng thành
  • Ngọ Môn
  • Sân Đại Triều Nghi
  • Điện Thái Hòa
  • Thế miếu
  • Hưng miếu
  • Hiển Lâm các
  • Cửu Đỉnh
  • Điện Phụng Tiên
  • Triệu miếu
  • Thái miếu
  • Cung Diên Thọ
  • Cung Trường Sanh
  • Vườn Cơ Hạ
  • Phủ Nội Vụ
  • Lầu Tứ Phương Vô Sự
Tử Cấm thành
  • Đại Cung môn
  • Tả vu và Hữu vu
  • Vạc đồng
  • Điện Cần Chánh
  • Điện Càn Thành
  • Cung Khôn Thái
  • Điện Kiến Trung
  • Lục viện
  • Thái Bình lâu
  • Nhật Thành lâu
  • Duyệt Thị đường
  • Thượng Thiện đường
  • Thái y viện
  • Vườn Thiệu Phương
  • Ngự viên
  • Ngự tiền văn phòng
Hệ thống thủy đạo
  • Ngự Hà
  • Hộ thành hà (Sông Đông Ba
  • Sông An Hòa
  • Sông Kẻ Vạn)
  • Hộ thành hào
  • Hồ Ngoại Kim Thủy
  • Hồ Nội Kim Thủy
  • Hồ Tịnh Tâm
  • Hồ Học Hải
  • Liên hồ
  • Hồ Xã Tắc
  • Hồ Nhơn Hậu
  • Hồ Phu Văn
  • Hồ Tân Miếu và Võ Sanh
  • Hồ Thái Trạch
  • Hồ Hộ Vệ và Đô Thành Hoàng
  • Hồ Tả Bảo
  • Hồ Tiền Bảo
  • Hồ Vuông
  • Hồ Phong Trạch
  • Hồ Thái Dịch
  • Hồ Ngọc Dịch
  • x
  • t
  • s
Thần kinh nhị thập cảnh
Lầu Minh Viễn • Vườn Thiệu Phương • Hồ Tịnh Tâm • Vườn Thư Quang • Ngự viên • Hậu hồ • Cung Trường Ninh • Vườn Thường Mậu • Chùa Thánh Duyên • Cửa Thuận An • Sông Hương • Núi Ngự Bình • Linh Hựu quán • Chùa Thiên Mụ • Ngã ba Tuần  • Phá Hà Trung • Chùa Giác Hoàng • Quốc Tử Giám • Rừng Đông Lâm • Suối Dương Hòa

Từ khóa » Giới Thiệu Về Chùa Thiên Mụ Huế