CHUYÊN ĐỀ GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ NĂM 2021

CHUYÊN ĐỀ 2: QUÂN ĐỘI VỚI NHIỆM VỤ XÂY DỰNG “THẾ TRẬN LÒNG DÂN”  TRONG TÌNH HÌNH MỚI

MỞ ĐẦU

Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta cho thấy quần chúng nhân dân có vai trò và sức mạnh to lớn, góp phần làm nên chiến thắng oanh liệt của dân tộc trước mọi kẻ thù xâm lược, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Bởi vậy, xây dựng “thế trận lòng dân” luôn được quan tâm cả trong lịch sử và hiện tại. Xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc là là sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị, trong đó, Quân đội nhân dân là lực lượng nòng cốt. Quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng “thế trận lòng dân” trong tình hình mới, những năm qua, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam đã ban hành nhiều chỉ thị, quy định, hướng dẫn để thực hiện nhiệm vụ quan trọng này trong Quân đội. Trên cơ sở đó, cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị trong toàn quân đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho mỗi cán bộ, chiến sĩ đối với nhiệm vụ xây dựng “thế trận lòng dân”; đề ra nhiều nội dung, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai tổ chức thực hiện nghiêm túc, hiệu quả. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thực hiện, việc xây dựng “thế trận lòng dân” của Quân đội còn có những hạn chế nhất định.

Chuyên đề làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn về xây dựng “thế trận lòng dân”; sự cần thiết và một số giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả xây dựng “thế trận lòng dân” của Quân đội trong tình hình mới, làm cơ sở cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập chính trị trong Quân đội hiện nay.

1. MỘT SỐ HIỂU BIẾT VỀ “THẾ TRẬN LÒNG DÂN” VÀ SỰ CẦN THIẾT QUÂN ĐỘI PHẢI THAM GIA XÂY DỰNG “THẾ TRẬN LÒNG DÂN” TRONG TÌNH HÌNH MỚI

1. Một số hiểu biết về “thế trận lòng dân”

a) Quan niệm về“thế trận lòng dân” và xây dựng “thế trận lòng dân” 

- “Lòng dân” là thuật ngữ phản ánh trạng thái chính trị - tinh thần của người dân trong xã hội. Được biểu hiện ở mức độ niềm tin, sự đồng thuận, lòng yêu nước, ý trí quyết tâm, tinh thần đoàn kết của người dân với chế độ chính trị - xã hội của đất nước. “Lòng dân” là yếu tố tồn tại một cách khách quan và là cơ sở, nền tảng chủ yếu để tạo nên “thế trận lòng dân”.

- “Thế trận lòng dân” là lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý chí, niềm tin, quyết tâm của toàn dân tộc, được khơi dậy, quy tụ và phát huy, tạo nền tảng chính trị - tinh thần vững chắc, cho phép huy động sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ chính trị, quân sự, quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Yếu tố cấu thành “thế trận lòng dân” là những yếu tố bên trong quyết định sự tồn tại, phát triển của “thế trận lòng dân”, các yếu tố đó bao gồm: Lòng yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, tinh thần đoàn kết, đồng lòng, ý thức tự lực, tự cường của nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; nhận thức của nhân dân về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; tinh thần trách nhiệm của nhân dân trong thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, luật pháp của Nhà nước trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; ý chí quyết tâm của nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Thế trận lòng dân được biểu hiện tập trung ở toàn dân đoàn kết thành một khối vững chắc xung quanh Đảng và Chính phủ, cùng hành động thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Chính phủ; giữ vững niềm tin, ý chí quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thử thách, kiên quyết đập tan mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, vì mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa.

- Xây dựng “thế trận lòng dân” là quá trình bao gồm tổng thể các hoạt động của cả hệ thống chính trị và toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước để khơi dậy, quy tụ, phát huy lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý chí, niềm tin, quyết tâm của toàn dân tộc, tạo thành nền tảng chính trị - tinh thần vững chắc, cho phép huy động sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc.

Mục đích xây dựng “thế trận lòng dân” là nhằm tạo cơ sở, nền tảng chính trị - tinh thần để huy động sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Lực lượng tham gia xây dựng “thế trận lòng dân” là các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị, gồm Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể; nhân dân và lực lượng vũ trang cả nước. Trong đó, Đảng Cộng sản Việt Nam làchủ thể lãnh đạo xây dựng “thế trận lòng dân”. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là chủ thể quản lý, điều hành xây dựng “thế trận lòng dân”.

Nội dung xây dựng “thế trận lòng dân” bao gồm giáo dục chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đấu tranh giữ nước, lòng tự hào dân tộc, tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường; nâng cao nhận thức của nhân dân về nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, Quân đội và chế độ xã hội chủ nghĩa; nâng cao ý thức trách nhiệm của mọi người dân trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; xây dựng ý chí quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta và cả hệ thống chính trị trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

 

b) Tình hình xây dựng “thế trận lòng dân” trong sự nghiệp giữ nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa

- Xây dựng “thế trận lòng dân” trong sự nghiệp giữ nước đến trước năm 1930.Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nư­­ớc và giữ nước của dân tộc Việt Nam thời phong kiến cho thấy: Khi “lòng dân thuận” thì nước mạnh, “lòng dân ly tán” thì nước yếu, nên bài học hàng đầu mà ông cha ta đúc kết là “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” và “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ, bền gốc là thượng sách giữ nước”. Sự mất hay còn của Tổ quốc, sự hưng thịnh hay suy vong của các triều đại hầu hết đều do yếu tố “lòng dân” được nhận thức đúng, được quan tâm, chăm lo xây dựng hay bị coi nhẹ, xem thường thông qua thực thi các chính sách. Đáng chú ý là: Chính sách “Ngụ binh ư nông” và “viễn nhu” thời Lý; tư tưởng “trọng dân”, “an dân”, Hội nghị Bình Than năm 1282 để vua tôi hạ quyết tâm chiến đấu, bàn kế sách giữ nước và Hội nghị Diên Hồng năm 1285 để thống nhất ý chí đánh giặc của toàn dân tộc thời Trần; “nước lấy dân làm gốc”, “việc nhân nghĩa cốt để yên dân”, “sửa đức để cầu mệnh trời; ngăn quyền hào để nuôi sức dân; cấm phiền hà để dân sống khá, cấm xa xỉ để dân phong túc; dẹp trận cướp để dân ở yên; sửa quân chính để bảo vệ dân sinh...” thời Lê Lợi, Nguyễn Trãi; khi Trịnh - Nguyễn phân tranh và sự đô hộ của quân Thanh, Phong trào Tây Sơn đã biểu thị nguyện vọng, ý chí và tình cảm thống nhất mạnh mẽ của nhân dân Việt Nam từ Bắc đến Nam đã chiến đấu dưới một ngọn cờ thống nhất - ngọn cờ Tây Sơn nhằm chống áp bức bót lột, lật đổ giai cấp thống trị trên quy mô cả nước. Nhờ đó, quy tụ được lòng dân, tạo dựng được “thế trận lòng dân” vững chắc để đánh bại những kẻ thù xâm lược, giữ yên bờ cõi, bảo vệ độc lập dân tộc.

Bên cạnh đó, dù có thành cao, hào sâu và “nỏ thần” lợi hại như thời An Dương Vương hoặc quân đội hùng hậu, thành lũy kiên cố thời nhà Hồ, nhưng do tư tưởng quân đội không có mối quan hệ mật thiết với nhân dân, là nguyên nhân căn bản dẫn đến thất bại. Lịch sử đã chứng minh, trước sự xâm lược của quân Minh, mặc dù cha con Hồ Quý Ly là những người yêu nước, quyết tâm đánh giặc bảo vệ đất nước, đã tích cực chuẩn bị trong bảy năm (1400-1407). Song nhà Hồ đã bị thất bại bởi không quan tâm đến lòng dân. Hồ Nguyên Trừng phải thốt lên: “Thần không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân không theo”.

- Xây dựng “thế trận lòng dân” từ khi Đảng ra đời đến trước đổi mới (1986).Vào cuối thế kỷ XIX, chính sách thống trị của thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai làm cho mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân lao động, mà chủ yếu là nông dân, với giai cấp địa chủ phong kiến ngày càng gay gắt. Nhiều cuộc đấu tranh của nhân dân chống thực dân Pháp xâm lược liên tục diễn ra, song đều bị thất bại bởi thiếu một đường lối đúng đắn. Ngày 03-02-1930 chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam - Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập với sứ mệnh lịch sử được tuyên bố là lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, chống đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc, người cày có ruộng thì tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh, truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc được khơi dậy và phát huy mạnh mẽ. Thông qua cao trào cách mạng 1930 - 1931, bước đầu hình thành Hội phản đế đồng minh, đến cao trào cách mạng 1936 - 1939, Mặt trận thống nhất dân chủ Đông Dương được thành lập với quy mô rộng lớn hơn. Đỉnh cao là thời kỳ 1939 - 1945, Mặt trận Việt Minh ra đời, đã thực hiện chính sách đoàn kết dân tộc rộng rãi, có chính sách phù hợp với quyền lợi của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân. Theo đó, tinh thần yêu nước, khát vọng vươn tới độc lập tự do, ý chí tự lực, tự cường, niềm tự hào dân tộc của nhân dân ta được phát huy cao độ. Nó thật sự trở thành thế trận tinh thần vững chắc ở khắp mọi nơi, làm cơ sở nền tảng để Đảng ta xây dựng nên thế trận toàn dân khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền thắng lợi vào tháng 8 năm 1945.

Trong thời kỳ 1945 - 1954, trước tình hình đất nước có nhiều khó khăn, Đảng đã vạch ra những chủ trương, biện pháp toàn diện và cơ bản “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc” và các giải pháp trước mắt như: chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm, bài trừ nội phản, khôi phục sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, kiện toàn bộ máy chính quyền các cấp… Đặc biệt, để thỏa mãn nhu cầu chính đáng của nông dân, tạo sự ổn định về chính trị - tư tưởng trong xã hội và bồi dưỡng lực lượng cơ bản của kháng chiến, Hội nghị lần thứ 5 của Trung ương Đảng tháng 11 năm 1953 thông qua “Cương lĩnh ruộng đất”, đã góp phần động viên tinh thần cách mạng, xây dựng niềm tin cho hàng triệu nông dân vào Đảng và Chính phủ, củng cố liên minh công nông, mặt trận dân tộc thống nhất và chính quyền cách mạng; tạo nên sự đồng thuận, gắn bó chặt chẽ giữa Đảng với nhân dân, là cơ sở để huy động nhân lực, vật lực, tăng cường sức mạnh thế trận chiến tranh nhân dân, thúc đẩy cuộc kháng chiến phát triển, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954 và chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.

Trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược (1954 - 1975), với đường lối đúng đắn của Đảng về tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng đã nhanh chóng được quần chúng ủng hộ và tự giác thực hiện, biến thành hành động cách mạng thực sự làm chuyển biến mạnh mẽ tình hình. Với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược”, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Ở miền Bắc, với nhiều phong trào thi đua, thu hút mọi tầng lớp nhân dân tham gia như phong trào “Thanh niên ba sẵn sàng”, “Phụ nữ ba đảm đang”, nông dân “tay cày, tay súng”, công nhân “tay búa, tay súng”, học sinh “làm nghìn việc tốt chống Mỹ cứu nước”… Nhân dân miền Nam “thành đồng của Tổ quốc” anh dũng chiến đấu, kiềm chế và đánh thắng đế quốc Mỹ ở chiến trường miền Nam. Sự ra đời của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Chính phủ lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam và nhiều tổ chức quần chúng khác đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng như các hội của học sinh, sinh viên, trí thức, tôn giáo, tư sản dân tộc, tiểu tư sản, dân nghèo thành thị... Đặc biệt là sự đoàn kết chặt chẽ 54 dân tộc anh em trên cả hai miền Nam, Bắc là những biểu hiện sinh động của tinh thần đại đoàn kết toàn dân, tạo nên một “thế trận lòng dân” vững chắc, phát huy được sức mạnh tổng hợp của mọi lực lượng cả trong nước và quốc tế làm nên chiến thắng lịch sử ngày 30-4-1975, kết thúc 21 năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, mở ra kỷ nguyên mới, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Sau Đại thắng mùa Xuân năm 1975, cả nước bước vào thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại hội lần thứ IV của Đảng (tháng 12 năm 1976) đã đề ra đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, xác định phương hướng và nhiệm vụ kế hoạch 5 năm (1976 – 1980), tổng kết công tác xây dựng Đảng, đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam… Tinh thần cơ bản của Đại hội là tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội do Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đó, tạo ra sự đồng thuận trong toàn dân, giữa Đảng với nhân dân để thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân và giữ vững thành quả cách mạng. Thắng lợi của 2 cuộc chiến đấu ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới thiêng liêng của Tổ quốc đã minh chứng rõ điều đó.

Tuy nhiên, xây dựng “thế trận lòng dân” trong thời kỳ từ khi Đảng ra đời đến trước đổi mới (năm 1986) cũng còn những hạn chế, nhất là những sai lầm, khuyết điểm trong thực hiện cải cải ruộng đất (1953-1956) và sự khủng hoảng kinh tế - xã hội thời điểm trước năm 1986… đã làm cho đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, niềm tin của quần chúng vào sự lãnh đạo của Đảng giảm sút, thậm chí còn xuất hiện sự hoài nghi vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

- Xây dựng “thế trận lòng dân” trong 35 năm đổi mới. Vào thời điểm trước năm 1986, do nhiều nguyên nhân, đất nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, đời sống nhân dân khó khăn. Trong hoàn cảnh đó, trên cơ sở kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, nhận thức và đánh giá đúng tình hình thực tiễn, Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, trước hết là đổi mới tư duy, đổi mới kinh tế. Đảng ta đã chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần; đồng thời, xoá bỏ cơ chế tập trung bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; giải quyết đúng đắn mối quan hệ các lợi ích trong xã hội, coi trọng lợi ích người lao động… Qua 5 năm đầu thực hiện đường lối đổi mới, tình hình kinh tế - xã hội đất nước có tiến bộ rõ rệt, ba chương trình kinh tế (lương thực và thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu) có nhiều chuyển biến tích cực. Đất nước từ chỗ thiếu lương thực triền miên, đến năm 1990 đã đáp ứng được căn bản nhu cầu lương thực trong nước, có dự trữ và xuất khẩu, đời sống nhân dân ngày một cải thiện rõ rệt. Niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố, sự đồng thuận trong các tầng lớp dân cư về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội được tăng cường, đó là những điều kiện thuận lợi để củng cố “thế trận lòng dân” trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Cho đến trước Hội nghị Trung ương 9 khóa IX, trong các văn kiện chính thức, Đảng ta chưa sử dụng thuật ngữ “thế trận lòng dân”, nhưng tư tưởng “dựa vào dân”, lấy “dân làm gốc”, “đoàn kết toàn dân để tạo sức mạnh tổng hợp” luôn nhất quán, xuyên suốt trong đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa IX về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc đã khẳng định: “Sức mạnh của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới chính là sức mạnh tổng hợp. Trong đó, sức mạnh bên trong của đất nước, sức mạnh của chế độ chính trị, sự trong sạch đội ngũ cán bộ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố quyết định”[1].

Theo đó, Đại hội lần thứ X của Đảng lần đầu tiên thuật ngữ “thế trận lòng dân” được sử dụng khi nhấn mạnh nhiệm vụ: “Xây dựng thế trận lòng dân làm nền tảng phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc”[2]. Đại hội lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: “Xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc trong thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc”[3]. Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta tiếp tục khẳng định phương châm giữ nước là phải chăm lo xây dựng cho “kinh tế phải vững, quốc phòng phải mạnh, thực lực phải cường, lòng dân phải yên, chính trị - xã hội ổn định, cả dân tộc là một khối thống nhất”[4]. Trong đó, Trung ương đặc biệt nhấn mạnh đến yêu cầu “không ngừng củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc”[5]. Đại hội XII của Đảng một lần nữa nhấn mạnh nhiệm vụ: “Xây dựng thế trận lòng dân, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân”[6]. Dự thảo Văn kiện Đại hội XIII tiếp tục khẳng định: “Xây dựng thế trận lòng dân gắn với thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh Nhân dân”[7]. Điều đó cho thấy quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng ta về xây dựng “thế trận lòng dân” trong đường lối quân sự, quốc phòng bảo vệ Tổ quốc trước đây cũng như hiện nay.

Với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, cùng với đó, Nhà nước đã ban hành, sửa đổi, đồng bộ hệ thống pháp luật, Quy chế dân chủ ở cơ sở nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm mọi quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân; thực thi quyền con người, quyền công dân. Tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tội phạm, tệ nạn xã hội, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai dịch bệnh, cải cách hành chính. Thường xuyên chú trọng xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, góp phần quan trọng vào việc quy tụ, tập hợp các tầng lớp nhân dân; trong đó, người Việt Nam ở nước ngoài cũng cùng chung tay, góp sức xây dựng đất nước. Đồng thời, bảo đảm phát triển kinh tế nhanh và bền vững gắn với bảo đảm tiến bộ, công bằng và an sinh xã hội; thực hiện mỗi bước phát triển kinh tế là một bước cải thiện đời sống nhân dân; đẩy mạnh thực hiện các chính sách xóa đói, giảm nghèo, ưu đãi đối với địa bàn vùng sâu, vùng xa, dân tộc thiểu số, người có công với cách mạng; tạo việc làm cho người lao động, miễn giảm thuế nông nghiệp nhằm “an dân”, “dưỡng dân”. Nhờ đó, diện mạo đất nước và đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện.

Những chủ trương, quan điểm đúng đắn của Đảng về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đã thu hút ngày càng đông đảo quần chúng tham gia vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, làm cho sức mạnh đại đoàn kết dân tộc được phát huy, động viên các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đoàn kết chặt chẽ tạo thành thế trận vững chắc. Toàn xã hội đã phát huy tinh thần tương thân, tương ái, nhường cơm, sẻ áo, giúp đỡ người nghèo, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, đồng bào vùng sâu, vùng xa ở miền núi, hải đảo; các tổ chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp, tôn giáo mở rộng hoạt động, thực hành dân chủ, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Những thành tựu của đất nước qua 35 năm đổi mới cả về kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, nhất là vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao đã cho thấy rõ điều đó.

Tuy nhiên, những hạn chế trong phát triển kinh tế - xã hội; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận cán bộ, đảng viên; sự phân cực giàu, nghèo trong xã hội; những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, khu vực và Biển Đông cùng sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị đối với Đảng, Nhà nước, chế độ, quân đội ta… đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.

2. Sự cần thiết Quân đội phải tham gia xây dựng “thế trận lòng dân” trong tình hình mới

a) Từ vị trí, vai trò, tầm quan trọng của “thế trận lòng dân” trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa

“Thế trận lòng dân” là loại hình thế trận đặc biệt, là một trong những mạch nguồn sức mạnh nội sinh của quốc gia - dân tộc và được biểu hiện ở nhiều cấp độ khác nhau. Đó là nền tảng, tạo nên sức mạnh tổng hợp, quyết định sự hưng thịnh hay suy vong của quốc gia, dân tộc, là thành lũy kiên cố nhất, vững chắc nhất để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó còn là cội nguồn sức mạnh sâu xa xuất phát từ bản sắc văn hóa Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử của dân tộc.

 “Thế trận lòng dân” là nền tảng vững chắc để xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân ở nước ta hiện nay. Sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân phụ thuộc rất lớn vào “thế trận lòng dân”. Thế trận lòng dân là mạch nguồn để động viên mọi nguồn lực của đất nước cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; là chỗ dựa vững chắc, là niềm tin cho mọi cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang, các tầng lớp nhân dân vượt qua mọi khó khăn, thử thách, sẵn sàng xả thân để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

 “Thế trận lòng dân” là cơ sở, nền tảng để xây dựng các tiềm lực khác của nền quốc phòng toàn dân; sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước đối với sự nghiệp quốc phòng; khối đại đoàn kết toàn dân tộc và “thế trận lòng dân” vững chắc là nhân tố trực tiếp, quyết định thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

 “Thế trận lòng dân” vững chắc mới quy tụ được lòng người, quy tụ mọi lực lượng vật chất và tinh thần, tạo nên sức mạnh to lớn bảo đảm cho thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Nếu không tạo được “thế trận” mà để “lòng dân” ly tán thì đó là nguy cơ mất nước trước họa xâm lăng của các thế lực bên ngoài.

b) Từ yêu cầu, nhiệm vụ của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và sự phát triển của cách mạng khoa học công nghệ, bên cạnh những thuận lợi như: xu hướng hòa bình và hợp tác giữ vai trò chủ đạo đã tạo điều kiện cho việc mở rộng quan hệ, hợp tác trong phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân; tiếp thu thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến trong phát triển đất nước; nâng cao trình độ nguồn nhân lực… cũng đặt ra không ít thách thức đối với xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đáng chú ý là tình hình thế giới, khu vực, nhất là Biển Đông diễn biến phức tạp; các vấn đề an ninh phi truyền thống như: xung đột sắc tộc, tôn giáo, tội phạm xuyên quốc, thiên tai, dịch bệnh; sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch đối với Việt Nam bằng thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; các nguy cơ mà Đảng ta chỉ ra vẫn tồn tại, có mặt gay gắt hơn… Bởi vậy, để tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức, vấn đề quan trọng là phải phát huy được sức mạnh tổng hợp của đất nước, điều này đồng nghĩa với việc phải xây dựng được “thế trận lòng dân” vững chắc.

Trước diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, khu vực và trong nước, mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa cũng đặt ra yêu cầu cao đòi hỏi phải xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc. Theo đó, bảo vệ Tổ quốc hiện nay là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ nền văn hoá dân tộc; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Điều này đòi hỏi phải xây dựng được “thế trận lòng dân” vững chắc, làm cơ sở phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

c) Từ thực trạng xây dựng “thế trận lòng dân” của Quân đội trong những năm vừa qua

Những năm qua, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị đã lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn toàn quân quán triệt, triển khai, thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng “thế trận lòng dân”, coi đây là nhiệm vụ chiến lược thường xuyên, lâu dài, liên tục, là một trong những nội dung quan trọng của hoạt động công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam; góp phần quan trọng vào việc quy tụ, tập hợp các tầng lớp nhân dân cùng chung tay, góp sức xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Các cơ quan, đơn vị của Quân đội đã chủ động phối hợp với cấp ủy, chính quyền, ban, ngành, đoàn thể, địa phương tổ chức tuyên truyền, vận động nhân dân và cán bộ, chiến sĩ phát huy truyền thống yêu nước, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc thực hiện thắng lợi các nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các mục tiêu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; góp phần tạo sự đồng thuận trong xã hội, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đồng thời, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, “phi chính trị hóa” Quân đội của các thế lực thù địch, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn cả nước. Cùng với đó, đã tích cực tham gia xây dựng hệ thống chính trị cơ sở địa phương vững mạnh, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, “xóa” thôn, bản “trắng đảng viên”. Chủ động tham mưu với cấp ủy, chính quyền địa phương xây dựng lực lượng vũ trang tại chỗ vững mạnh; thường xuyên xây dựng, bổ sung các phương án, tổ chức diễn tập khu vực phòng thủ, xử lý các tình huống phức tạp về quốc phòng, an ninh, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.

Các cơ quan, đơn vị, nhất là Bộ đội Biên phòng, các binh đoàn, đoàn kinh tế - quốc phòng, cơ quan quân sự địa phương trên các địa bàn: Tây Bắc, miền Trung, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ có nhiều mô hình, chương trình hoạt động hiệu quả, thực hiện hỗ trợ cơ sở vật chất, chuyển giao kỹ thuật nuôi trồng, canh tác, khám chữa bệnh, xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học… góp phần phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo bền vững và thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, hậu phương Quân đội.

Các cơ quan, đơn vị thường xuyên phối hợp với tổ chức đoàn thể, chính quyền địa phương thực hiện các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động do Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và địa phương phát động gắn với các phong trào thi đua: “Dân vận khéo”, “Đơn vị dân vận tốt”, “Đền ơn đáp nghĩa”, “Quân đội chung sức xây dựng nông thôn mới” đạt hiệu quả tích cực, có ý nghĩa chính trị, xã hội to lớn. Nhiều mô hình, chương trình có tính lan tỏa, mang lại hiệu quả thiết thực, như: “Hành quân huấn luyện dã ngoại kết hợp với công tác dân vận”, “Nâng bước em đến trường”, “Trái tim cho em”, “Cảnh sát biển đồng hành với ngư dân”, “Gắn kết giữa hộ gia đình người Kinh với hộ gia đình người đồng bào dân tộc thiểu số”, “Hải quân Việt Nam làm điểm tựa cho ngư dân vươn khơi, bám biển”, “Cảnh sát biển đồng hành với ngư dân”...

Trong phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, bão lũ, cứu hộ, cứu nạn cũng như phòng, chống dịch bệnh… các đơn vị xác định rõ đây vừa là nhiệm vụ chính trị, vừa là nhiệm vụ chiến đấu trong thời bình của Quân đội, nên đã luôn chủ động triển khai đồng bộ từ khâu lập kế hoạch, dự kiến phương án, đến việc chuẩn bị đầy đủ lực lượng, phương tiện, sẵn sàng cơ động làm nhiệm vụ khi có lệnh và khi đã xảy ra, các cán bộ, chiến sĩ Quân đội cũng luôn là lực lượng nòng cốt, đi đầu, kịp thời có mặt, vượt qua hiểm nguy, chia ngọt, sẻ bùi cùng nhân dân khắc phục hậu quả, hỗ trợ lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh để nhân dân sớm ổn định cuộc sống, phát triển sản xuất, được cấp ủy, chính quyền địa phương và nhân dân đánh giá cao.

Những kết quả đó đã khẳng định nhiệm vụ xây dựng “thế trận lòng dân” của Quân đội đã có bước đổi mới toàn diện cả về nội dung, cách làm, sát chức năng, nhiệm vụ, đối tượng, địa bàn và điều kiện của đơn vị, đạt hiệu quả thiết thực; là cầu nối để tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt quân dân, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và Quân đội, xây dựng “thế trận lòng dân” ngày càng vững chắc. Đồng thời, giáo dục, rèn luyện bản lĩnh chính trị, ý thức, trách nhiệm, phong cách của người quân nhân cách mạng cho cán bộ, chiến sĩ; nêu cao niềm tự hào, giữ vững và không ngừng phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới, làm cho phẩm chất này ngày càng được lan tỏa trong toàn quân và trong đời sống xã hội.

Tuy nhiên, việc xây dựng “thế trận lòng dân”, nhất là hiện thực hóa các nội dung trong xây dựng “thế trận lòng dân” ở một số cơ quan, đơn vị của Quân đội còn có mặt hạn chế. Đáng chú ý là, công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, chiến sĩ và các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của nhiệm vụ xây dựng “thế trận lòng dân” trong tình hình mới có lúc, có nơi, có cơ quan, đơn vị tiến hành chưa thường xuyên, liên tục; việc cập nhật và phổ biến những quan điểm, chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước về xây dựng “thế trận lòng dân” đến cán bộ, chiến sĩ có cơ quan, đơn vị chưa kịp thời; nội dung, hình thức, phương pháp tiến hành chậm được đổi mới, vẫn còn hiện tượng xem nhẹ hoặc “khoán trắng” nhiệm vụ xây dựng “thế trận lòng dân” cho các cơ quan chức năng và các tổ chức quần chúng. Đặc biệt, hiện tượng cán bộ, chiến sĩ vi phạm kỷ luật trong quan hệ quân dân chưa được khắc phục triệt để, thậm chí còn để xảy ra những vụ việc nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến tình đoàn kết quân dân, gây tổn hại đến uy tín, bản chất, truyền thống tốt đẹp của quân đội và hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng nhân dân, đồng thời ảnh hưởng không nhỏ đến xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc trong thời kỳ mới.

d) Từ chức năng “đội quân công tác” của Quân đội nhân dân Việt Nam

Từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, dựa vào dân, đoàn kết gắn bó mật thiết với nhân dân là quy luật phát triển, cội nguồn sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của Quân đội ta. Cùng với nhiệm vụ chiến đấu, quân đội phải luôn đi đầu trong tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước; tham gia tích cực, có hiệu quả vào phát triển kinh tế - xã hội, giúp nhân dân xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, xây dựng cơ sở chính trị, đời sống văn hóa mới… nhất là trên các địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; luôn xung kích, nòng cốt trong phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, cứu hộ, cứu nạn… Vì vậy, quân đội phải tiếp tục phát huy vai trò là lực lượng xung kích, nòng cốt, chỗ dựa tin cậy của nhân dân trong mọi trường hợp để góp phần củng cố vững chắc “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng để xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.

II. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO HIỆU QUẢ XÂY DỰNG “THẾ TRẬN LÒNG DÂN” CỦA QUÂN ĐỘI TRONG TÌNH HÌNH MỚI

1. Những nhân tố tác động đến xây dựng “thế trận lòng dân” trong tình hình mới

Hiện nay và trong những năm tới, trên thế giới, khu vực, xu hướng hợp tác, phát triển vẫn là chủ đạo nhưng cũng còn những yếu tố đe dọa hòa bình, an ninh quốc tế, đó là: chủ nghĩa ly khai, mâu thuẫn tôn giáo, sắc tộc, hoạt động khủng bố quốc tế; tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, biển đảo, trong đó có Biển Đông; đề cao, tuyệt đối hóa lợi ích quốc gia và chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa dân túy; tội phạm xuyên quốc gia, biến đổi khí hậu, dịch bệnh, nhất là dịch COVID-19… đã và đang tác động sâu sắc, trực tiếp đến quốc phòng, an ninh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nước ta. 

Cùng với những thách thức từ bên ngoài, ở trong nước, quá trình đổi mới, phát triển, hội nhập quốc tế của đất nước, sự vận hành của thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bên cạnh thành tựu đạt được là cơ bản, cũng bộc lộ những hạn chế, bất cập. Đó là: Sự tác động từ mặt tiêu cực của cơ chế thị trường đã dẫn tới sự bất bình đẳng trong xã hội, tình trạng phân hóa giàu - nghèo ngày càng gia tăng, đời sống vật chất của nhân dân, nhất là ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng trước đây còn nhiều khó khăn, thiếu thốn. Tình trạng thiếu việc làm, nhất là ở những vùng nông thôn đang bị quá trình đô thị hóa tác động (nông dân ở nhiều nơi, nhất là lực lượng lao động chủ chốt đã đổ về thành phố để làm ăn, kiếm sống, làng quê chỉ còn người già, phụ nữ và trẻ em). Điều này đã xảy ra ở nhiều nơi, nhất là ở những vùng nông thôn sản xuất gặp nhiều khó khăn.

Một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ cao cấp suy thoái về đạo đức, lối sống, tham nhũng, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, sống xa dân; trình độ năng lực yếu kém, làm việc kém hiệu quả; tác phong, phương pháp làm việc không tốt, làm phiền hà dân, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân… đã làm suy giảm niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, gây chia rẽ trong nội bộ, là nguyên nhân trực tiếp đe dọa sự tồn vong của chế độ.

Tình trạng triển khai các dự án tràn lan, thậm chí không triển khai theo ký kết, chậm tiến độ, kém hiệu quả, thất thoát tài nguyên của đất nước, tiền của của nhân dân, nhất là những dự án có quy mô lớn, ảnh hưởng lớn đến đời sống của nhân dân và môi trường sinh thái. Một số cơ chế, chính sách không hợp lòng dân, không phù hợp với nguyện vọng chính đáng của quần chúng nhân dân; một số cơ chế, chính sách đúng, nhưng quá trình triển khai thực hiện lại bộc lộ nhiều sai sót, khuyết điểm ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân, nhất là trên lĩnh vực giáo dục, y tế…

Ở một số nơi, trật tự và an toàn xã hội chưa được bảo đảm, ảnh hưởng đến cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân, nhất là vấn đề tiêu cực và tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng; trật tự trong quản lý đô thị, nông thôn; tệ nạn xã hội, tệ nạn ma túy ngày càng gia tăng ở cả thành thị và nông thôn, miền núi; vấn đề an toàn thực phẩm, ô nhiễm môi trường đang ở mức báo động; các sản phẩm phản văn hóa xâm nhập vào nước ta tác động đến một bộ phận nhân dân, đặc biệt là giới trẻ.

Những vấn đề liên quan đến chủ quyền biển đảo, nhất là thái độ và hành động của Trung Quốc trong hoạt động lấn chiếm biển, đảo, vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, đặc biệt trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa diễn biến phức tạp. Chính sách của Việt Nam trước những vấn đề đó cũng là một trong những vấn đề có thể gây nên những nhận thức khác nhau trong một bộ phận nhân dân, nhất là những người còn thiếu thông tin.

Bên cạnh đó, các thế lực thù địch, phản động triệt để lợi dụng vấn đề “dân tộc”, “tôn giáo”, “dân chủ”, “nhân quyền”, cùng với những sơ hở, thiếu sót của ta để xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước, Quân đội bằng nhiều âm mưu, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt và ngày càng công khai, trực diện hơn. Trong đó, phá vỡ “thế trận lòng dân” được chúng xác định là một mục tiêu quan trọng cần tập trung chống phá nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tình đoàn kết quân - dân, làm mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, quân đội, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” quân đội…                     

Các vấn đề nêu trên đã và đang tác động không nhỏ đến quá trình xây dựng “thế trận lòng dân” cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới.

          2. Một số giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả xây dựng “thế trận lòng dân” của Quân đội trong tình hình mới

a) Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân về ý nghĩa, tầm quan trọng của xây dựng “thế trận lòng dân” trong tình hình mới

          Đây là giải pháp cơ bản quan trọng hàng đầu, xuyên suốt quá trình xây dựng “thế trận lòng dân”, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Để thực hiện tốt giải pháp này, các cơ quan, đơn vị trong toàn quân cần tập trung tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ nắm chắc các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về công tác quân sự, quốc phòng, nhất là ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng, mục đích, yêu cầu, nội dung của xây dựng “thế trận lòng dân”. Qua đó, làm cho mọi tổ chức, cơ quan, đơn vị và cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân nhận thức đúng đắn, đầy đủ nhiệm vụ xây dựng “thế trận lòng dân” là chủ trương chiến lược cơ bản, lâu dài, nhất quán của Đảng và Nhà nước ta; là nội dung cơ bản, vấn đề mấu chốt của việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân và xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân trong điều kiện mới; là nghĩa vụ trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, trực tiếp là của cấp, ủy chính quyền, địa phương, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân giữ vai trò nòng cốt. Đồng thời, làm cho mỗi cán bộ, chiến sĩ thống nhất nhận thức: xây dựng “thế trận lòng dân” là nhiệm vụ chính trị quan trọng, thường xuyên và cấp thiết của mọi quân nhân, tổ chức, lực lượng trong toàn quân và không một quân nhân, tổ chức, lực lượng nào được xem nhẹ nhiệm vụ này; đó là yêu cầu khách quan, không phải do ý muốn chủ quan của cá nhân hay tổ chức nào.

          Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sĩ và các tầng lớp nhân dân về âm mưu, thủ đoạn, phương thức tiến hành “diễn biến hòa bình”, kết hợp với bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; về đối tác, đối tượng của cách mạng Việt Nam, đối tượng tác chiến của quân đội trong điều kiện mới; nhận diện đúng về các tổ chức (hội, nhóm) phản động, các phần tử chống đối Đảng, Nhà nước, Quân đội. Đặc biệt là âm mưu, thủ đoạn lợi dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo”, những vấn đề tiêu cực xã hội để kích động, chia rẽ Đảng, Nhà nước, Quân đội với nhân dân, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, nhằm phá vỡ “thế trận lòng dân” trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thấy rõ thời cơ và thách thức đang đặt ra đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung, trong xây dựng, củng cố “thế trận lòng dân” nói riêng; phải làm cho “ý Đảng, lòng dân” về “thế trận lòng dân” thấm sâu vào mỗi người dân, trở thành tư tưởng chủ đạo trong xây dựng “thế trận lòng dân” thời kỳ mới.

Đẩy mạnh công tác giáo dục truyền thống yêu nước, cách mạng của dân tộc, của Đảng, của lực lượng vũ trang nhân dân và từng địa phương, khơi dậy niềm tự hào, lòng tự tôn dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, coi trọng tuyên truyền, giáo dục về tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, truyền thống cách mạng, nghệ thuật quân sự Việt Nam; chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng và củng cố “thế trận lòng dân”, về xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng nền an ninh nhân dân, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; về quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ của công dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại...

Để công tác tuyên truyền, giáo dục đạt chất lượng, hiệu quả đòi hỏi các cơ quan, đơn vị trong toàn quân phải tiến hành thường xuyên, liên tục, đồng bộ, toàn diện và có chiều sâu; vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức, biện pháp tuyên truyền, giáo dục phù hợp với từng đối tượng khác nhau; gắn với phong trào thi đua quyết thắng và các phong trào, cuộc vận động của các cấp, các ngành để thu hút đông đảo mọi người tham gia, tạo ra các hoạt động sôi nổi, có sức lan tỏa mạnh mẽ. Kết hợp chặt chẽ giáo dục chính trị với giáo dục truyền thống, giáo dục quốc phòng, an ninh, gắn với xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần, xây dựng “thế trận lòng dân” trên địa bàn đóng quân. Trong đó, coi trọng thực hiện tốt các hình thức như: thông qua hoạt động giáo dục chính trị tư tưởng, nhất là các hình thức giáo dục chính trị tại đơn vị đã được xác định trong Quy chế giáo dục chính trị trong Quân đội nhân dân và Dân quân tự vệ Việt Nam; thông qua quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ của quân nhân; thông qua các hoạt động ngoại khóa, bổ trợ...; phát huy vai trò các cơ quan thông tấn báo chí, phát thanh và truyền hình, hệ thống báo cáo viên, tuyên truyền viên trong quân đội, nhất là các thiết chế văn hóa ở đơn vị cơ sở, như: phòng Hồ Chí Minh, bảng tin, tranh ảnh cổ động, truyền thanh nội bộ… kiên quyết khắc phục sự rập khuôn, máy móc, xơ cứng hoặc làm một cách hình thức, không thực chất.

          Đặc biệt, cần phát huy tốt vai trò của chính ủy, chính trị viên, cơ quan chính trị, cán bộ chính trị các cấp; tổ chức Đảng, tổ chức chỉ huy và tổ chức quần chúng, các tổ đội công tác, tuyên truyền xung kích…; vai trò của cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương, tăng cường tuyên truyền, giáo dục trên các phương tiện thông tin đại chúng của Trung ương và địa phương bằng nội dung, hình thức phong phú, tạo nên sức mạnh tổng hợp trong công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, pháp luật, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng cho cán bộ, chiến sĩ và các tầng lớp nhân dân trên địa bàn. Kịp thời định hướng dư luận xã hội trước những vấn đề phức tạp, nhạy cảm liên quan đến quốc phòng, an ninh, những thông tin sai sự thật, vu khống, kích động trên địa bàn và đơn vị.

           b) Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh toàn diện, thực sự là lực lượng nòng cốt để xây dựng “thế trận lòng dân”

           Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh toàn diện là một giải pháp quan trọng nhằm củng cố, tăng cường tiềm lực quân sự, làm cơ sở, chỗ dựa vững chắc để xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần, trong đó có “thế trận lòng dân”. Thực hiện giải pháp này, cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị trong toàn quân cần chú trọng làm tốt một số nội dung sau:

          Tập trung xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Thường xuyên làm tốt công tác giáo dục chính trị, nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sĩ về nhiệm vụ quân đội, đơn vị, nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, ý chí quyết tâm cao, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Chăm lo xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh tiêu biểu gắn với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện “tiêu biểu, mẫu mực”; gắn giáo dục chính trị, tư tưởng với công tác quản lý bộ đội; gắn thực hiện phong trào thi đua quyết thắng của đơn vị với phong trào thi đua yêu nước của địa phương, với “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và đẩy mạnh thực hiện Cuộc vận động phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới. Gương mẫu chấp hành và vận động nhân dân, gia đình thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước.

Nâng cao chất lượng huấn luyện, trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu. Làm tốt vai trò tham mưu cho cho cấp ủy, chính quyền địa phương quy hoạch các dự án kinh tế - xã hội; xây dựng cơ sở vững mạnh về chính trị; đầu tư xây dựng các công trình phòng thủ chiến đấu, các căn cứ hậu phương, căn cứ hậu cần - kỹ thuật. Thường xuyên tổ chức luyện tập các phương án tác chiến phòng thủ, sẵn sàng chuyển địa phương từ thời bình sang thời chiến khi có tình huống xảy ra.

          Nâng cao năng lực tham mưu của cơ quan quân sự địa phương nhất là cấp huyện, xã cho cấp ủy, chính quyền địa phương trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, huy động các nguồn lực tại chỗ để củng cố, xây dựng tiềm lực quân sự, chính trị - tinh thần, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, trước hết là “thế trận lòng dân” ở từng khu vực và trên cả nước, đặc biệt là ở các địa bàn chiến lược. Cùng với đó, phải đẩy mạnh xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) vững chắc theo Nghị quyết số 28-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XI, Chỉ thị số 07-CT/TW của Ban Bí thư khóa XI và Nghị định số 152/2007/NĐ-CP của Chính phủ.

          Tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương thực hiện tốt công tác bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho các đối tượng, chú trọng các đối tượng là cán bộ ở cơ sở xã, phường, thị trấn, trưởng thôn, trưởng bản, những người có uy tín trong cộng đồng dân cư, chức sắc, chức việc tôn giáo. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục quốc phòng, an ninh cho toàn dân, tích cực đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền, giáo dục phù hợp với trình độ nhận thức, phong tục, tập quán của nhân dân ở từng địa bàn. Tham mưu, đề xuất các chủ trương biện pháp thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước, chính sách hậu phương quân đội, chính sách người có công trên địa bàn...

Tập trung kiện toàn tổ chức, biên chế các đơn vị thường trực, dân quân tự vệ, dự bị động viên, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Trong đó, tập trung đầu tư cho một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, như Hải quân, Phòng không - Không quân, Tác chiến điện tử, Trinh sát kỹ thuật, Cảnh sát biển, Tình báo,.. phấn đấu từ năm 2030 xây dựng Quân đội hiện đại. Đó là cơ sở để tạo nên sức mạnh chiến đấu mới của quân đội, bảo đảm cho quân đội hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ. Tiếp tục xây dựng lực lượng dự bị động viên “hùng hậu”; nâng cao chất lượng, nhất là chất lượng về chính trị, sức khỏe, tỷ lệ đúng chuyên nghiệp quân sự, đáp ứng yêu cầu chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Trong đó, tập trung thực hiện tốt công tác quản lý cả con người và phương tiện, trang bị; thực hiện tốt kế hoạch huấn luyện, kiểm tra sẵn sàng động viên hằng năm; có kế hoạch động viên công nghiệp phù hợp, bảo đảm tận dụng được thành tựu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Chú trọng xây dựng lực lượng dân quân tự vệ theo phương châm “vững mạnh, rộng khắp”; có số lượng hợp lý, chất lượng tổng hợp ngày càng cao, trước hết là chất lượng chính trị; tổ chức biên chế tinh, gọn, chặt chẽ; trang bị vũ khí phù hợp; được giáo dục chính trị, pháp luật, huấn luyện quân sự toàn diện, thiết thực, từng bước nâng cao khả năng chiến đấu, thực sự là lực lượng chính trị tin cậy của cấp ủy, chính quyền và nhân dân, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân ở địa phương, cơ sở. Quá trình thực hiện cần kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng và hoạt động, tạo điều kiện thuận lợi để lực lượng này bám đất, bám rừng, bám biển, vừa sản xuất, vừa sẵn sàng chiến đấu tự vệ, bảo vệ địa bàn, địa phương, thực hiện đúng chức năng bảo vệ Đảng, chính quyền, bảo vệ tài sản của Nhà nước, tính mạng và tài sản của nhân dân, là lực lượng nòng cốt cùng toàn dân đánh giặc ở địa phương khi có chiến tranh, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Trên cơ sở Luật Dân quân tự vệ, các địa phương nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ dân quân tự vệ; gắn công tác xây dựng cán bộ quân sự xã (phường, thị trấn) với công tác xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở.

Thường xuyên nắm chắc tình hình an ninh, chính trị trên địa bàn, dư luận xã hội, những vấn đề về an ninh nông thôn... tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương giải quyết tốt những vấn đề phức tạp về an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn. Phát huy tốt vai trò trách nhiệm trong tham gia giải quyết những vấn đề phức tạp, điểm nóng, ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở địa phương. Phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền các lực lượng xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh toàn diện, xây dựng cơ quan, đơn vị an toàn, địa bàn đóng quân an toàn.

c) Thực hiện tốt công tác dân vận trong toàn quân, góp phần xây dựng và củng cố “thế trận lòng dân” vững chắc

Công tác dân vận là một nội dung quan trọng của hoạt động công tác đảng, công tác chính trị; nhiệm vụ chính trị thường xuyên của các đơn vị Quân đội. Thực hiện tốt công tác dân vận là tình cảm, trách nhiệm của lãnh đạo, chỉ huy các cấp và mọi cán bộ, chiến sĩ, góp phần xây dựng và củng cố mối quan hệ đoàn kết gắn bó máu thịt quân - dân, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc.

Để đạt hiệu quả cao trong thực hiện công tác dân vận, các cơ quan, đơn vị cần tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm nghị quyết, chỉ thị, kết luận, hướng dẫn… của Đảng về công tác dân vận, trọng tâm là Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 03-6-2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong thời kỳ mới”; Kết luận 43-KL/TW ngày 07-01-2019 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 03-6-2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”. Nghị quyết số 49-NQ/QUTW ngày 26-01-2015 của Quân ủy Trung ương về “Tăng cường và đổi mới công tác dân vận của Quân đội trong thời kỳ mới mới”… Các cơ quan, đơn vị cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sĩ về vị trí, vai trò, nội dung, phương pháp tiến hành công tác dân vận, nhất là các đơn vị đóng quân trên địa bàn trọng điểm, vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc, tôn giáo, vùng biên giới, hải đảo; phát huy tính tiền phong, gương mẫu, tác phong công tác của cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cấp, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và trách nhiệm trong tiến hành công tác dân vận. Chủ động làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, phát hiện, đấu tranh và khắc phục những biểu hiện sai trái, lệch lạc trong tiến hành công tác dân vận.

Chủ động tham mưu, đề xuất, nâng cao hiệu quả công tác dân vận trên các địa bàn, trong các nhiệm vụ, hướng mạnh về cơ sở, tích cực nghiên cứu giải pháp giải quyết hiệu quả những vấn đề mới nảy sinh. Trước hết, cần tham mưu, chỉ đạo đổi mới nội dung, hình thức, biện pháp tiến hành công tác dân vận trong vùng đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất; tích cực tham gia xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, “thế trận lòng dân” vững chắc, góp phần xây dựng khu vực phòng thủ vững mạnh, đặc biệt là vùng biên giới, biển, đảo của Tổ quốc. Tiếp tục đổi mới cơ chế, nâng cao chất lượng hoạt động phối hợp, huy động các lực lượng tham gia, tăng nguồn lực cho công tác dân vận; chủ động phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội và các lực lượng trên địa bàn thực hiện có hiệu quả công tác dân vận, thực hiện các chủ trương phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh và các phong trào do Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, cấp ủy, chính quyền địa phương tổ chức phát động. Cơ quan quân sự địa phương phát huy vai trò tham mưu cho cấp ủy, chính quyền và là trung tâm phối hợp với các lực lượng trong thực hiện công tác dân vận.

Tích cực đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp công tác dân vận, sát thực tiễn, phù hợp với địa bàn, từng đối tượng người dân. Chú trọng thực hiện có hiệu quả các hình thức, hoạt động kết nghĩa, giao lưu, hành quân dã ngoại kết hợp với làm công tác dân vận, tổ chức các tổ đội công tác và cán bộ tăng cường cho cơ sở; các chương trình, kế hoạch phối hợp hoạt động với các ban, ngành, các tổ chức chính trị - xã hội của địa phương. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chủ trương, chương trình, mục tiêu, kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh của cấp ủy, chính quyền địa phương, nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào tôn giáo, vùng biên giới, hải đảo.

Phát huy vai trò của cán bộ, chiến sĩ trong thực hiện nhiệm vụ tăng cường tại các địa bàn trong xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh. Nâng cao chất lượng công tác nắm tình hình địa bàn, sớm phát hiện và giải quyết kịp thời những vấn đề mới nảy sinh, không để xảy ra các “điểm nóng”. Vận động nhân dân thực hiện tốt chủ trương, đường lối, quan điểm ngoại giao nhân dân, đối ngoại quốc phòng, xây dựng các tuyến biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định và phát triển. Tích cực tham gia giúp nhân dân xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, phát triển văn hóa - xã hội; phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, bão lũ, dịch bệnh, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn…; phối hợp với các lực lượng công an nhân dân, chính quyền địa phương, kiên quyết đấu tranh phòng, chống tội phạm, xây dựng địa bàn an toàn, có đời sống văn hóa mới. Tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu bổ sung, phát triển lý luận công tác dân vận của Quân đội trong điều kiện mới. Tập trung nghiên cứu xây dựng và vận dụng các mô hình tiên tiến, tiêu biểu về công tác dân vận khéo ở các vùng đô thị, khu công nghiệp, các địa phương có đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào tôn giáo sinh sống, các địa bàn trọng yếu về quốc phòng, an ninh...

Phát huy vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy, cơ quan chính trị các cấp trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác dân vận. Các cấp ủy cần bổ sung, sửa đổi quy chế làm việc, quy chế lãnh đạo sát với chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị mình; làm tốt việc phân công cấp ủy viên phụ trách công tác dân vận; gắn kết quả công tác dân vận với đánh giá, phân loại tổ chức đảng, đảng viên và bình xét thi đua, khen thưởng hằng năm. Chính ủy, chính trị viên là người chủ trì, chịu trách nhiệm trước cấp ủy và người chỉ huy cấp trên, cấp ủy cấp mình về lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác dân vận, nên phải thường xuyên kiểm tra, giám sát, phát hiện, ngăn chặn kịp thời những biểu hiện sai trái, lệch lạc trong quá trình thực hiện. Người chỉ huy chủ động xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện nghị quyết; rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy chế, quy định về điều hành, xử lý công việc gắn với đổi mới phương pháp, tác phong công tác, thực hiện nghiêm chế độ làm việc. Cơ quan chính trị các cấp thực hiện tốt việc tham mưu giúp cấp ủy, chỉ huy và hướng dẫn thực hiện kế hoạch, kiểm tra, sơ kết, tổng kết, biểu dương, khen thưởng, nhân rộng điển hình công tác dân vận; khắc phục các biểu hiện xem nhẹ công tác dân vận, coi đó là việc của cơ quan chính trị và cán bộ dân vận chuyên trách.

Thường xuyên quan tâm xây dựng, củng cố, kiện toàn cơ quan và đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận các cấp có chất lượng, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận có phẩm chất đạo đức tốt, trình độ, năng lực và có kỹ năng tuyên truyền, vận động quần chúng khéo theo phong cách của Bác Hồ. Thực hiện tốt lời dạy của Bác: Cán bộ dân vận phải “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”, luôn “gần dân, học dân, nghe theo dân”. Làm tốt việc tuyển chọn cán bộ đảm nhiệm công tác dân vận; quan tâm đào tạo, bồi dưỡng phẩm chất chính trị, lòng say mê, nhiệt huyết, có trình độ, năng lực chuyên môn tốt, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Đồng thời, có chính sách đãi ngộ phù hợp đối với cán bộ làm công tác dân vận, nhất là cán bộ công tác ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, địa bàn trọng điểm về quốc phòng - an ninh. Chú trọng xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, quản lý, sử dụng đội ngũ cán bộ dân vận chuyên trách là con em đồng bào các dân tộc thiểu số, đồng bào tôn giáo...

Tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua “Dân vận khéo”, xây dựng “Đơn vị dân vận tốt”, gắn với việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và đẩy mạnh thực hiện Cuộc vận động phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới nhằm nâng cao ý thức bảo vệ Tổ quốc, vì nhân dân phục vụ của cán bộ, chiến sĩ. Kết hợp chặt chẽ hoạt động công tác dân vận với phong trào thi đua quyết thắng của Quân đội, các phong trào do Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và địa phương phát động, làm cho công tác dân vận phát triển toàn diện, rộng khắp, đạt chất lượng, hiệu quả thiết thực. Phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng và Hội đồng quân nhân trong việc tham gia ý kiến, hiến kế và bàn biện pháp thực hiện hiệu quả nghị quyết của cấp ủy, chỉ thị, mệnh lệnh của người chỉ huy đối với công tác dân vận. Thông qua thực tiễn tiến hành công tác dân vận, phát hiện, bồi dưỡng, phát triển và nhân rộng những mô hình, điển hình tiên tiến, cách làm hay, sáng tạo, gương người tốt, việc tốt để tuyên truyền, phổ biến rộng rãi trong toàn quân, toàn quốc.

d) Chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”của các thế lực thù địch nhằm phá vỡ “thế trận lòng dân”, chia rẽ mối quan hệ đoàn kết quân dân

Đây là giải pháp rất quan trọng trong xây dựng tình đoàn kết quân – dân, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và quân đội, qua đó góp phần xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc.

Để đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, trước hết, các cơ quan, đơn vị trong toàn quân cần thường xuyên tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ và các tầng lớp nhân dân nhận thức rõ âm mưu, thủ đoạn và phương thức tiến hành của các thế lực thù địch hòng phá vỡ “thế trận lòng dân”, chia rẽ, phá hoại mối quan hệ đoàn kết quân dân. Đặc biệt là âm mưu xuyên tạc chức năng, nhiệm vụ, bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc của Quân đội, bôi nhọ hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”. Chủ động vạch trần âm mưu, thủ đoạn thâm độc, tinh vi, xảo quyệt của các thế lực thù địch lợi dụng những sai phạm, tiêu cực của một số quân nhân để xuyên tạc bản chất, truyền thống quân đội, kích động, gây rối, chia rẽ quân đội với nhân dân và chống phá thành quả cách mạng nước ta. Tuyền truyền, vận động nhân dân tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng đã lựa chọn. Đồng thời, tăng cường vận động, khích lệ quần chúng nhân dân nêu cao tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc, phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quân dân trong các cuộc kháng chiến trước đây, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, đồng tâm hiệp lực cùng Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc vượt qua mọi khó khăn, thử thách, vững bước trên con đường xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.

Tăng cường hơn nữa công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, thông tin, tuyên truyền làm cho cán bộ, chiến sĩ và các tầng lớp nhân dân nhận thức sâu sắc, đầy đủ vai trò, ý nghĩa của mối quan hệ “máu - thịt” quân dân. Đồng thời, phải tiếp tục đẩy mạnh giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sĩ về bản chất, truyền thống vẻ vang của Quân đội ta, nhất là mối quan hệ đoàn kết quân - dân gắn bó, như “cá với nước”. Qua đó, bồi đắp, xây dựng lòng tự hào, ý thức trách nhiệm cho mọi cán bộ, chiến sĩ trong vun đắp, giữ gìn, phát huy, phát triển mối quan hệ “máu - thịt” giữa quân với dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Cần thấm nhuần hơn nữa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Quân đội ta là quân đội nhân dân, là con em, ruột thịt của nhân dân; nhân dân là nền tảng sức mạnh, là cha mẹ của bộ đội, chỉ có trên nền tảng vững chắc là nhân dân, thì Quân đội mới hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. Theo đó, từng cấp, ngành, cơ quan, đơn vị và mỗi cán bộ, chiến sĩ cần đề cao trách nhiệm trong tổ chức, thực hiện tốt mối quan hệ đoàn kết quân - dân; không ngừng tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc của Quân đội, xây dựng Quân đội nhân dân vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, phát huy bản chất, truyền thống tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới.

Hiện nay, các thế lực thù địch, phản động luôn thổi phồng những khuyết điểm để hạ thấp vai trò, uy tín, niềm tin của nhân dân đối với cán bộ, chiến sĩ quân đội, làm lu mờ hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng nhân dân. Do đó, mỗi cán bộ, chiến sĩ phải thường xuyên đề cao ý thức, trách nhiệm trong việc giữ vững phẩm chất tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội, nhất là kỷ luật trong quan hệ quân dân. Đồng thời, tự xây dựng và làm giàu cho mình những giá trị văn hóa, phẩm chất đạo đức, lối sống cao đẹp của người quân nhân cách mạng trong tình hình mới. Đây chính là chất tạo sức đề kháng, “miễn dịch” trước những cám dỗ của lối sống thấp hèn, suy đồi, không rơi vào những cạm bẫy của các thế lực thù địch. Mỗi cán bộ, chiến sĩ phải thực sự gương mẫu, đi đầu trong việc giúp đỡ nhân dân vượt qua thách thức, khó khăn trong cuộc sống, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư…

Tiếp tục đổi mới hình thức, biện pháp tuyên truyền, vận động nhân dân; kịp thời, nhạy bén nhận diện, phân loại và kiên quyết đấu tranh vạch trần bản chất, âm mưu, thủ đoạn, những quan điểm sai trái thù địch, những luận điệu xuyên tạc, bóp méo sự thật của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị. Thực hiện nhất quán chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước; tuyên truyền, vận động nhân dân không tin, không nghe theo kẻ xấu kích động, gây rối trật tự, an toàn xã hội, để trì trệ sản xuất, kinh doanh, vượt biên trái phép, tham gia “tà đạo, đạo lạ” và các tổ chức bất hợp pháp.

Cấp ủy đảng, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy, cơ quan chính trị các cấp trong Quân đội cần thường xuyên quan tâm chăm lo xây dựng môi trường văn hóa quân sự trong sạch, lành mạnh; phối hợp chặt chẽ với đảng bộ, chính quyền và nhân dân tiến hành tốt công tác “tuyên truyền đặc biệt” nhằm nắm vững và hiểu rõ âm mưu, thủ đoạn, hoạt động phá hoại “thế trận lòng dân”, gây chia rẽ giữa nhân dân với Quân đội, từ đó có biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi các tệ nạn, tiêu cực ngoài xã hội thẩm thấu, xâm nhập vào các cơ quan, đơn vị. Mặt khác, phải làm tốt công tác bảo vệ an ninh, chính trị nội bộ, nhất là “tự bảo vệ” của cán bộ, chiến sĩ; chủ động thực hiện tốt công tác dự báo, bám sát, nắm chắc, phân tích đúng, giải quyết tốt tình hình tư tưởng, kỷ luật trong đơn vị. Đây là biện pháp hữu hiệu vừa quản lý tốt đội ngũ cán bộ, vừa chống biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; ngăn ngừa và làm thất bại thủ đoạn khoét sâu vào những hạn chế, khuyết điểm của cán bộ, chiến sĩ để chia rẽ, gây mất đoàn kết giữa nhân dân và Quân đội ta trong tình hình hiện nay.

Tích cực tham gia xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh. Thông qua công tác dân vận, các cơ quan, đơn vị quân đội tích cực giúp đỡ cấp ủy, chính quyền nhân dân địa phương giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; luôn là lực lượng đi đầu ở những nơi khó khăn, gian khổ nhất, kề vai sát cánh cùng nhân dân trong phòng, chống bão lũ, thiên tai, dịch bệnh, xóa đói giảm nghèo, xây dựng kinh tế… góp phần ổn định đời sống của nhân dân. Các đơn vị quân đội đóng quân hoặc làm nhiệm vụ trên các địa bàn, phải xây dựng và duy trì thường xuyên nền nếp, chế độ nắm tình hình thực hiện mối quan hệ đoàn kết quân dân, phát hiện âm mưu, thủ đoạn chống phá mới của kẻ địch trên địa bàn, có kế hoạch hoạt động phù hợp và xử lý kịp thời những tình huống xảy ra, không để bị động bất ngờ. Thường xuyên thực hiện tự phê bình và lắng nghe ý kiến phê bình của cấp ủy, chính quyền, đoàn thể và nhân dân địa phương về thực hiện đoàn kết giữa đơn vị với nhân dân địa phương; định kỳ thông báo tình hình, rút kinh nghiệm phối hợp hoạt động giữa địa phương và đơn vị. Cùng với địa phương tổ chức tốt sơ kết, tổng kết các hoạt động Quân đội tham gia xây dựng cơ sở chính trị địa phương và địa phương tham gia xây dựng Quân đội, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng “thế trận lòng dân” và xây dựng mối quan hệ đoàn kết quân dân trong thời kỳ mới.

Cấp ủy, chỉ huy các đơn vị quân đội phải thường xuyên rà soát và chủ động giải quyết đúng đắn, kịp thời những vấn đề còn tồn đọng từ trước và những vấn đề mới phát sinh trong quan hệ quân dân, có biện pháp khắc phục kịp thời, không để kéo dài, không để sơ hở cho các thế lực thù địch và phần tử xấu lợi dụng kích động quần chúng, gây chia rẽ quân đội với nhân dân, hoặc đẩy những vướng mắc nội bộ giữa quân đội với nhân dân thành mâu thuẫn đối kháng. Khi tham mưu, phối hợp với cấp ủy, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể địa phương và các lực lượng chức năng trong giải quyết điểm nóng, vụ việc phức tạp như: khiếu kiện đông người, tranh chấp đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng... cần hết sức bình tĩnh, thận trọng, kiên trì, linh hoạt, mềm dẻo, lấy vận động, giáo dục và thuyết phục là chính; tuân thủ đúng pháp luật, đúng nguyên tắc, cơ chế và chức năng, nhiệm vụ được quy định, không để các thế lực thù địch lợi dụng xuyên tạc, vu cáo, bôi nhọ hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”.

Cùng với các nội dung, biện pháp trên, toàn quân cần phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực lượng, nhất là Ban chỉ đạo 35 và Lực lượng 47 ở các cấp, tăng tần suất, số lượng, chất lượng các bài viết trực tiếp đấu tranh trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên không gian mạng, tạo làn sóng mạnh mẽ vạch trần, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn, hoạt động của các thế lực thù địch, phản động nhằm vào quân đội, nhất là tổ chức nhiều vệt bài đấu tranh, phản bác trực diện những luận điệu xuyên tạc, hạ thấp, bôi nhọ bản chất, truyền thống đoàn kết quân - dân, góp phần xây dựng mối quan hệ đoàn kết quân dân ngày càng thêm bền chặt.

KẾT LUẬN

Hiện nay, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đang đứng trước thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen. Trước tình hình đó, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phải quán triệt sâu sắc vị trí, vai trò quan trọng của “thế trận lòng dân” và quan điểm của Đảng về “Xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân”.

Xây dựng “thế trận lòng dân” là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, nhưng trước hết Quân đội nhân dân giữ vai trò là lực lượng nòng cốt. Để nâng cao hiệu quả xây dựng “thế trận lòng dân” của Quân đội trong tình hình mới phải thực hiện đồng bộ các giải pháp. Trong đó, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân về ý nghĩa, tầm quan trọng của xây dựng “thế trận lòng dân” trong tình hình mới; xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh toàn diện, thực sự là lực lượng nòng cốt để xây dựng “thế trận lòng dân”; thực hiện tốt công tác dân vận trong toàn quân, góp phần xây dựng và củng cố “thế trận lòng dân” vững chắc; chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”của các thế lực thù địch nhằm phá vỡ “thế trận lòng dân”, chia rẽ mối quan hệ đoàn kết quân dân là những giải pháp quan trọng./.

 

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam - Tài liệu học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb CTQG, H. 2003, tr.46.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr.109.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG-ST, H, 2011, tr.224-235.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb CTQG, H. 2013, tr.169.

[5] Sđd, tr.69.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr.149.

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam - Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng, Lưu hành nội bộ, tháng 4/2020, tr.49.

Từ khóa » Việc Ban Hành Các đạo Luật Và Xây Dựng Quân đội để Làm Gì