Cuộc Cách Mạng Tân Hợi 1911 [Trung Quốc]

425 Mục lục ẩn I – Đêm hôm trước của cuộc cách mạng 1. Kinh tế tư bản chủ nghĩa và mâu thuẫn xã hội ở Trung Quốc 2. Tôn Trung Sơn và cương lĩnh cách mạng II – Cách mạng Tân Hợi bùng nổ 1. Phong trào bảo vệ đường sắt – ngòi lửa cách mạng 2. Khởi nghĩa Vũ Xương bùng nổ 3. Phong trào khởi nghĩa ở các tỉnh 4. Chính phủ Nam Kinh thành lập 5. Viên Thế Khải âm mưu cướp thành quả cách mạng 6. Chính phủ lâm thời dời lên Bắc Kinh III – Tính chất và ý nghĩa lịch sử của cuộc cách mạng Tân Hợi IV – Trung Quốc sau cách mạng Tân Hợi

I – Đêm hôm trước của cuộc cách mạng

1. Kinh tế tư bản chủ nghĩa và mâu thuẫn xã hội ở Trung Quốc

Sau khi chinh phục triều đình Mãn Thanh, các nước đế quốc tha hồ can thiệp vào nội chính và kinh tế của Trung Quốc. Bọn chúng không chỉ mượn tay nhà Thanh bóc lột nhân dân Trung Quốc mà đã xây dựng một số công xưởng, xí nghiệp trong các vùng tô giới. Sau chiến tranh Giáp Ngọ chúng được quyền xây dựng xí nghiệp, mở ngân hàng, kinh doanh đường sắt, khai thác hầm mỏ một cách hợp pháp trên đất Trung Quốc.

Bằng cách cho chính phủ Mãn Thanh vay tiền, bọn đế quốc tăng cường đầu tư vào Trung Quốc. Năm 1895, Nga, Pháp cho Mãn Thanh vay 400 triệu phơ răng. Năm 1896, Anh, Đức cho vay 16 triệu bảng Anh; năm 1898 Anh, Đức lại cho vay thêm 16 triệu nữa… Đồng thời chúng còn trực tiếp kinh doanh ở Trung Quốc, lũng đoạn quyền xây dựng đường sắt và tích cực đầu tư khai thác hầm mỏ.

Ngoài ý muốn của giai cấp tư sản phương Tây, sự đầu tư của đế quốc đã kích thích chủ nghĩa tư bản Trung Quốc phát triển trên một chừng mực nhất định. Đầu thế kỷ XX, công nghiệp Trung Quốc tiến thêm một bước nữa, trong đó ngành dệt vẫn chiếm hàng đầu trong công nghiệp hiện đại của Trung Quốc. Trong những năm 1905-1910, tư sản Trung Quốc có 9 xưởng dệt. Công nghiệp tơ phát triển, nhất là từ năm 1895 đến 1912, có 97 xưởng, chỉ riêng vùng Thượng Hải năm 1912 có 49 xưởng, chiếm 1/2 tổng số xưởng tơ toàn quốc. Công nghiệp làm bột mì, thuốc lá, làm đường và các loại công nghiệp thực phẩm, làm giấy, làm kính, làm diêm cũng phát triển. Tư sản dân tộc cũng bắt đầu tham gia xây dựng công nghiệp dân dụng cho thành phố. Nhiều thành phố bắt đầu có xưởng bóng đèn điện, nhà máy nước lớn nhất là nhà máy nước Hán Khẩu xây dựng từ năm 1906, và nhà máy nước ở Bắc Kinh xây dựng năm 1908.

Về công nghiệp nặng, ngoài công nghiệp mỏ tương đối phát đạt, còn các ngành gang thép, chế tạo máy móc đều rất yếu.

Công nghiệp Trung Quốc tuy được xây dựng, nhưng quy mô rất nhỏ và vốn ít. Phần nhiều giá trị thiết bị của các công xưởng đều rất thấp, nhiều công xưởng tuy thuê nhiều công nhân, song vốn đầu tư thì lại rất ít, đặc biệt là các xưởng tơ và xưởng diêm, với các thiết bị rất đơn giản. Sản phẩm công nghiệp chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Quan hệ sản xuất phong kiến vẫn giữ địa vị chi phối xã hội.

Tụy vậy, công nghiệp Trung Quốc trong giai đoạn này có phát triển đôi chút là vì thị trường hàng hóa của Trung Quốc dần dần được mở rộng. Đường sắt tăng nhanh, từ năm 1895 cố 364km đến năm 1913 lên tới 9.618km, xe lửa chở hàng tăng gần gấp đôi, trọng tải các tàu thuyền vào cảng tăng gấp 4 lần.

Trong thời gian này phong trào đấu tranh của quần chúng đòi thu hồi quyền lợi, xây dựng công nghiệp, chống sự xâm lược bằng kinh tế của đế quốc lên cao. Điều này, đã làm cho kinh tế tư bản chủ nghĩa của Trung Quốc có điều kiện phát triển nhanh.

Đồng thời, qua cuộc đấu tranh lâu dài của quần chúng nhân dân, nhà Thanh nhượng bộ đôi chút, tiến hành một số cải cách, trong đó có chính sách khuyến khích công thương nghiệp.

Sự phát triển tư bản chủ nghĩa ở Trung Quốc rất chậm chạp và què quặt. Giai cấp tư sản mới ra đời đòi các nước đế quốc phải trả lại cho Trung Quốc nhiều quyền lợi, giai cấp phong kiến phải nới rộng các quy định về kinh tế và chính trị. Việc xây dựng đường sắt ở Trung Quốc đều do các nước tư bản chia nhau quản lý. Nhưng từ sau chiến tranh TrungNhật, người Trung Quốc, đặc biệt là giai cấp tư sản đã nhận thấy việc giành quyền xây dựng đường sắt là một điều quan trọng. Đồng thời đòi lại quyền khai thác hầm mỏ.

Đầu thế kỷ XX, cuộc đấu tranh chia xẻ đất đai thuộc địa giữa các đế quốc càng quyết liệt.

Hiệp ước Tân Sửu đã làm cho nhà Thanh trở thành tên nô bộc trung thành của bọn đế quốc. Năm 1902-1903 một loạt các hiệp ước buôn bán được tiếp tục ký kết với các nước đế quốc càng đe dọa Trung Quốc.

Năm 1902, đế quốc Anh mượn cớ hiệp ước trước chưa đầy đủ nên buộc nhà Thanh ký một hiệp ước mới có lợi cho Anh hơn. Anh được nhập hàng vào Trung Quốc với mức thuế thấp nhất và hàng hóa chỉ đóng thuế một lần, được quyền tự do xây dựng công xưởng. Tiếp theo Anh, bọn Mỹ, Nhật cũng buộc nhà Thanh nhượng bộ nhiều quyền lợi buôn bán cho chúng. Nhờ những hiệp ước trên, thế lực kinh tế của bọn đế quốc ngày càng mạnh, chèn ép kinh tế Trung Quốc, Vốn đầu tư của ngoại quốc vào Trung Quốc ngày càng nhiều. Dần dần, bọn đế quốc nắm hết mạch sống kinh tế của Trung Quốc. Chúng khống chế hầu hết ngân hàng, nắm toàn bộ thị trường tiền tệ. Bọn chúng lại có âm mưu đưa vốn vào gây thế đứng trong các xí nghiệp của Trung Quốc. Chính vì vậy, một khi công xưởng của tư bản dân tộc Trung Quốc cần tiền, chúng cho vay để thu lợi nhuận, nhưng điều quan trọng là để có thể qua đó khống chế các công xưởng này.

Đối với quan hệ phong kiến, một số nhà tư bản vốn là địa chủ phong kiến chuyển thành, đem nguồn thu nhập hoa lợi của ruộng đất đầu tư vào công nghiệp, nhưng lại thường đem một số tiền sau khi kinh doanh công xưởng thu được chuyển về mua ruộng đất hay cho vay nặng lãi. Thêm vào đó, giai cấp tư sản dân tộc Trung Quốc không nắm chính quyền, nên mỗi khi xây dựng công xưởng, chuyển hàng hóa, mua nguyên liệu, mở rộng sản xuất v.v… đều phải được chính quyền phong kiến đồng ý và nhờ nó bảo vệ quyền lợi. Có nhiều công xưởng lớn do quan lại kinh doanh, họ vừa là chủ tư bản, vừa là quan lại phong kiến. Điều này nói rõ giai cấp tư sản dân tộc Trung Quốc có nhiều quan hệ ràng buộc với phong kiến về kinh tế, chính trị và xã hội.

Như vậy, giai cấp tư sản dân tộc Trung Quốc, một mặt bị đế quốc, phong kiến áp bức nên có tinh thần bài đế, phản phong. Song mặt khác, giai cấp tư sản dân tộc Trung Quốc lại có mối quan hệ mật thiết với đế quốc và phong kiến, cho nên nó có mặt thỏa hiệp, dao động trong đấu tranh.

2. Tôn Trung Sơn và cương lĩnh cách mạng

Tôn Trung Sơn là lãnh tụ kiệt xuất của phong trào cách mạng dân chủ tư sản Trung Quốc. Ông sinh năm 1866 ở tỉnh Quảng Đông trong một gia đình nông dân. Năm 13 tuổi, ông đến học ở Hônôlulu (Haoai) vì có người anh buôn bán ở đấy. Sau đó ông tiếp tục học ở Hương Cảng, rồi học y khoa ở Quảng Châu. Ở đó, ông có điều kiện tiếp xúc với tư tưởng dân chủ Tây Âu một cách có hệ thống. Đứng trước nguy cơ dân tộc ngày càng trầm trọng, ông nhìn thấy rõ sự thối nát của chính quyền Mãn Thanh, sớm nảy nở tư tưởng lật đổ triều Thanh, xây dựng một xã hội mới.

Tháng 11 năm 1894, Tôn Trung Sơn sáng lập hội cách mạng đầu tiên ở Hônôlulu là Hưng Trung hội, đoàn thể cách mạng sớm nhất của giai cấp tư sản Trung Quốc.

Cương lĩnh của Hưng Trung hội không đề ra một cách rõ ràng mục tiêu cụ thể. Họ chỉ nêu lên là làm cho “phú quốc cường binh”, “chấn hưng Trung Hoa”, “duy trì quốc thể” v.v… Nhưng trong lời thề của hội viên khi gia nhập hội lại khá rõ ràng: “Đánh đuổi giặc Thát, khôi phục Trung Hoa, lập chính phủ hợp quần”. Đây là một khẩu hiệu có tính chất cương lĩnh chính trị của giai cấp tư sản Trung Quốc. Nó không chỉ tuyên bố phải lật đổ chính quyền Mãn Thanh, mà còn đề ra cần lập một chính thể dân chủ. Hưng Trung hội được thành lập, những người cách mạng dân chủ bắt đầu có chính đảng của mình.

Nhân lúc phong trào quần chúng nhân dân cả nước căm giận nhà Thanh ký hiệp ước đầu hàng Mã Quan ngày 26-10-1895, Tôn Trung Sơn định tổ chức khởi nghĩa ở Quảng Châu. Nhưng kế hoạch bị lộ, bọn quan lại nhà Thanh trấn áp, tầm nã những hội viên cách mạng. Tôn Trung Sơn cùng các lãnh tụ của hội phải trốn ra nước ngoài. Ông qua Nhật, Hônôlulu, Mỹ, Anh v.v… tuyên truyền cách mạng trong Hoa kiều. Cuộc hành trình dài của Tôn Trung Sơn đã cho phép ông tiếp xúc với xã hội Âu Mỹ, tìm hiểu nó và phát hiện những điều mới lạ.

Đến khi phong trào Nghĩa hòa đoàn bùng nổ, cao trào cách mạng dâng lên khắp nơi. Hưng Trung hội và các lãnh tụ của nó sau một thời gian phiêu bạt nước ngoài lại trở về nước tổ chức khởi nghĩa Quảng Châu lần thủ hai. Nhưng cuộc khởi nghĩa này cũng bị thất bại, nhiều chiến sĩ cách mạng bị bắt giết.

Hoạt động của Hưng Trung hội một lần nữa lại gặp nhiều khó khăn trước sự trấn áp của kẻ thù. Hưng Trung hội vẫn hoạt động và phát triển trong từng lớp tiểu tư sản, tư sản học sinh. Nhưng đến lúc này đã có nhiều tổ chức cách mạng khác của giai cấp tư sản và tiểu tư sản ra đời như Quang Phục hội và Hoa Trung hội.

Hạ tuần tháng 7 năm 1905, Tôn Trung Sơn, Hoàng Hưng triệu tập hội nghị thống nhất ở Tôkyô gồm đại biểu ba tổ chức Hưng Trung hội, Quang Phục hội, Hoa Hưng hội, thảo luận việc thành lập chính đảng cách mạng lấy tên là “ Trung quốc Đồng Minh hội”: Cuộc hội nghị này có 60-70 đại biểu của 18 tỉnh trong nước tham gia, Tôn Trung Sơn được bầu làm Tổng lý. Ngày 18-9-1905, đại hội chính thức thành lập Đồng Minh hội gồm hơn 300 đại biểu được tổ chức ở Tôkyô.

Về tổ chức, Đồng Minh hội là chính đảng do giai cấp tư sản lãnh đạo.

Tham gia tổ chức này có tiểu tư sản, địa chủ, thân sĩ bất bình với nhà Thanh cùng với một số ít phần tử công nông, nhưng đông nhất vẫn là trí thức tư sản và tiểu tư sản. So với các tổ chức cách mạng trước, thì Đồng Minh hội có tiến bộ về nhiều mặt: có nhiều hội viên trong nước hơn, vượt xa tính chất cục bộ địa phương, trở thành một tổ chức có tính chất toàn quốc, nơi nào cũng có đại biểu, cơ cấu lãnh đạo thống nhất và có cương lĩnh chính trị.

Cương lĩnh chính trị của Đồng Minh hội dựa trên học thuyết Tam dân của Tôn Trung Sơn là dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc. Mục tiêu đấu tranh là: “Đánh đuổi giặc Thát, khôi phục Trung Hoa; Thành lập Dân quốc; Bình quân địa quyền”, nêu lên 3 nhiệm vụ: lật đổ triều đại Mãn Thanh, thành lập Trung Hoa Dân quốc, thực hiện quyền bình đẳng về ruộng đất.

Trong ba điều trên thì việc đề ra thành lập nước Trung Hoa Dân quốc và bình quân địa quyền là cống hiến vĩ đại của Đồng Minh hội và Tôn Trung Sơn đối với lịch sử Trung Quốc.

Trong ý nghĩ của những người đương thời thì điều quan trọng nhất vẫn là lật đổ chính quyền Mãn Thanh. Những nhà cách mạng cho rằng sự tồn tại của chính quyền Mãn Thanh là nguyên nhân gây ra sự lạc hậu, yếu hèn của Trung Quốc. Nhà Thanh đầu hàng đế quốc và ngăn trở mọi sự phát triển tư bản chủ nghĩa ở Trung Quốc, nên trước hết phải lật đổ chính quyền Mãn Thanh.

Cuộc cách mạng Tân Hợi nêu lên khẩu hiệu chống Mãn rõ ràng có tác dụng to lớn. Lúc bấy giờ có rất nhiều người căm giận Mãn Thanh vì chính quyền này đối nội thì thi hành chính sách chia rẽ dân tộc, đối ngoại thì yếu hèn khuất phục đế quốc.

Nhưng khẩu hiệu này còn có mặt hạn chế ở chỗ không nêu cao ý thức dân tộc chống đế quốc, là kẻ thù chính của nhân dân Trung Quốc lúc bấy giờ, mà lại chĩa mũi nhọn vào cuộc đấu tranh chống người Mãn đang thống trị. Nó bỏ qua kẻ thù thực sự của dân tộc là bọn đế quốc. Sự sai lầm to lớn có tính chất chiến lược này làm cho cách mạng Trung Quốc bị thiệt hại rất nhiều.

Dưới sự lãnh đạo của Đồng Minh hội, phong trào cách mạng phát triển thêm một bước. Tôn Trung Sơn và nhiều nhà hoạt động cách mạng đã tích cực tiến hành tổ chức khởi nghĩa vũ trang. Miền Nam Trung Quốc, nơi có truyền thống cách mạng đã được Đồng Minh hội chọn làm nơi phát động các cuộc khởi nghĩa cách mạng của mình.

II – Cách mạng Tân Hợi bùng nổ

1. Phong trào bảo vệ đường sắt – ngòi lửa cách mạng

Phong trào bảo vệ đường sắt là phong trào sâu rộng trong quần chúng nhân dân lúc bấy giờ đòi thu hồi quyền lợi của dân tộc. Từ năm 1903, các phái cách mạng trong giai cấp tư sản và tiểu tư sản được lôi cuốn vào phong trào này; và đỉnh cao của nó là phong trào đòi thu hồi đường sắt Việt-Hán và Xuyên Hán. Đường sắt Việt-Hán từ Quảng Đông qua Hồ Nam, Hồ Bắc nối liền đường sắt Kinh Hán, chạy dài suốt Nam-Bắc: đường sắt Xuyên Hán chạy qua Tây Nam, đi sâu vào Tây nam Trung Quốc. Đó là hai con đường quan trọng mà bọn đế quốc muốn chiếm lấy. Chúng tìm mọi cách để nắm quyền lũng đoạn giao thông của Trung Quốc. Năm 1898, Mỹ đã giành được quyền kinh doanh đường sắt Việt-Hán và ký với chính phủ Mãn Thanh điều ước nhằm tăng thêm quyền khống chế của Mỹ.

Việc chính phủ Mãn Thanh bán rẻ quyền lợi đường sắt đã gây nên một làn sóng căm phẫn công khai trong quần chúng nhân dân và trong tầng lớp tư sản. Nhân dân tẩy chay hàng Mỹ, đòi chính phủ xóa bỏ điều ước đã ký với Mỹ. Phong trào đấu tranh của quần chúng lên cao buộc Mỹ phải nhượng bộ, đồng ý xóa bỏ điều ước nhưng đòi phải bồi thường 6.750.000 đôla. Tổng đốc Lưỡng Hồ Trương Chi Động tuy biết khoản tiền đó quá lớn, nhưng vì sợ đế quốc, lại sợ kéo dài thời gian thì phong trào nhân dân lan rộng, nên đã chấp thuận bồi thường. Trương Chi Động vay tiền của Anh để bồi thường cho Mỹ.

Nhưng về cơ bản, nhà Thanh vẫn theo đuổi chính sách đầu hàng đế quốc. Ngày 9-5 Mãn Thanh ban bố sắc lệnh “quốc hữu hóa đường sắt” và ký hợp đồng kinh doanh đường sắt Việt-Hán và Xuyên Hán với bốn nước Anh, Mỹ, Pháp, Đức. Chính sách đó gây nên làn sóng căm phẫn trong các tầng lớp nhân dân. Đầu tiên, thân sĩ và thương nhân Hồ Nam nổi lên phản đối, rồi đến Hồ Bắc, Quảng Châu. Phong trào lan ra các nơi. Các hội viên của Đồng Minh hội cũng tích cực cổ động phong trào của quần chúng nhân dân, lưu học sinh ở Nhật tuyên bố bảo vệ đường sắt đến cùng: “Đường còn, ta còn; đường mất, ta chết theo đường”.

Bọn phong kiến Mãn Thanh trấn áp phong trào quyết liệt, cấm báo chí, giải tán các hội đồng bảo vệ đường sắt và ra sắc lệnh xử tử những ai chống lại biện pháp quốc hữu hóa đường sắt. Phong trào ngày càng lan rộng. Khi phong trào phát triển đến đất Tứ Xuyên thì càng mạnh mẽ hơn, các hội bảo vệ đường sắt được tổ chức rộng rãi, số người tham gia lên đến hàng vạn. Nhưng khi phong trào đã lên cao, chuyển thành bãi thị, bãi khóa thì ngay những thủ lĩnh của phong trào thuộc phái lập hiến cũng rất lo sợ. Họ vội ra lệnh cấm chỉ bãi thị, không được tụ tập diễn thuyết, bạo động, phá giáo đường, làm nhục các quan, tất cả các cửa hàng lương thực, dầu, muối, củi, gạo phải bán như thường lệ. Bất chấp những lời lẽ ngăn chặn của thủ lĩnh lập hiến, phong trào quần chúng nhân dân ở Tứ Xuyên vẫn lên cao. Ngày 7-9, Triệu Nhĩ Phong phái người đến công ty đường sắt nói dối là có tin đáng mừng từ Bắc Kinh về, mời các thủ lĩnh trong hội bảo vệ đường sắt đến dinh tổng đốc thương lượng. Nhân cơ hội đó, Triệu Nhĩ Phong bắt tất cả các thủ lĩnh của phong trào.

Nhân dân Thành Đô thấy vậy rất căm phẫn, phút chốc đã có hàng vạn người kéo đến dinh tổng đốc thị uy.

Triệu Nhĩ Phong ra lệnh cho quân lính nổ súng vào đám biểu tình, kỵ binh xông vào đám đông bắn chết 32 người và làm bị thương nhiều người. Mặc dù phong trào bị bọn quan lại Mãn Thanh đàn áp dã man, song nhân dân vẫn không chịu khuất phục, trái lại phong trào càng phát triển cao hơn.

Phong trào bãi khóa, bãi thị lan rộng ra toàn Tứ Xuyên, về sau phát triển mạnh thành cuộc khởi nghĩa Thành Đô. Cuộc khởi nghĩa ở Thành Đô do phái cách mạng tuyên truyền tổ chức đã động viên được hàng vạn người tham gia. Triều đình nhà Thanh hoang mang vội đem quân từ Hồ Bắc về trấn áp phong trào Tứ Xuyên. Nhưng lúc đó, cách mạng đã bùng nổ ở Vũ Xương.

2. Khởi nghĩa Vũ Xương bùng nổ

Ngày 10 tháng 10 năm 1911, cuộc khởi nghĩa bùng nổ ở Vũ Xương, tuy đột ngột, nhưng không phải là ngẫu nhiên. Đấy là kết quả của một cuộc vận động lâu dài của các đảng phái cách mạng.

Cuộc khởi nghĩa Vũ Xương do hai đoàn thể cách mạng là Văn học xã và Cộng tiến hội lãnh đạo. Cộng tiến hội thành lập năm 1907 ở vùng Tương Ngạc, Văn học xã được tổ chức vào đầu năm 1911 ở vùng Hồ Quảng. Hai đoàn thể cách mạng này đều do những phần tử của Đồng Minh hội tổ chức, nên chính cương hoạt động của họ cũng không khác chính cương của Đồng Minh hội.

Ngày 10 tháng 10, quân đội ở Vũ Xương đã tự động đứng lên khởi nghĩa, đánh chiếm Vũ Xương ngay trong đêm hôm đó và chỉ hai ngày sau chiếm được Hán Khẩu và Hán Dương.

Ngày 11 tháng 10, các thủ lĩnh cách mạng cùng với các đại biểu phái lập hiến họp thảo luận việc tổ chức quân chính phủ và lập chính phủ. Hội nghị đã quyết định đổi quốc hiệu là “Trung Hoa Dân quốc”, kêu gọi đánh đổ chính phủ Mãn Thanh, đồng thời tuyên bố với lãnh sự các nước ở Hán Khẩu là quân chính phủ sẽ tôn trọng mọi quyền lợi và đặc quyền của nước ngoài ở Trung Quốc.

Cuộc khởi nghĩa Vũ Xương thành công một cách nhanh chóng quá sức tưởng tượng của phái cách mạng. Ngay cả Tôn Trung Sơn lúc này đang ở Mỹ và Hoàng Hưng đang ở Hương Cảng cũng lấy làm ngạc nhiên. Những người cách mạng lãnh đạo trực tiếp cuộc khởi nghĩa vì thiếu tự tin nên không nắm lấy quyền chỉ huy quân chính phủ. Họ trao cho Lê Nguyên Hồng thuộc phái lập hiến chức vụ chỉ huy quân chính phủ. Do đó thành quả cách mạng rất nhanh chóng bị phái lập hiến chiếm hết.

3. Phong trào khởi nghĩa ở các tỉnh

Sự thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Vũ Xương không phải là ngẫu nhiên, mà đó là kết quả của phong trào cách mạng toàn quốc nói chung và phong trào ở Hồ Bắc, Hồ Nam nói riêng. Hưởng ứng cuộc khởi nghĩa Vũ Xương, các tỉnh lần lượt nổi dậy. Trong tháng 10, các tỉnh Hồ Nam, Thiểm Tây, Giang Tây, Sơn Đông hoặc khởi nghĩa giành chính quyền, hoặc tuyên bố độc lập. Đến tháng 11, Thượng Hải, An Huy, Quý Châu, Giang Tô, Triết Giang, Quảng Đông, Phúc Kiến, Quảng Tây, Tứ Xuyên cũng đều tuyên bố độc lập. Quân cách mạng đã nắm được nhiều thành phố quan trọng về chính trị cũng như về kinh tế.

Như vậy, quân cách mạng trong một thời gian ngắn đã trực tiếp hay gián tiếp làm tan rã đế quốc Mãn Thanh rộng lớn. Bọn Mãn Thanh chỉ còn khống chế mấy tỉnh miền Bắc mà số phận của nó cũng rất mong manh. Nhưng về phía cách mạng, một đặc điểm nổi bật lúc bấy giờ là chính quyền khắp nơi đều bị phái lập hiến nắm như ở Vũ Xương, Vân Nam, Tứ Xuyên v.v… Cũng có nơi như Hồ Nam, quân cách mạng do Tiêu Đạt Phong lãnh đạo đánh chiếm Trường Sa. Nhưng sau đó bọn lập hiến đã làm cuộc chính biến, giết Tiêu Đạt Phong và các lãnh tụ cách mạng, chiếm lấy chính quyền.

Vì thế, ở hầu hết các nơi, chính quyền cách mạng đều ở trong tay phái lập hiến. Nguyên nhân chủ yếu là lúc bấy giờ lực lượng của phái lập hiến mạnh hơn nhiều. Đâu đâu, phái lập hiến cũng chui được vào hàng ngũ cách mạng và giành lấy thành quả cách mạng.

4. Chính phủ Nam Kinh thành lập

Đầu tháng 11 năm 1911, hầu hết các tỉnh Trung và Nam Trung Quốc đều đứng dậy khởi nghĩa và giành được chính quyền. Yêu cầu của quần chúng lúc bấy giờ là tổ chức một chính phủ trung ương. Ngày 15 tháng 11 đại biểu các tỉnh về Thượng Hải họp “Hội nghị đại biểu đô đốc phủ các tỉnh”. Nhưng cuộc họp đến ngày 24 tháng 11 lại rời về Vũ Xương. Vũ Xương bị vây, hội nghị phải họp trong tô giới Anh ở Hán Khẩu.

Qua 4 ngày thảo luận, hội nghị đã thông qua “chương trình tổ chức chính phủ lâm thời Trung Hoa Dân quốc”, quy định quyền hạn và cách thức tổ chức cơ quan hành chính của chính phủ, quy định việc bầu cử Tổng thống lâm thời và quyền hạn của Tổng thống. Do sự thỏa hiệp của phái lập hiến, hội nghị ra quyết nghị là nếu Viên Thế Khải lật đổ được triều đình Mãn Thanh thì sẽ được bầu làm đại Tổng thống.

Ngày 2 tháng 12, quân cách mạng chiếm được Nam Kinh, hội nghị liền dời về Nam Kinh để bầu đại Tổng thống, lập chính phủ lâm thời. Thế cách mạng đang lên, Viên Thế Khải thấy đã đến lúc có thể gây sức ép với triều Mãn Thanh và lợi dụng cách mạng. Ông ta cho người đến báo với hội nghị tán thành cộng hòa nên hội nghị liền hoãn việc bầu tổng thống để chờ Viên Thế Khải.

Ngày 25 tháng 12, Tôn Trung Sơn mới từ Mỹ về nước. Đến Thượng Hải, ông liền triệu tập hội nghị những người lãnh đạo Đồng Minh hội thảo luận việc xây dựng quốc gia, và biện pháp thực hiện quyền dân chủ. Việc Tôn Trung Sơn về nước và hoạt động của ông đã đem đến cho phái cách mạng dũng khí đấu tranh. Ngày 20, đại biểu của 17 tỉnh họp và bầu Tôn Trung Sơn làm đại Tổng thống lâm thời.

Ngày 1 tháng 1 năm 1912, Tôn Trung Sơn tuyên thệ nhận chức đại Tổng thống lâm thời và lấy năm 1912 làm năm Trung Hoa Dân quốc thứ nhất. Chính phủ lâm thời của nước Cộng hòa tư sản đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc ra đời có ý nghĩa lớn lao, đánh dấu một giai đoạn mới của lịch sử Trung Quốc. Nền đế chế phong kiến mấy ngàn năm của Trung Quốc sụp đổ.

5. Viên Thế Khải âm mưu cướp thành quả cách mạng

Nhà Thanh ngay từ đầu đã phái nhiều tướng lĩnh và hàng vạn quân đi dập tắt cách mạng. Song trước khí thế đang lên của quần chúng, bọn tướng lĩnh bất tài và quân lính bạc nhược của chúng không đem lại kết quả gì. Triều đình Mãn Thanh liền nghỉ đến Viên Thế Khải, một tên quân phiệt có nhiều kinh nghiệm đàn áp đang dưỡng bệnh ở Hà Nam. Chúng vời Viên Thế Khải ra lãnh trách nhiệm trấn áp cách mạng, hòng cứu vãn tình thế sắp sụp đổ của triều đình Mãn Thanh.

Viên Thế Khải từ lâu đã có âm mưu nắm quyền, nhân cơ hội triều đình Mãn Thanh khủng hoảng, liền buộc nhà Thanh phải cử Viên làm Tổng lý nội các (Thủ tướng chính phủ).

Viên Thế Khải hạ lệnh tấn công Hán Khẩu. Ngày 2 tháng 11, quân phản cách mạng chiếm Hán Khẩu, sau đó bao vây Vũ Xương. Ngày 12 tháng 11, Viên Thế Khải vào Bắc Kinh tổ chức nội các và chính quyền quân phiệt được đặt nền móng từ đây. Viên một mặt tấn công cách mạng để uy hiếp phái lập hiến và những phần tử cách mạng non yếu, mặt khác tìm cách câu kết với phái lập hiến để cướp đoạt thành quả cách mạng. Viên dùng cách mạng để dọa nạt nhà Thanh và dùng quân sự trong tay để uy hiếp cách mạng. Khi được tin cách mạng sẽ nhường chức đại tổng thống, Viên liền tìm mọi cách tấn công vào chính quyền mới thành lập. Bọn phản cách mạng và đế quốc công kích Tôn Trung Sơn không công nhận Chính phủ cộng hòa, thu hết quan thuế, gây khó khăn về kinh tế cho phái cách mạng.

Tôn Trung Sơn là nhà cách mạng dân chủ, nhưng kinh nghiệm đấu tranh cách mạng còn thiếu, chưa nhận rõ được bộ mặt phản động của bọn lập hiến và đế quốc. Ông cũng cho rằng làm Tổng thống là tham quyền đoạt vị. Khi mới về nước, nghe tin Lê Nguyên Hồng làm Tổng thống, ông cũng cho là được, sau Lê Nguyên Hồng muốn nhường cho Viên Thế Khải, ông cũng đồng ý.

Vua Mãn Thanh buộc phải thoái vị ngày 12-2-1912. Ngày 13, Viên Thế Khải điện cho Tôn Trung Sơn và Lê Nguyên Hồng biết “công lao” của ông ta, có ý thúc ép Tôn Trung Sơn từ chức Tổng thống. Sau khi tiếp được điện báo của Viên, Tôn Trung Sơn liền từ chức Đại Tổng thống lâm thời. Viên Thế Khải được bầu làm Đại tổng thống, Lê Nguyên Hồng làm Phó tổng thống.

6. Chính phủ lâm thời dời lên Bắc Kinh

Tôn Trung Sơn khi từ chức Đại Tổng thống lâm thời đã đề ra ba điều kiện :

  1. Chính phủ lâm thời phải đóng ở Nam Kinh, không được thay đại biểu.
  2. Tổng thống mới được cử ra phải đến Nam Kinh nhận chức, Tôn Trung Sơn và Chính phủ của ông mới thôi chức.
  3. Tổng thống mới phải tuân theo ước pháp của Chính phủ lâm thời do Tham nghị viện định ra, những điều luật và quy chế đã công bố vẫn tiếp tục có giá trị.

Tôn Trung Sơn đề ra ba điều kiện trên, nhằm hạn chế Viên Thế Khải phục hồi chế độ cũ và bảo vệ chế độ cộng hòa tư sản.

Mặc dù vậy, Tôn Trung Sơn và phái cách mạng của ông cũng vẫn bị bọn Viên Thế Khải giành mất thành quả cách mạng.

Viên Thế Khải cho tay sai gây ra những vụ hỗn loạn ở Bắc Kinh và các nơi khác, rồi vin vào cớ đó không chịu về Nam Kinh. Ngày 10-3, Viên tuyên bố nhận chức ở Bắc Kinh, không thực hiện yêu cầu của Tôn Trung Sơn.

Ngày 11 tháng 3, Tôn Trung Sơn công bố “Ước pháp lâm thời của Trung Hoa Dân quốc” do Tham nghị viện đã định ra. Ước pháp này mang theo tinh thần dân chủ tư sản, định ra những nguyên tắc về chế độ nhà nước và chế độ xã hội của giai cấp tư sản. Trong giai đoạn bấy giờ, ước pháp có ý nghĩa lịch sử nhất định.

Nhưng giai cấp tư sản mà đại biểu là Đồng Minh hội do Tôn Trung Sơn đứng đầu đã đem toàn bộ chính quyền giao cho tên quân phiệt Viên Thế Khải. Tất nhiên, ước pháp cũng chỉ trở thành những trang giấy vô nghĩa. Nó không thể ngăn chặn nền thống trị độc tài của Viên. Căn cứ vào quy định của ước pháp, Viên Thế Khải phái người xuống Nam Kinh tổ chức nội các mới. Chính phủ Nam Kinh tuyên bố giải tán. Ngày 1 tháng 4, Tôn Trung Sơn trao hết quyền cho Viên Thế Khải. Ngày 5 tháng 4, Tham nghị viện quyết định dời Chính phủ lâm thời lên Bắc Kinh.

Phái cách mạng tuy không hoàn toàn bị đuổi khỏi chính quyền, nhưng những chức vụ chủ chốt đã rơi vào tay phái quan lại phản cách mạng do Viên Thế Khải đứng đầu. Bọn đại địa chủ, đại tư bản dựa vào đế quốc, dùng lừa đảo và vũ lực uy hiếp đã cướp thành quả cách mạng.

Chính quyền phản động do Viên Thế Khải đứng đầu được thành lập ở Bắc Kinh. Đó là chính quyền mà bên ngoài thì treo chiêu bài “Trung Hoa Dân quốc”, nhưng bên trong là bọn phản động cấu kết với đế quốc chống lại nhân dân, chống lại những cải cách tiến bộ.

Nhân dân Trung Quốc đã lật đổ chính quyền Mãn Thanh thối nát, nhưng không thay đổi được địa vị chính trị thấp hèn và địa vị kinh tế khốn khổ của mình. Tính chất của xã hội Trung Quốc cũng không hề thay đổi, vẫn là xã hội nửa phong kiến, nửa thuộc địa.

III – Tính chất và ý nghĩa lịch sử của cuộc cách mạng Tân Hợi

Cách mạng Tân Hợi là cuộc cách mạng tư sản do giai cấp tư sản Trung Quốc lãnh đạo, được đông đảo quần chúng tham gia. Xét về cương lĩnh, đường lối, sách lược đấu tranh cụ thể và các biện pháp cải cách xã hội của nó, thì cách mạng Tân Hợi khẳng định xu thế mới nhằm tiến tới xây dựng một nước Trung Hoa dân chủ, phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Mục tiêu chính của cách mạng lúc bấy giờ là đánh đổ triều Thanh và trên thực tế, đã lật đổ được triều đại Mãn Thanh. Họ cũng muốn thông qua cách mạng tiến hành một số biện pháp dân chủ, ban bố dân quyền nhằm tạo điều kiện cho xã hội Trung Quốc tiến mạnh trên con đường tư bản chủ nghĩa. Nhưng cách mạng chưa hề đụng đến vấn đề ruộng đất, một trong những vấn đề cơ bản của cách mạng tư sản. Chính vì vậy họ không động viên được đông đảo quần chúng nông dân tham gia để đẩy cách mạng đi lên, đánh lùi các thế lực phản động. Chế độ cộng hòa chưa thực hiện được thực sự mà mới là thành lập trên hình thức. Nhưng dù cho chế độ cộng hòa chưa trở thành hiện thực vững chãi, chế độ quân chủ phong kiến phản động cũng không thể lập lại hoàn toàn trên đất nước Trung Quốc nữa,

Nguyên nhân hạn chế thắng lợi của cuộc cách mạng Tân Hợi là do đường lối cách mạng thiếu chính xác, lực lượng của bản thân giai cấp tư sản dân tộc Trung Quốc, giai cấp lãnh đạo cuộc cách mạng này yếu đuối.

Giai cấp tư sản Trung Quốc hình thành trong điều kiện một nước nửa thuộc địa, nửa phong kiến nên què quặt, non yếu. Nó có liên hệ với đế quốc về kinh tế, kỹ thuật và chính trị; có mâu thuẫn với đế quốc, nhưng lại sợ đế quốc và nhất là nuôi nhiều ảo tưởng đối với đế quốc. Khi khởi nghĩa vừa lên, chính quyền cách mạng tuyên bố công nhận tất cả điều ước của nhà Thanh ký với đế quốc, không dám đấu tranh giành lại quyền lợi của dân tộc. Còn đối với bọn phong kiến, những người cách mạng cũng không kiên quyết đẩy mạnh phong trào cách mạng, họ đã nhượng bộ phái lập hiến, nhất là đã thỏa hiệp đem toàn bộ chính quyền cách mạng giao cho Viên Thế Khải. Các lực lượng đế quốc đã giúp Viên củng cố thế lực, quay lại chống phái cách mạng.

Trong khi đó, Đồng Minh hội về mặt tổ chức thì lỏng lẻo, tư tưởng không thống nhất chứa đựng nhiều quan điểm mơ hồ. Cách mạng Tân Hợi không giành được thắng lợi triệt để chính là do hạt nhân lãnh đạo non yếu về mặt đường lối và tổ chức, lực lượng cách mạng nhanh chóng tan rã khi bị kẻ thù tấn công quyết liệt.

Đồng thời, lực lượng so sánh giữa kẻ thù và cách mạng quá chênh lệch. Kẻ thù giảo quyệt có lực lượng vũ trang mạnh, câu kết với đế quốc đàn áp cách mạng.

Cách mạng Tân Hợi có ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn. Nó đã kết thúc nền thống trị mấy nghìn năm của chế độ quân chủ phong kiến trong lịch sử Trung Quốc, làm cho tư tưởng cộng hòa dân chủ ăn sâu bắt rễ vào quần chúng. Nó tạo điều kiện cho tư tưởng dân chủ cách mạng xâm nhập và phát triển trên đất Trung Hoa. Trong quá trình đấu tranh, ý thức dân tộc, ý thức cách mạng phát triển mạnh mẽ. Phong trào cách mạng của quần chúng làm cho bọn thống trị phải có nhượng bộ nhất định, không dám ăn cướp của nhân dân một cách trắng trợn như trước.

Trong bài Châu Á thức tỉnh, Lênin đã gọi phong trào cách mạng nói chung và phong trào Cách mạng Tân Hợi nói riêng là “cơn bão táp cách mạng”.

– Cuộc cách mạng xã hội và nhất là tư tưởng của Tôn Trung Sơn đã có ảnh hưởng nhất định đến nhiều nước Đông Nam Á. Một số nhà yêu nước ở Việt Nam, Inđônêxia, Malaixia đầu thế kỷ XX cũng mang ít nhiều màu sắc của trào lưu mới đó.

IV – Trung Quốc sau cách mạng Tân Hợi

Sau khi Viên Thế Khải lên làm Tổng thống, những thủ lĩnh phái cách mạng như Tống Giáo Nhân, Hoàng Hưng v.v… đều mơ tưởng là sẽ thực hiện chế độ dân chủ cộng hòa tư sản dưới sự thống Trị của Viên. Đồng Minh hội cải tổ thành Quốc dân đảng, hy vọng sẽ thông qua Quốc hội hạn chế quyền lực của Viên Thế Khải.

Tháng 4-1913 Quốc hội họp. Trong Quốc hội, Quốc dân đảng chiếm đa số ghế. Để đối phó với tình trạng trên, Viên Thế Khải mua chuộc phái quan liêu, tổ chức Đảng tiến bộ để chống lại Quốc dân đảng, đồng thời bổ sung quân đội, chuẩn bị dùng công cụ bạo lực để tiêu diệt phái cách mạng. Viên Thế Khải tìm cách dựa vào bọn đế quốc. Các nước đế quốc đều có âm mưu giúp Viên Thế Khải tiêu diệt cách mạng. Ngân hàng năm nước Anh, Pháp, Đức, Nhật, Nga cho Viên vay 25.000.000 bảng để chống những người cách mạng. Để bảo đảm việc trả nợ “ngân hàng năm nước”, Viên đem quyền giám sát tài chính của Trung Quốc giao cho tổ chức này.

Việc Viên Thế Khải sai người ám sát Tống Giáo Nhân, và việc câu kết với nước ngoài đã phơi trần bộ mặt phản bội của y. Tôn Trung Sơn liền tuyên bố chống Viên Thế Khải. Cuộc cách mạng lần thứ II bắt đầu. Tuy nhiên trong đảng có nhiều phái, một số người ủng hộ Tôn Trung Sơn phát động đấu tranh; một số khác cho rằng không có quân đội, súng ống thì đấu tranh khó thắng lợi; phái thỏa hiệp không dám từ bỏ ghế của họ trong Quốc hội. Thấy nội bộ Quốc dân đảng không thống nhất, Viên liền kiên quyết tấn công. Trong không đầy hai tháng, cuộc cách mạng lần thứ II hoàn toàn thất bại. Quân Viên Thế Khải nắm được khu vực Trường Giang và Châu Giang. Tôn Trung Sơn phải bỏ sang Nhật.

Sau khi trấn áp cuộc cách mạng lần thứ II, Viên Thế Khải tiến thêm một bước, bắt Quốc hội thừa nhận y là Đại tổng thống chính thức vào năm 1913. Để bảo đảm địa vị của mình, Viên Thế Khải ra lệnh trục xuất nghị viên Quốc dân đảng ra khỏi Quốc hội.

Đầu năm 1914 Viên giải tán Quốc hội, sau đó không lâu, xé nốt “Ước pháp lâm thời” và xây dựng nền thống trị độc tài của tập đoàn quan liêu, quân phiệt, đại địa chủ tư bản.

Năm 1914, cuộc chiến tranh thế giới bùng nổ, các đế quốc phương Tây bận chiến tranh nên Nhật Bản nhân cơ hội đó muốn xông vào độc chiếm mảnh đất béo bở này.

Nhật mượn cớ tuyên chiến với Đức, đưa quân đổ bộ lên Sơn Đông, chiếm vùng Giao Châu Loan và nắm lấy đường sắt Giao Tế. Chính lúc này, Viên Thế Khải đang muốn khôi phục nền đế chế, muốn được Nhật giúp đỡ nên không hề tỏ thái độ phản đối Nhật về việc chúng chiếm Giao Châu Loan và đường sắt Giao Tế.

Tháng 1 năm 1915, Nhật đề ra 21 điều yêu sách với chính phủ Viên Thế Khải, coi đó là điều kiện để Nhật thừa nhận Viên Thế Khải lên ngôi vua.

Nội dung cơ bản của 21 điều yêu sách là: đem quyền lợi ở vùng Sơn Đông trước kia thuộc Đức nay chuyển cho Nhật; thừa nhận độc quyền của Nhật ở Liêu Ninh, Cát Lâm và Đông Nội Mông, cho phép Nhật hùn vốn kinh doanh khai thác mỏ sắt ở Đại Trị, Hồ Bắc, mỏ than ở Bình Hương, Giang Tây; những đảo, cửa biển chỉ được cho Nhật thuê; mời người Nhật làm cố vấn chính trị, kinh tế, quân sự, binh công xưởng do hai nước Nhật-

Trung cùng xây dựng; Nhật có đặc quyền xây dựng đường sắt, khai mỏ ở Phúc Kiến; Trung-Nhật cùng quản lý lực lượng cảnh sát địa phương v.v…

21 yêu sách thực ra là biện pháp cụ thể để Nhật có thể nắm chắc Trung Quốc, biến thành thuộc địa. Nhân dân Trung Quốc khắp nơi đều phản đối, tung truyền đơn, diễn thuyết, tẩy chay hàng Nhật, biểu lộ thái độ chống Nhật, chống Viên Thế Khải. Nhưng Viên đã chấp nhận tất cả 21 điều yêu sách và thẳng tay đàn áp quần chúng nhân dân. Viên ráo riết chuẩn bị dư luận để lập nền quân chủ lập hiến và tuyên bố làm hoàng đế.

Năm 1914, Tôn Trung Sơn lập ra “Đảng Cách mạng Trung Hoa”, tuyên bố chống Viên Thế Khải, hiệu triệu nhân dân lật đổ Viên Thế Khải. Hưởng ứng lời hiệu triệu của Tôn Trung Sơn, các tỉnh Vân Nam, Hồ Nam, Tứ Xuyên v.v… đều có phong trào chống Viên Thế Khải. Tháng 12 năm 1915, Vân Nam tuyên bố độc lập và thành lập đạo quân “giữ nước” để chống Viên Thế Khải.

Sau khi Vân Nam tuyên bố độc lập, Viên Thế Khải điều động hơn 10 vạn quân đi trấn áp. Nhưng quân đội không ủng hộ y, nên luôn luôn bị thất bại. Nhật Bản thấy vậy cũng bỏ Viên Thế Khải. Năm 1916, Viên đành phải tuyên bố thủ tiêu nền đế chế, hòng giữ lại chức Tổng thống. Nhưng sau đó, Viên Thế Khải chết.

Sau khi Viên Thế Khải chết, Lê Nguyên Hồng lên làm Tổng thống, Đoàn Kỳ Thụy làm Tổng lý. Họ khôi phục “Ước pháp lâm thời”, triệu tập lại Quốc hội. Đoàn Kỳ Thụy nắm quyền quân sự, có lực lượng hùng hậu trong tay, câu kết với Nhật.

Nhân cơ hội các nước đế quốc phương Tây bận chiến tranh thế giới, Nhật Bản lợi dụng con bài Đoàn Kỳ Thụy và sự ham muốn quyền lực của y để khống chế Chính phủ Bắc Kinh, loại bỏ Lê Nguyên Hồng. Nhật Bản cho Chính phủ Đoàn Kỳ Thụy 5 tỉ đôla để tiến hành nội chiến. Đổi lại, các quyền kinh doanh đường sắt, hẩm mỏ, khai thác rừng, ngân hàng, tài chính v.v… đều thuộc về Nhật Bản. Cùng lúc đó, Đoàn Kỳ Thụy ký hiệp ước quân sự với Nhật Bản, bán rẻ những bí mật quốc phòng, nhận cố vấn quân sự Nhật, và đặt toàn bộ miền Đông bắc Trung Quốc dưới sự khống chế của Nhật Bản.

Lúc này, đế quốc Mỹ một mặt tạm thời thỏa hiệp với Nhật Bản, một mặt tìm cách xâm nhập Trung Quốc. Tháng 11-1917, Mỹ-Nhật đã ký hiệp ước về quyền lợi, Mỹ thừa nhận đặc quyền của Nhật và Nhật công nhận Mỹ được hưởng lợi ích “mở cửa” và “cơ hội bình đẳng” ở Trung Quốc.

Đất nước Trung Quốc trong những năm 20 của thế kỷ XX như một bức tranh hỗn chiến. Bọn quân phiệt chia cắt thành các khu vực, đế quốc phân chia thế lực, nhân dân Trung Quốc quằn quại trong tủi nhục của một dân tộc đói nghèo, bị áp bức. Sứ mệnh cứu dân tộc thật lớn lao, con đường giải phóng dẫn đến hạnh phúc ấm no chỉ có thể do giai cấp công nhân đảm nhiệm. Đó chính là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Trung Quốc phải gánh vác trước dân tộc.

Nguồn: Lịch sử thế giới cận đại, Vũ Dương Ninh – Nguyễn Văn Hồng, Nhà xuất bản Giáo dục

5/5 - (1 bình chọn)Bài viết liên quan:
  1. Chiến tranh thuốc phiện lần thứ nhất (1839-1842)
  2. Các nước Đế quốc xâu xé Trung Quốc
  3. Phong trào nông dân Thái bình thiên quốc
  4. Phong trào Duy Tân ở Trung Quốc cuối thế kỷ XIX
Lịch sử Phương ĐôngLịch sử thế giớiLịch sử thế giới cận đạiLịch sử Trung Quốc

Từ khóa » Hình Thức Của Cuộc Cách Mạng Tân Hợi