Cơ Cấu Lại Nền Kinh Tế Và đổi Mới Mô Hình Tăng Trưởng Tại Việt Nam ...
Có thể bạn quan tâm
- Thời sự
Kết quả thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng giai đoạn 2016-2021
Trong giai đoạn 2016-2021, việc thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng đã đạt được nhiều kết quả tích cực, quan trọng, hoàn thành cơ bản các mục tiêu đề ra. Quy mô, tiềm lực, sức cạnh tranh của nền kinh tế được tăng lên rõ rệt, từ đó tạo tiền đề thuận lợi cho những đổi mới và đột phá trong tăng trưởng kinh tế ở giai đoạn tiếp theo. Trong đó, một số kết quả nổi bật sau:
Một là, củng cố vững chắc cân đối vĩ mô và kết cấu nền kinh tế, nâng cao chất lượng tăng trưởng, thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
- Tăng trưởng kinh tế từng bước được cải thiện, đạt mức tăng khá trong những năm vừa qua: Trong đó, tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2016-2020 đạt mức 6,01% (cao hơn tốc độ tăng bình quân 5,91%/năm của giai đoạn 2011-2015). 9 tháng năm 2021 do ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh COVID-19, tốc độ tăng trưởng có xu hướng suy giảm và chỉ đạt 1,42%. Tuy vậy, Việt Nam vẫn là một trong số rất ít quốc gia duy trì tăng trưởng dương trong năm 2021 và thuộc nhóm nước tăng trưởng cao trên thế giới.
- Lạm phát và lạm phát cơ bản tiếp tục được kiểm soát và có xu hướng giảm: Trong đó, lạm phát giảm từ mức 7,65% giai đoạn 2011-2015 xuống còn 3,14% giai đoạn 2016-2020. Năm 2021, CPI bình quân tăng 1,84% so với bình quân năm 2020, đạt mục tiêu đề ra.
- Cách thức và chất lượng tăng trưởng liên tiếp được cải thiện: Năng suất lao động (NSLĐ) tăng đều qua các năm trong giai đoạn 2016-2020 và cả năm 2021. Giai đoạn 2016-2020, tốc độ tăng NSLĐ bình quân đạt 5,82%, cao hơn mức tăng 4,36% của giai đoạn 2011-2015. Năm 2021, mặc dù bị tác động tiêu cực của dịch bệnh COVID-19, ước tính tốc độ tăng NSLĐ vẫn đạt mức 4,71%, qua đó, góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng tăng trưởng.
- Tăng trưởng kinh tế dần dịch chuyển sang chiều sâu, trên cơ sở ứng dụng khoa học-công nghệ và đổi mới sáng tạo: Mức đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) trong tăng trưởng kinh tế ngày một lớn. Tính chung cả giai đoạn 2016 – 2020, đóng góp của TFP vào tăng trưởng kinh tế đạt 45,57% (Vượt mục tiêu đặt ra là đóng góp của TFP vào tăng trưởng 5 năm giai đoạn 2016–2020 đạt khoảng 30-35%), cao hơn mức 32,88% của giai đoạn 2011-2015. Năm 2021, đóng góp của TFP vào tăng trưởng tiếp tục được duy trì và ước đạt khoảng 37,13%.
- Khu vực kinh tế tư nhân có những dấu hiệu phát triển tích cực, góp phần gia tăng vai trò của khu vực tư nhân đối với tăng trưởng kinh tế: Cơ cấu vốn đầu tư trong tổng đầu tư toàn xã hội dịch chuyển tích cực: Tỷ trọng vốn đầu tư từ khu vực nhà nước giảm từ mức trung bình 39,04% giai đoạn 2011-2015 xuống còn 34,34% giai đoạn 2016-2020, ước năm 2021 giảm còn 24,7%; Tỷ trọng vốn đầu tư từ khu vực ngoài nhà nước tăng từ mức 38,26% giai đoạn 2011-2015 lên 42,7% giai đoạn 2016-2020, ước năm 2021 tăng lên 59,5%. Cơ cấu kinh tế dịch chuyển tích cực theo hướng khu vực kinh tế tư nhân tăng nhanh hơn trung bình giai đoạn 2011-2015 đạt 6,14% lên mức trung bình 6,7% giai đoạn 2016-2020 và cải thiện tỷ trọng đóng góp vào GDP.
Hai là, các nhiệm vụ trong tâm trong cơ cấu lại nền kinh tế được thúc đẩy thực hiện và đạt được nhiều kết quả tích cực.
- Cơ cấu lại đầu tư công: Giai đoạn 2016-2020, thể chế đầu tư công từng bước được hoàn thiện. Kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động đầu tư công được nâng cao, dần khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải và giải quyết nợ đọng xây dựng cơ bản. Năm 2021, Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 đã được xây dựng và được Quốc hội ban hành; bảo đảm nguyên tắc, thứ tự ưu tiên, thu hồi dứt điểm số vốn ứng trước kế hoạch đã được tổng hợp, báo cáo trong giai đoạn trước; hoàn thành các dự án chuyển tiếp, giảm số dự án khởi công mới so với giai đoạn trước, tiếp tục khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải... Cùng với đó, các giải pháp quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành được thực hiện, nâng cao ý thức, trách nhiệm của các bộ, cơ quan, địa phương trong việc bố trí vốn cho từng dự án cụ thể. Ứng dụng công nghệ thông tin được đẩy mạnh, phát huy hiệu quả Hệ thống thông tin quốc gia về đầu tư công trong công tác giao, phân bổ, báo cáo, điều chỉnh kế hoạch, bảo đảm công khai, minh mạch trong đầu tư công.
- Cơ cấu lại DN nhà nước (DNNN): Giai đoạn 2016-2020, cơ cấu lại DNNN được đẩy mạnh và thực chất hơn so với giai đoạn trước và được thực hiện một cách công khai, minh bạch, theo cơ chế thị trường, từ đó số lượng DNNN được thu gọn, tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt. Mô hình quản lý, giám sát DNNN và vốn, tài sản nhà nước đầu tư tại DN dần được hoàn thiện. Tổng giá trị vốn chủ sở hữu nhà nước được bảo toàn và phát triển, tỷ lệ DNNN có lãi tăng. Năm 2021, cơ cấu lại DNNN tiếp tục được xác định là một nhiệm vụ quan trọng và tập trung chỉ đạo thường xuyên, liên tục với việc ban hành các văn bản pháp luật về tình hình hoạt động, sắp xếp và đổi mới DNNN.
- Cơ cấu lại ngân sách nhà nước (NSNN) và các tổ chức tín dụng (TCTD) được tích cực triển khai, góp phần củng cố nền tảng tài chính vĩ mô, qua đó tạo thêm dư địa để thực hiện các giải pháp tài chính, tín dụng hỗ trợ DN và người dân dưới tác động của dịch bênh COVID-19:
+ Cơ cấu lại NSNN đã đạt được những thay đổi tích cực về quy mô và cơ cấu thu, chi ngân sách. Giai đoạn 2016-2020, cơ cấu thu bền vững hơn, tăng tỷ trọng thu nội địa. Giảm tỷ trọng chi thường xuyên và tăng tỷ trọng chi đầu tư. Bội chi ngân sách từng bước được kiềm chế, cơ cấu lại theo hướng bền vững, giảm mạnh tỷ lệ nợ công từ mức 63,7% GDP cuối năm 2016 xuống còn 55,9% GDP năm 2020, nợ Chính phủ khoảng 49,9% GDP (trong giới hạn an toàn theo Nghị quyết số 25/2016/QH14 của Quốc hội). Năm 2021, dịch bệnh COVID-19 đã tác động mạnh đến cơ cấu thu chi ngân sách, ước tính bội chi NSNN trong phạm vi dự toán khoảng 4% GDP; Nợ công đến cuối năm 2021 khoảng 43,7% GDP.
+ Các mục tiêu cơ cấu lại các TCTD cơ bản hoàn thành. Giai đoạn 2021-2020, các ngân hàng cơ bản đáp ứng tỷ lệ an toàn vốn theo quy định áp dụng tiêu chuẩn Basel II tại Việt Nam. Tình trạng sở hữu chéo, đầu tư chéo trong hệ thống các TCTD đã được xử lý, tình trạng thao túng, chi phối ngân hàng cơ bản được kiểm soát. Hệ thống các TCTD đã được củng cố một bước, nâng cao hơn năng lực quản trị; xử lý nợ xấu tại các TCTD đã được đẩy nhanh thực hiện một cách thực chất, hiệu quả hơn; lãi suất cho vay trung bình giảm, dòng vốn tín dụng chuyển dịch nhiều hơn vào các ngành sản xuất. Năm 2021, các giải pháp nhằm giám sát chặt chẽ các TCTD trong việc thực hiện phương án cơ cấu lại tiếp tục được triển khai nhằm xử lý nợ xấu phù hợp với diễn biến dịch bệnh COVID-19.
- Cơ cấu lại các ngành kinh tế được thực hiện theo hướng tăng cường áp dụng khoa học-công nghệ; tổ chức lại sản xuất theo chuỗi liên kết, hình thành cơ cấu ngành, nội bộ ngành hợp lý hơn, thúc đẩy tăng năng suất:
+ Cơ cấu lại ngành công nghiệp: Cơ cấu ngành công nghiệp dịch chuyển theo hướng tích cực, tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP từ 14,3% năm 2016 lên ước hoảng 16,9% năm 2020. Một số ngành công nghiệp mũi nhọn đã có tốc độ phát triển đột phá (Ngành điện tử, ngành công nghiệp thực phẩm, ngành công nghiệp, công nghiệp công nghệ thông tin). Năm 2021 dưới tác động nặng của dịch bệnh COVID-19, tăng trưởng khu vực công nghiệp và xây dựng vẫn được duy trì và đạt 4,05%, đóng góp tới 63,8% trong tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế. Công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục là động lực tăng trưởng với tốc độ tăng 6,37%.
+ Cơ cấu lại ngành nông nghiệp: Nông nghiệp tiếp tục khẳng định vai trò trụ đỡ của nền kinh tế trong bối cảnh khó khăn, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Sản xuất nông nghiệp có sự chuyển hướng tập trung vào những ngành có giá trị gia tăng cao hơn và có thị trường xuất khẩu đa dạng hơn. Nhiều mô hình sản xuất ứng dụng công nghệ cao xuất hiện, đầu tư của DN vào nông nghiệp gia tăng. Khoa học công nghệ được ứng dụng rộng rãi hơn.
+ Cơ cấu lại khu vực dịch vụ: Cơ cấu lại khu vực dịch vụ được thúc đẩy theo hướng nâng cao chất lượng dịch vụ, tập trung đầu tư cơ sở vật chất và phát triển đa dạng các sản phẩm. Các ngành có tiềm năng, lợi thế, có hàm lượng khoa học, công nghệ cao được tập trung phát triển. Ngành du lịch có nhiều chuyển biến tích cực.
Ba là, các loại thị trường được hình thành và phát triển.
Quy mô và cơ cấu thị trường tài chính có sự điều chỉnh hợp lý hơn. Thể chế phát triển thị trường quyền sử dụng đất từng bước được hoàn thiện. Thị trường lao động được tăng cường thông qua dự báo, kết nối cung- cầu lao động. Thị trường khoa học và công nghệ sôi động hơn, giá trị giao dịch và số lượng sáng chế đăng ký bảo hộ tăng.
Một số tồn tại, hạn chế trong quá trình thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng giai đoạn 2016-2021
Mặc dù, đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, việc triển khai kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng giai đoạn 2016-2021 tại Việt Nam vẫn còn một số hạn chế sau:
Một là, mô hình tăng trưởng có thay đổi nhưng chưa rõ nét. Kinh tế vĩ mô còn tiềm ẩn một số rủi ro, nền tảng vĩ mô chưa thực sự vững chắc, nền kinh tế có độ mở cao và phụ thuộc vào nguồn nguyên vật liệu nhập khẩu, dịch bệnh gây đứt gãy nguồn cung khiến việc kiểm soát lạm phát trong nước tiềm ẩn nhiều khó khăn, thách thức. Tốc độ tăng NSLĐ còn thấp; tăng NSLĐ vẫn chủ yếu do tăng cường độ vốn, đóng góp của tiến bộ khoa học công nghệ vào tăng trưởng NSLĐ còn thấp.
Hai là, cơ cấu lại 3 lĩnh vực trọng tâm (đầu tư công, DN nhà nước, các tổ chức tín dụng) còn hạn chế, khó khăn.
- Giải ngân vốn đầu tư công thấp, chậm được khắc phục. Tỷ lệ giải ngân thấp làm giảm hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công. Một số bất cập trong công tác quản lý và thực hiện đầu tư công chậm được giải quyết như: Cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành, giữa trung ương và địa phương trong việc xử lý vướng mắc đầu tư công chưa hiệu quả; Chưa có giải pháp căn cơ, xử lý dứt điểm nhất là công tác giải phóng mặt bằng; Công tác triển khai thực hiện chưa quyết liệt, người đứng đầu ở một số nơi còn chưa sâu sát, thiếu đôn đốc, kiểm tra...
- Tiến độ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại DN chậm. Công tác xử lý một số dự án, DN chậm tiến độ, kém hiệu quả vẫn còn hạn chế. Một số dự án đã duy trì vận hành sản xuất, có sản phẩm, giải quyết việc làm cho người lao động nhưng còn nhiều khó khăn, lỗ lũy kế lớn; một số dự án còn dở dang...
- Việc xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém còn hạn chế. Tỷ lệ nợ xấu nội bảng của các TCTD có xu hướng tăng trong năm 2021, từ mức 1,69% (cuối năm 2020) lên 1,92% (cuối tháng 12/2021).
Ba là, tăng trưởng kinh tế và phát triển các ngành, lĩnh vực gặp rất nhiều khó khăn, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm: Hoạt động sản xuất công nghiệp gặp nhiều khó khăn do dịch COVID-19 đã lây lan, xâm nhập các khu công nghiệp, khu chế xuất. Công nghiệp chế biến, chế tạo vẫn chủ yếu đang hoạt động ở phân khúc thấp trong chuỗi giá trị, nơi tạo ra giá trị gia tăng thấp. Công nghiệp hỗ trợ phát triển chậm, chưa đáp ứng được nhu cầu của các ngành công nghiệp trong nước. Khu vực dịch vụ chưa phát triển tương xứng với tiềm năng, chịu tác động nặng nề nhất vì dịch bệnh COVID-19. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, chưa đạt yêu cầu, ước năm 2021 khu vực dịch vụ chiếm tỷ trọng khoảng 40,95% GDP, giảm so với năm 2020 (41,9%); khu vực nông nghiệp chiếm khoảng 12,36% GDP, tương đương năm 2020; khu vực công nghiệp - xây dựng chiếm khoảng 37,86%, tăng so với năm 2020 (36,9%).
Bốn là, khu vực kinh tế tư nhân còn chậm phát triển. DN trong nước chủ yếu có quy mô vừa, nhỏ, sức cạnh tranh còn thấp gặp rất nhiều khó khăn dưới tác động của dịch bệnh COVID-19 kéo dài; chi phí sản xuất tăng cao do giá nguyên liệu đầu, chi phí vận chuyển, logistics tăng và phát sinh chi phí phòng, chống dịch bệnh. Nhiều DN bị gián đoạn sản xuất, thiếu hụt lao động, doanh thu giảm mạnh, phải dừng sản xuất, chuyển đơn hàng tạm thời.
Năm là, một số thị trường hoạt động còn hạn chế, chậm phát triển. Năng lực của thị trường vốn còn hạn chế, đặc biệt là khả năng huy động và hấp thụ vốn chưa cao. Việc kết nối cung-cầu trên thị trường lao động và chất lượng nguồn nhân lực vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Thị trường quyền sử dụng đất, đặc biệt đất nông nghiệp còn nhiều bất cập. Thị trường khoa học công nghệ phát triển chậm, chưa thực sự là động lực để nâng cao năng suất, năng lực cạnh tranh.
Các hạn chế trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó các nguyên nhân nổi bật như sau:
- Nguyên nhân chủ quan: (1) Định hướng ưu tiên về cơ cấu lại nền kinh tế chưa được quán triệt xuyên suốt và nhất quán trong chỉ đạo, điều hành. Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan liên quan trong thực hiện một số nhiệm vụ cơ cấu lại nền kinh tế; (2) Những tồn tại, bất cập trong nhiều quy định hiện hành đang kìm hãm việc thực hiện có hiệu quả các giải pháp cơ cấu lại nền kinh tế. Trong đó, đặc biệt thể chế thị trường các yếu tố sản xuất chậm phát triển, chưa là cơ chế chính trong phân bổ nguồn lực để đạt được hiệu quả cao nhất. Các cải cách thể chế và thực hiện các chương trình cơ cấu lại nền kinh tế chưa được tiến hành một cách nhất quán, toàn diện, đủ rộng và đủ mạnh để chuyển sang kinh tế thị trường đầy đủ và hiện đại, từng bước hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý và năng động hơn.
- Nguyên nhân khách quan: Bên cạnh những nguyên nhân nội tại của nền kinh tế, nguyên nhân khách quan cơ bản là do dịch bệnh COVID-19 diễn biến nhanh, phức tạp, kéo dài trên diện rộng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến các trung tâm kinh tế lớn, vùng động lực của cả nước. Cùng với đó là các yếu tố như: một số chuỗi cung ứng quốc tế bị gián đoạn, đứt gãy, giá nguyên, nhiên, vật liệu, cước, phí vận chuyển hàng hóa quốc tế... tăng cao; Dòng vốn FDI toàn cầu phục hồi chậm đã tác động, ảnh hưởng đến tình hình và triển vọng thu hút FDI trong nước.
Định hướng tiếp tục cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021 - 2025
Dự báo tình hình kinh tế thế giới trong thời gian tới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường. Đặc biệt, đại dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, khó kiểm soát, gây ra suy thoái kinh tế trầm trọng trên toàn cầu, có khả năng tác động lâu dài đến nền kinh tế; làm thay đổi sâu sắc trật tự, cấu trúc kinh tế, phương thức quản trị, cách thức hoạt động kinh tế và tổ chức đời sống xã hội của thế giới. Ở trong nước, nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Các vấn đề về năng suất, hạ tầng, khai thác, sử dụng hiệu quả các nguồn lực cho phát triển kinh tế xã hội, xử lý ô nhiễm môi trường, già hóa dân số, chênh lệch giàu – nghèo, ứng phó với biến đổi khí hậu, đặc biệt ảnh hưởng tiêu cực của dịch bệnh COVID-19 kéo dài… đặt ra các áp lực lớn đến phát triển kinh tế - xã hội.
Trong bối đó, cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng cần phải được thực hiện với các mục tiêu cụ thể và các giải pháp quyết liệt hơn để hỗ trợ quá trình phục hồi và phát triển trong trạng thái bình thường mới trong và sau dịch bệnh COVID-19. Theo đó, trong giai đoạn tới cần quán triệt các quan điểm và thực hiện có trọng tâm các nhiệm vụ sau đây:
Thứ nhất, bên cạnh việc tiếp tục đặt ra yêu cầu về nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế như giai đoạn trước đây, cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng giai đoạn tới cần bổ sung một số quan điểm mới để đáp ứng yêu cầu của bối cảnh mới. Trong đó, nổi bật là: Xây dựng nền kinh tế tự chủ, nâng cao khả năng thích ứng và sức chống chịu của nền kinh tế, khai thác tối đa các cơ hội từ xu hướng phục hồi của kinh tế thế giới, quá trình tái cấu trúc chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu, xu hướng phát triển kinh tế xanh; Lấy hoàn thiện thể chế, chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo làm đột phá, bổ sung nhiệm vụ trọng tâm là cơ cấu lại không gian kinh tế; Phát huy cao độ yếu tố con người, giá trị văn hóa, truyền thống, tinh thần đoàn kết dân tộc.
Thứ hai, bên cạnh các giải pháp cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng đã được ra, cần tập trung thực hiện các nhiệm vụ quan trọng, mang tính đột phá sau đây:
- Thúc đẩy, thát triển kinh tế số nhằm tận dụng tốt hơn cơ hội CMCN4.0, phù hợp với xu thế phát triển mới, tạo động lực tăng trưởng, tăng năng suất, tạo sức bật cho nền kinh tế.
- Tập trung thực hiện cơ cấu lại không gian kinh tế, phát triển kinh tế đô thị, vùng kinh tế trọng điểm, kết nối vùng, kết nối thành thị-nông thôn nhằm khai thác, phát huy tốt hơn lợi thế, tiện ích đô thị để đổi mới mô hình tăng trưởng, gia tăng lợi ích lan tỏa theo vùng.
- Thực hiện cơ cấu lại và phát triển lực lượng DN lớn mạnh, nâng cao năng lực cạnh tranh, năng lực nội tại và tính tự chủ, tự cường của nền kinh tế, khai thác hiệu quả hội nhập quốc tế; phát triển các tập đoàn, DN lớn cả nhà nước và tư nhân có năng lực cạnh tranh khu vực và toàn cầu, kết nối DN vừa và nhỏ với các DN lớn, DN có vốn đầu tư nước ngoài, kết nối chuỗi sản xuất trong nước và toàn cầu.
- Thực hiện cấu lại ngành kinh tế theo hướng nâng cấp chuỗi giá trị các ngành dựa vào ứng dụng tiến bộ khoa học- công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế xanh, tăng cường thích ứng với biến đổi khí hậu.
+ Cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng phát triển nông nghiệp bền vững, nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng và khả năng cạnh tranh nông sản; bảo vệ môi trường, sinh thái; nâng cao thu nhập cho người dân ở khu vực nông thôn; đảm bảo an ninh lương thực và an ninh quốc phòng.
+ Cơ cấu lại ngành công nghiệp theo hướng phát triển với cơ cấu hợp lý theo vùng, ngành và sản phẩm, phù hợp với giai đoạn công nghiệp hóa mới của đất nước; từng bước đảm bảo năng lực sản xuất quốc gia có tính tự chủ, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu và củng cố vị trí là một trong những trung tâm sản xuất công nghiệp xuất khẩu của thế giới với công nghệ sản xuất hiện đại và có năng lực cạnh tranh thuộc nhóm ASEAN-4.
+ Cơ cấu lại ngành dịch vụ theo hướng nâng cấp chuỗi giá trị, phát triển những ngành có lợi thế, có giá trị gia tăng cao; thúc đẩy ứng dụng công nghệ số, phát triển các loại hình dịch vụ số, nội dung số nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế số; phát triển thương mại nội địa để khai thác có hiệu quả thị trường trong nước; tập trung hỗ trợ hình thành các tập đoàn/DN lớn trong lĩnh vực phân phối, thực hiện chuyển dịch hệ thống phân phối sang các loại hình hiện đại.
+ Thực hiện cơ cấu lại và phát triển đồng bộ các loại hình thị trường yếu tố sản xuất nhằm huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực phát triển.
Thứ ba, kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng cần tập trung, quan tâm nhiều hơn đến tổ chức thực hiện. Theo đó, cần xác định các nhiệm vụ cụ thể, phân công rõ ràng cho các bộ, ngành, địa phương gắn với việc phát huy tính chủ động, sáng tạo, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, phối hợp đi đôi với tăng cường đánh giá, kiểm tra, giám sát. Kế hoạch được triển khai gắn với Chương trình tổng thể phục hồi nền kinh tế sau dịch bệnh COVID-19; Chính phủ cần theo dõi, đánh giá tình hình và kết quả tái cơ cấu nền kinh tế nói chung và tái cơ cấu trên phạm vi ngành, lĩnh vực và địa phương nói riêng.
(*) Trần Thị Hồng Minh - Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương - Bài đăng trên Tạp chí Tài chính Kỳ 1+2 Tháng 1/2022.
Từ khóa » Cơ Cấu Kinh Tế Việt Nam Hiện Nay
-
Tổng Quan Về Việt Nam - World Bank
-
Cơ Cấu Lại Nền Kinh Tế: Nhìn Lại Giai đoạn 2016-2021 Và Những định ...
-
Kế Hoạch Cơ Cấu Lại Nền Kinh Tế Giai đoạn 2021-2025: Thực Chất Và ...
-
Cơ Cấu Lại Nền Kinh Tế Nhằm Tạo Sự Thay đổi Rõ Nét Trong Mô Hình ...
-
Thông Cáo Báo Chí Về Tình Hình Kinh Tế – Xã Hội Quý I Năm 2022
-
Kinh Tế Việt Nam – Wikipedia Tiếng Việt
-
Tái Cơ Cấu Kinh Tế Gắn Với Chuyển đổi Mô Hình Tăng Trưởng ở Việt Nam
-
Cơ Cấu Lại Kinh Tế Việt Nam 5 Năm Tới Dựa Vào Chuyển đổi Số
-
Kế Hoạch Cơ Cấu Lại Nền Kinh Tế đến Năm 2025
-
Tái Cơ Cấu Kinh Tế địa Phương Và Những Vấn đề đặt Ra - Chi Tiết Tin
-
Tái Cơ Cấu Kinh Tế Giai đoạn 2021 - 2025 - Tin Bộ Tài Chính
-
[PDF] TÁI CƠ CẤU KINH TẾ VIỆT NAM
-
Kinh Tế Việt Nam Năm 2021 Và Triển Vọng Năm 2022