Coi Trung Gioi - Thông Thiên Học
Có thể bạn quan tâm
| |
HOME TÌM HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN HÌNH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS
| | CÕI TRUNG GIỚI VÀ CƯ DÂN Ở CÁC CẢNH Trích Chương 16 Quyển THỂ VÍA VÀ CÁC HIỆN TƯỢNG KHÁC CỦA CÕI TRUNG GIỚI Tác giả A. E. POWELL Bản Dịch: Chơn Như - 2013 | |
CÕI TRUNG GIỚI VÀ CƯ DÂN Ở CÁC CẢNH
Xét về tính phức tạp mà đề tài cho phép, ta sẽ chỉ hạn chế chương này trong việc miêu tả bản chất, dáng vẻ bên ngoài và những đặc tính v.v… của cõi trung giới. Trong chương sau này ta sẽ dành nó để liệt kê và miêu tả những thực thể sống trên cõi trung giới.
Học viên thông minh ắt nhận thấy cực kỳ khó khăn trong việc dùng ngôn ngữ cõi trần để miêu tả thỏa đáng được cõi trung giới. Nhiệm vụ này đã được so sánh với việc một người thám hiểm một khu rừng nhiệt đới chưa ai biết tới được yêu cầu tường trình đầy đủ về vùng mà y đã đi ngang qua. Những khó khăn trong việc miêu tả cõi trung giới còn phức tạp hơn nữa do hai yếu tố: (1)- khó khăn trong việc phiên dịch chính xác từ cõi trung giới xuống cõi hồng trần hồi ức về điều mà ta đã nhìn thấy. (2)- ngôn ngữ cõi hồng trần không thỏa đáng để diễn tả nhiều điều cần được tường trình.
Một trong những đặc trưng nổi bật nhất của trung giới là nó chứa đầy những hình thể liên tục biến đổi; ta thấy ở đó chẳng những có các hình tư tưởng, cấu tạo bằng chất tinh hoa ngũ hành do một tư tưởng làm linh hoạt, còn có những khối tinh hoa ngũ hành do một tư tưởng làm linh hoạt, mà còn có những khối lớn tinh hoa ngũ hành từ đó xuất lộ liên tục các hình dáng, để rồi các hình dáng ấy lại biến mất vào đó. Tinh hoa ngũ hành tồn tại theo hàng trăm biến thể trên mỗi cảnh, dường như thể không khí mà ta nhìn thấy thường xuyên chuyển động dợn sóng với những màu sắc thay đổi như xà cừ. Các dòng tư tưởng liên tục lướt qua vật chất trung giới, các tư tưởng mạnh mẽ dai dẳng đóng vai trò các thực thể trong một thời gian dài, các tư tưởng yếu ớt khoác lấy tinh hoa ngũ hành rồi lại chập chờn rủ bỏ nó.
Ta đã thấy rằng vật chất trung giới tồn tại theo bảy cấp tinh vi, tương ứng với bảy mức độ trên cõi trần là chất đặc, chất lỏng, chất hơi v.v… Mỗi một trong bảy cấp độ vật chất này là cơ sở của một trong bảy lớp, mức tố phân hoặc cảnh (chúng được gọi khác nhau như vậy) của cõi trung giới.
Người ta thường nói tới bảy mức xếp chồng lên nhau, mức thô nhất xếp dưới đáy, còn mức tinh vi nhất xếp trên ngọn: và trong nhiều sơ đồ thì người ta thực sự vẽ chúng theo kiểu này. Trong phương pháp biểu diễn ấy có một cơ sở sự thật nhưng không phải là toàn bộ sự thật.
Vật chất của mỗi cảnh lồng vào vật chất của cảnh bên dưới nó; vì vậy ở trên mặt đất, tất cả bảy cảnh đều cùng nhau tồn tại ở cùng một vùng không gian. Tuy nhiên cũng đúng thật là các cảnh cao của cõi trung giới mở rộng thêm nữa ra khỏi cõi hồng trần của quả đất so với các cảnh thấp hơn.
Một sự tương tự rất khít khao trong mối quan hệ giữa các cảnh trong cõi trung giới cũng tồn tại trên cõi hồng trần. Chất lỏng đan xen vào chất đặc trong một chừng mực đáng kể, nghĩa là ta thấy nước có trong lòng đất, chất hơi thâm nhập vào chất lỏng (nước thường chứa một khối lượng không khí đáng kể) và v.v…
Tuy nhiên, quả thật đúng là khối vật chất thể lỏng của trái đất phần lớn nằm nơi biển cả, sông ngòi v.v… bên trên thể đặc của trái đất. Cũng giống như vậy, đại khối vật chất thuộc thể hơi nằm bên trên mặt nước và tiến sâu vào trong không gian nhiều hơn cả chất đặc hoặc chất lỏng.
Đối với vật chất trung giới thì cũng như vậy. Cho đến nay khối tập hợp thô trược nhất của chất trung giới nằm bên trong giới hạn của quả cầu vật lý. Về phương diện này ta nên lưu ý rằng vật chất trung giới tuân theo những định luật tổng quát giống như vật chất hồng trần và chịu hấp lực hướng về tâm quả đất.
Cảnh thứ bảy tức cảnh thấp nhất của cõi trung giới xuyên thấu đến một khoảng cách nào đó vào phía bên trong trái đất, sao cho các thực thể sống trên đó có thể thấy mình thật sự ở bên trong vỏ trái đất.
Cảnh thứ sáu phần nào trùng với bề mặt trái đất.
Cảnh thứ ba mà các nhà Thần linh học gọi là “Thế giới trường hạ”, trải dài nhiều dặm lên phía trên bầu khí quyển.
Giới hạn ngoài cùng của cõi Trung giới mở rộng gần tới mức khoảng cách trung bình quĩ đạo của mặt trăng, sao cho ở điểm cận địa, cõi trung giới của trái đất và cõi trung giới của mặt trăng thường tiếp xúc với nhau nhưng chúng không tiếp xúc với nhau ở điểm viễn địa. (Chú ý: trái đất và mặt trăng hầu như cách nhau 240.000 dặm). Vì thế cho nên người Hi Lạp mới gọi nó là cõi tinh tú tức cõi dưới mặt trăng. Suy ra rằng vào những lúc nào đó trong một tháng, người ta có thể giao tiếp với mặt trăng qua cõi trung giới, nhưng vào lúc khác thì không được. Thật vậy, có một trường hợp được ghi chép lại, theo đó một người xuất vía lên mặt trăng nhưng phải chờ cho đến khi giao thông được tái lập trở lại khi vệ tinh của trái đất lại đến gần hành tinh thì y mới tìm đường về trái đất được.
Bảy cảnh tự nhiên là chia thành ba nhóm, (a) cảnh thứ bảy tức cảnh thấp nhất, (b) cảnh thứ sáu, thứ năm và thứ tư, (c) cảnh thứ ba, thứ nhì và thứ nhất. Sự khác nhau giữa các thành viên thuộc cùng một nhóm có thể được so sánh với sự khác nhau giữa hai chất rắn, chẳng hạn như thép và cát, sự khác nhau giữa các nhóm có thể được so sánh với sự khác nhau giữa chất đặc và chất lỏng.
Cảnh thứ bảy có bối cảnh là cõi hồng trần, mặc dù người ta chỉ thấy một cách méo mó và riêng phần bởi vì người ta dường như không nhìn thấy mọi điều tươi sáng và tốt đẹp. Cách đây 4000 năm, Thầy ký Ani đã miêu tả nó trong một quyển sách giấy cuộn của Ai Cập như sau: “Cái nơi chốn mà tôi đến đây là nơi nào vậy? Nó chẳng có nước, chằng có không khí; nó sâu hút khôn dò; nó tối đen như đêm ba mươi, và người ta quờ quạng lang thang trong đó; nơi đây người ta không thể sống mà tâm hồn được thanh thản”.
Đối với con người bất hạnh ở mức ấy, quả thật đúng là “trọn cả trần thế đều đầy tràn cư dân độc ác và hắc ám”, nhưng đó là sự hắc ám tỏa ra từ chính bên trong y và khiến cho kiếp sống của y phải trải qua trong một đêm đen dài dằng dặc đầy điều khủng khiếp và gian ác – quả thật là địa ngục, mặc dù cũng như mọi địa ngục khác, nó hoàn toàn do chính con người tạo ra.
Hầu hết, học viên thấy việc khảo cứu phân bộ này là việc cực kỳ khó chịu, bởi vì dường như có một ý thức trọng trược và vật chất thô kệch lởn vởn đâu đây, ghê tởm không thể mô tả được đối với thể vía đã được giải thoát, gây cho nó cảm giác phải vạch được đi qua một lưu chất đặc sệt đen ngòm, trong khi các cư dân và ảnh hưởng mà ta gặp ở đó cũng thường là vô cùng bất hảo.
Kẻ đứng đắn thông thường có lẽ chẳng hề bị giam giữ nơi cảnh thứ bảy, chỉ kẻ nào bình thường thức tỉnh về tâm thức trên cảnh này là những kẻ có ham muốn thô tục và tàn bạo: kẻ nghiện rượu, kẻ ham mê ngũ dục, kẻ gây tội ác bạo hành v.v. . .
Các cảnh thứ sáu, năm và bốn có bối cảnh là cõi hồng trần mà chúng ta quen thuộc. Sinh hoạt trên cảnh thứ sáu giống như sinh hoạt bình thường trên cõi hồng trần, ngoại trừ không có thể xác và những nhu cầu thiết yếu của thể xác. Các cảnh thứ năm và bốn có tính cách ít vật chất hơn và xa lìa hạ giới cùng với những điều thú vị của nó.
Cũng như trong trường hợp cõi trần, vật chất thô nhất của cõi trung giới quá thô trược đối với các dạng sinh linh bình thường trên cõi trung giới, nhưng cõi trung giới có các dạng sinh linh khác của riêng mình mà những học viên nghiên cứu phớt qua hoàn toàn không biết.
Trên các cảnh thứ năm và bốn, những sự liên hệ thuần túy trần tục có vẻ càng ngày càng ít quan trọng, và thiên hạ ở đó càng ngày càng có khuynh hướng uốn nắn môi trường xung quanh mình phù hợp với những tư tưởng dai dẳng hơn của mình.
Các cảnh thứ ba, thứ nhì và thứ nhất, mặc dù chiếm cùng một chỗ trong không gian nhưng tạo cho ta ấn tượng còn xa rời hơn nữa đối với cõi hồng trần và tương ứng với nó có tính cánh ít vật chất hơn. Ở những mức này, các thực thể quên mất trần thế và những sự việc trần tục; họ thường đắm mình sâu sắc vào thế giới của riêng mình và phần lớn là tạo ra môi trường xung quanh của chính mình, mặc dù chúng có đầy đủ mức độ ngoại giới để cho các thực thể khác nhận thức được.
Như vậy họ ít tỉnh thức với những thực tại trên cõi trung giới, mà thay vào đó lại sống trong những thị trấn tưởng tượng của chính mình, một phần hoàn toàn do tư tưởng của chính họ tạo ra, một phần do kế thừa và thêm thắt vào những cấu trúc đã được tiền nhân sáng tạo.
Ở đây ta cũng thấy có những vùng đất để săn thú rất vui thích của người da đỏ, Valhalla của người Bắc Âu, thiên đường đầy dẫy các tiên nữ của tín đồ Hồi giáo, Tân Jerusalem có cổng bằng vàng và ngọc quí của Ki Tô hữu, thiên đường đầy dẫy các giảng đường của các nhà cải cách duy vật. Ở đây ta cũng thấy “Thế giới trường hạ” của các nhà Thần linh học, trong đó có tồn tại những căn nhà, những trường học, những đô thị v.v. . . chúng có tính chất có thưc trong một thời gian nào đó đương thời, đối với người có tầm nhìn sáng suốt hơn thì đôi khi chẳng giống gì cả, thật là đáng thương so với những người sáng tạo thích thú giả định rằng chúng được như thế. Tuy nhiên, nhiều điều sáng tạo có tính có thực mặc dù chỉ đẹp tạm bợ, và một khách tham quan chẳng biết gì về điều cao siêu hơn có thể tự mãn đi dạo khắp phong cảnh thiên nhiên phô bày ra, mà dù sao đi nữa cũng cao siêu hơn nhiều so với bất cứ thứ gì trên cõi trần; hoặc cố nhiên y muốn kiến tạo phong cảnh của mình để thích ứng với những điều hoang tưởng của riêng mình.
Cảnh thứ nhì đặc biệt là nơi cư trú của nhà tôn giáo ích kỷ hoặc thiếu tính linh. Ở đây y đội vương miện bằng vàng và tôn thờ sự biểu diễn duy vật thô thiển của chính mình về đấng thiêng liêng đặc thù đối với xứ sở và thời đại của mình.
Cảnh thứ nhất đặc biệt thích hợp với những kẻ nào trong khi sinh hoạt trên trần thế là hiến mình cho những đeo đuổi trí thức mang tính duy vật, theo đuổi chúng không phải vì ích lợi cho đồng loại, mà hoặc là vì động cơ thúc đẩy mang tính tham vọng ích kỷ hoặc chỉ vì ích lợi là rèn luyện trí năng. Những người như thế có thể ở lại trên cảnh này trong nhiều năm, sung sướng thể hiện ra giải quyết những bài toán về trí năng của mình nhưng không mang lại ích lợi cho bất cứ ai và chẳng tiến bộ được bao nhiêu trên con đường tiến về cõi thiên đường.
Trên cảnh nguyên tử này, người ta không tự mình xây dựng những quan niệm tưởng tượng như ở các cảnh thấp hơn. Các nhà tư tưởng và các nhà khoa học gia thường sử dụng cho mục đích nghiên cứu của mình hầu hết mọi quyền năng của trọn cả cõi trung giới, vì họ có thể đi xuống hầu như tới tận cõi hồng trần dọc theo một vài đường lối hạn hẹp. Thế là họ có thể sà xuống âm bản trên cõi trung giới của một quyển sách trên cõi trần rồi rút ra từ đó thông tin mà mình đang cần. Họ dễ dàng tiếp xúc với cái trí của một tác giả, dùng ý tưởng của mình gây ấn tượng lên tác giả, rồi nhận trở lại ý tưởng của tác giả. Đôi khi họ làm trì hoãn nghiêm trọng việc mình ra đi nhập vào cõi thiên đường do tham lam theo đuổi những đường lối nghiên cứu và thực nghiệm trên cõi trung giới.
Mặc dù ta nói tới vật chất trung giới là thể đặc, nhưng nó thật ra chưa bao giờ đặc mà chỉ tương đối đặc thôi. Một trong những lý do khiến cho những nhà luyện kim đan thời trung cổ trình bày vật chất chất trung giới qua biểu tượng nước chính là vì nó có tính chất lưu động và dễ thâm nhập. Các hạt trong chất trung giới thô nhất cách xa nhau tương đối theo cách thức tương đối của chúng hơn cả hạt chất khí. Vì thế cho nên hai thể vía thô trược nhất cũng dễ dàng đi xuyên qua nhau hơn mức chất khí nhẹ nhất khuếch tán trong không khí.
Con người trên cõi trung giới có thể và dứt khoát đi xuyên qua nhau thường xuyên, đi xuyên qua những vật cố định trên cõi trung giới. Không bao giờ có thể có một điều gì giống như điều được ngụ ý là sự va chạm và trong tình huống bình thường thì hai vật thể lồng vào nhau thậm chí cũng chẳng ảnh hưởng bao nhiêu tới nhau. Tuy nhiên, nếu sự lồng vào nhau tồn tại trong một thời gian, chẳng hạn như hai người ngồi sát cạnh nhau trong nhà thờ hoặc rạp hát, thì một tác dụng đáng kể có thể được tạo ra.
Nếu con người nghĩ rằng trái núi là một chướng ngại vật thì y không thể đi ngang qua nó. Học biết được rằng nó không phải là chướng ngại vật chính là mục đích của một bộ phận của cái gọi là “sự trắc nghiệm trên trần thế”.
Một vụ nổ trên cõi trung giới có thể nhất thời tai hại như vụ nổ thuốc súng trên cõi hồng trần, nhưng các mảnh vụn trên cõi trung giới ắt nhanh chóng tụ tập lại. Vì vậy không thể có tai nạn trên cõi trung giới theo nghĩa mà ta hiểu từ ngữ này, bởi vì thể vía vốn linh động cho nên không thể bị tiêu diệt hoặc tổn thương mãi mãi giống như thể xác.
Ta có thể di chuyển một vật thuần túy bằng chất trung giới nhờ vào một bàn tay bằng chất trung giới nếu ta muốn, nhưng ta không thể di chuyển được âm bản của một vật trên cõi trần. Để di chuyển được một âm bản thì ta cần phải hiện hình ra một bàn tay làm cho vật ấy di chuyển thì dĩ nhiên âm bản cũng đi theo vật ấy. Âm bản ở đâu bởi vì vật trên cõi trần ở đó, cũng giống như mùi thơm của một hoa hồng tỏa ngát căn phòng bởi vì hoa hồng ở đó. Người ta không thể di chuyển một vật trên cõi trần bằng cách làm di chuyển âm bản của nó cũng giống như người ta không thể di chuyển đóa hoa hồng bằng cách làm chuyển động mùi thơm của nó.
Trên cõi trung giới, người ta chẳng bao giờ chạm được vào bề mặt của bất cứ thứ gì, để cảm thấy nó là cứng hay mềm, thô nhám hay trơn nhẵn, lạnh hay nóng; nhưng người ta tiếp xúc chất liệu thấu suốt nó thì ý thức được nhịp độ rung động khác, mà dĩ nhiên có thể dễ chịu hay khó chịu, gây kích thích hoặc gây buồn nản.
Vậy là nếu người ta đứng trên mặt đất, thì một phần của thể vía xuyên thấu lồng vào đất dưới chơn mình; nhưng thể vía ắt không có ý thức về sự kiện ấy qua bất cứ thứ gì tương ứng với cảm giác cứng rắn hoặc bất cứ sự khác nhau nào về quyền năng vận động.
Trên cõi trung giới, người ta không có ý thức nhảy qua một vực sâu mà chỉ trôi nổi bên trên nó.
Mặc dù ánh sáng của mọi cõi đều xuất phát từ mặt trời, thế nhưng tác dụng mà nó tạo ra nơi cõi trung giới khác hẳn tác dụng trên cõi trần. Nơi cõi trung giới có một sự tỏa sáng bàng bạc, không rõ rệt xuất phát từ bất kỳ hướng đặc biệt nào. Mọi chất trung giới bản thân nó đều chói sáng, mặc dù thể vía không giống như một hình cầu được sơn lên, mà đúng hơn là một hình cầu lửa linh hoạt. Tuy nhiên trên cõi trung giới nó không bao giờ tối đen. Việc một đám mây trên cõi trần đi qua trước mặt trời không gây ra bất kỳ sự khác nhau nào trên cõi trung giới; dĩ nhiên bóng của trái đất mà ta gọi là đêm đen cũng có tính cách ấy. Vì các thể vía là trong suốt cho nên không có bóng.
Tình hình khí hậu và thời tiết thật ra không có gì khác nhau khi ta làm việc trên cõi trung giới và cõi trí tuệ. Nhưng sống ở một thành phố lớn lại tạo ra khác nhau nhiều, vì có những khối hình tư tưởng.
Trên cõi trung giới có nhiều dòng với khuynh hướng mang đi những người thiếu ý chí và ngay cả những người có ý chí nhưng không biết cách sủ dụng nó.
Trên cõi trung giới không có chuyện đi ngủ.
Trên cõi trung giới ta cũng có thể quên giống như trên cõi trần. Thậm chí trên cõi trung giới có thể dễ quên hơn trên cõi trần, bởi vì cõi ấy rất bận rộn và đông dân xiết bao.
Biết một người trên cõi trung giới không nhất thiết là biết về y trên cõi trần.
Cõi trung giới thường được gọi là cõi hão huyền – chẳng phải vì bản thân nó mang tính hão huyền hơn cõi hồng trần, mà vì những ấn tượng do những người thấu thị không lão luyện mang về từ cõi trung giới hết sức không đáng tin cậy. Ta có thể giải thích điều này chủ yếu do hai đặc tính nổi bật của cõi trung giới: (1)- nhiều cư dân có khả năng kỳ diệu thay đổi hình dạng như chớp và cũng làm mà mắt thực tế là vô hạn đối với kẻ nào họ muốn đùa giỡn chơi, và (2)- thần nhãn trên cõi trung giới rất khác và mở rộng hơn nhiều so với tầm nhìn trên cõi trần.
Vậy là do thần nhãn trung giới có thể nói là thấy một vật từ mọi phía cùng một lúc, mọi hạt bên trong một vật rắn chắc cũng mở ra rõ rệt trước tầm nhìn của người ấy giống như những hạt ở bên ngoài và mọi thứ hoàn toàn không bị méo mó do phối cảnh.
Nếu ta dùng thần nhãn nhìn vào một cái đồng hồ đeo tay, thì ta ắt thấy mặt đồng hồ và mọi bánh xe nằm riêng rẽ, chứ không hề bánh xe này nằm chồng lên bánh xe kia. Khi nhìn vào một quyển sách khép kín ta ắt thấy từng trang một, không phải xuyên qua mọi trang khác phía trước hoặc phía sau nó, mà nhìn thẳng vào nó dường như thể đó là trang duy nhất mà ta nhìn thấy.
Ta dễ dàng hiểu được rằng trong tình huống như vậy, ngay cả những vật quen thuộc nhất thoạt đầu cũng có thể là hoàn toàn không thể nhận diện được, và một khách tham quan thiếu kinh nghiệm có thể gặp khó khăn vô vàn trong việc tìm hiểu điều mình thật sự nhìn thấy, và còn khó khăn hơn nữa khi chuyển dịch tầm nhìn của mình thành ra ngôn ngữ rất bất cập của lời nói bình thường. Thế nhưng ta chỉ ngẫm nghĩ một chút thì cũng thấy rằng nhìn bằng thần nhãn giống hơn nhiều đối với nhận thức chân thực hơn hẳn nhìn bằng mắt phàm, vốn phải chịu những sự méo mó do phối cảnh.
Ngoài những nguồn sai lầm khả hữu nêu trên, vấn đề còn phức tạp hơn nữa do sự kiện thần nhãn trung giới nhận biết được những dạng vật chất trong khi vẫn thuần túy thuộc cõi hồng trần thì song le không nhìn thấy được trong tình huống thông thường. Chẳng hạn như đó là cái hạt cấu tạo thành bầu khi quyển, mọi sự phóng phát liên tục bắn ra do mọi vật có sự sống, cũng như là bốn cấp chất dĩ thái.
Hơn nữa, thần nhãn cõi trung giới tiết lộ cho ta thấy những màu khác và những màu khác hẳn vượt ngoài tầm giới hạn quang phổ bình thường thấy được, các tia hồng ngoại và tử ngoại mà khoa học vật lý thấy được thì thần nhãn trung giới nhìn thấy rất rõ ràng.
Vậy là ta hãy xét một ví dụ cụ thể, một tảng đá nhìn bằng thần nhãn trung giới không chỉ là khối đá trơ trơ ra đó. Nhờ vào thần nhãn trung giới, ta thấy được, (1)- trọn cả vật chất thuộc cõi trần, thay vì chỉ một phần rất nhỏ vật chất thuộc cõi trần, (2)- những rung động của các hạt trên cõi trần cũng có thể nhận thức được, (3)- ta thấy được âm bản bao gồm đủ cấp vật chất trung giới, tất cả đều thường xuyên chuyển động, (4)- ta thấy sự sống đại đồng vũ trụ (prana) chu lưu qua nó và từ nó xạ ra, (5)- ta ắt thấy được một vùng hào quang bao quanh nó, (6)- ta thấy được tinh hoa ngũ hành thích hợp với nó đan lồng vào nó, hằng hoạt động và hằng dao động. Trong trường hợp các giới thực vật, động vật và nhân loại thì dĩ nhiên còn nhiều phức tạp hơn nữa.
Một ví dụ điển hình về loại nhầm lẫn rất có thể xảy ra trên cõi trung giới là việc thường xuyên đảo ngược bất cứ con sốnào mà nhà thấu thị phải ghi lại sao cho y có thể đọc chẳng hạn như 139 thành 931 v.v. . . Trong trường hợp một học viên huyền bí học được một Chơn sư tài ba rèn luyện thì không thể mắc phải lỗi ấy, trừ phi y quá hấp tấp hoặc cẩu thả, bởi vì học trò phải trải qua một khóa huấn luyện với nhiều chủ đề về cái thuật nhìn cho chính xác này. Một nhà thấu thị lão luyện sớm muộn gì cũng đạt được mức chắc chắn và đáng tin cậy khi xử trí các hiện tượng trên cõi trung giới vượt xa bất cứ thứ gì có thể đạt được trong sinh hoạt cõi trần.
Thật là một quan điểm hoàn toàn sai lầm khi nói tới cõi trung giới một cách khinh thường và nghĩ rằng nó chẳng đáng cho ta chú ý. Cố nhiên nó chắc chắn là tai hại cho bất cứ học viên nào lơ là cho sự phát triển cao siêu hơn, và tự mãn với việc đạt được ý thức trên cõi trung giới. Trong một số trường hợp, ta quả thật có thể phát triển được năng khiếu trí tuệ cao siêu hơn trước tiên, có thể nói là nhất thời bỏ qua cõi trung giới. Nhưng đây không phải là phương pháp thông thường mà các Chơn sư Minh triết chọn dùng cho các đệ tử. Đối với hầu hết mọi người thì không thể thực hành việc tiến bộ bằng cách nhảy vọt, vì vậy cần phải chầm chậm tiến từ bước một.
Trong quyển Tiếng Nói Vô Thinh có đề cập tới ba phòng: phòng thứ nhất tức Phòng Vô minh trên cõi hồng trần, phòng thứ nhì tức Phòng Học tập trên cõi trung giới, ta gọi nó như thế bởi vì việc khai mở các luân xa thể vía tiết lộ nhiều điều hơn hẳn so với những thứ nhìn thấy được trên cõi hồng trần, mà con người cảm thấy y tiến gần hơn tới thực tại của sự vật, tuy nhiên nó vẫn còn là nơi chốn của việc học tập sự. Ta còn đạt được kiến thức chân thực và xác định hơn nữa trong Phòng Minh triết vốn là cõi trí tuệ.
Một bộ phận quan trọng của phong cảnh trên trung giới bao gồm cái mà ta thường gọi (mặc dù sai lầm) là các Ký ảnh của Tinh tú quang. Những ký ảnh này (vốn thực ra là một loại hiện hình của ký ức Thượng Đế - một biểu diễn sống động bằng phim ảnh của tất cả những gì đã từng xảy ra) quả thật được ghi khắc thường trụ trên một cảnh còn cao hơn nhiều, nó chỉ phản ảnh một cách ít nhiều đứt quãng trên cõi trung giới; sao cho một người có tầm nhìn không vượt lên trên được cõi trung giới rất có thể chỉ thu được những hình ảnh năm thì mười họa và rời rạc về quá khứ thay vì là một bản tường trình mạch lạc. Tuy nhiên, những hình ảnh phản chiếu đủ thứ biến cố trong quá khứ đều thường xuyên được mô phỏng lại trên cõi trung giới, và tạo thành một bộ phận quan trọng của môi trường xung quanh người nghiên cứu trên đó.
Sự giao tiếp trên cõi trung giới bị giới hạn do kiến thức của thực thể giao tiếp cũng giống như trên cõi hồng trần. Một người có thể sử dụng thể trí truyền tư tưởng cho những thực thể nhân loại nơi đó dễ dàng và nhanh hơn trên trần thế, nhờ vào những ấn tượng trên cõi trí tuệ; tuy nhiên cư dân thông thường trên cõi trung giới thường không thể vận dụng khả năng này, họ có vẻ bị hạn chế bởi những giới hạn giống như các giới hạn thịnh hành trên trần thế, mặc dù có lẽ ít cứng ngắc hơn. Do đó (như ta có nói trước kia) ta thấy họ tụ tập lại ở đây thành từng nhóm, kết bè kết đảng với nhau do có chung sự đồng cảm, niềm tin và ngôn ngữ.
----------------------------
HOME TÌM HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN HÌNH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS
Từ khóa » Trung Giới Là Gì
-
SỰ THẬT - CÕI TRUNG GIỚI Nội Dung Của Bài Viết Này Nhằm...
-
Cõi Trung Giới - C.W. Leadbeater - Minh Triết Thiêng Liêng
-
Cõi Trung Giới Và Thể Vía - Creations Boutiques
-
1). Hư Không Có Bảy Cõi. - CaoDai-Online
-
Trừng Giới - Wiktionary Tiếng Việt
-
Trừng Giới Là Gì? Hiểu Thêm Văn Hóa Việt - Từ điển Tiếng Việt
-
Từ điển Tiếng Việt "trừng Giới" - Là Gì?
-
Trừng Giới Nghĩa Là Gì? - Từ-điể
-
Các Tầng Của Trung Giới - Omi Huong
-
'nhà Trừng Giới' Là Gì?, Từ điển Tiếng Việt - Dictionary ()
-
Tam Giới – Wikipedia Tiếng Việt
-
Trung Quốc – Wikipedia Tiếng Việt
-
Cõi Trung ấm Hay Trung Hữu Theo Phật Giáo Có Phải Là Cõi âm Hay ...
Không Tôn Giáo Nào Cao Hơn Chân Lý