Cuộc chiến tranh Nga – Ukraine đang diễn ra, không ai biết khi nào sẽ kết thúc và kết thúc như thế nào. Từng ngày, từng giờ, cả thế giới đang dõi theo cuộc chiến Nga – Ukraine với tâm trạng, suy nghĩ và nhận xét rất khác nhau, thậm chí đối lập nhau.
Mỹ và phương Tây phê phán, lên án Nga, đổ mọi trách nhiệm cho Điện Kremlin và họ đã hậu thuẫn chính trị, ngoại giao cho Ukraine, cung cấp đủ các loại vũ khí hiện đại nhất (trừ bom nguyên tử) cho chính quyền Kiev, hỗ trợ hàng tỷ USD cho Ukraine. Đó là cách suy nghĩ, nhìn nhận phiến diện, một chiều và rất nguy hiểm vì nó không có ích gì cho việc chấm dứt cuộc xung đột quân sự, thực chất đó là hành động “đổ thêm dầu vào lửa”.
Hơn lúc nào hết, trong “nước sôi lửa bỏng” cần bình tĩnh có cái nhìn khách quan từ chiều sâu lịch sử và chiều rộng của nền chính trị thế giới, chủ yếu là quan hệ giữa các cường quốc, trước hết là quan hệ Mỹ – Nga.
Cuộc khủng hoảng Ukraine hiện nay là cộng hưởng của những vấn đề chính trị nội bộ Ukraine với cuộc đối đầu Mỹ – Nga. Xét đến cùng, cuộc khủng hoảng Ukraine hiện nay là kết quả của quá trình triển khai chiến lược toàn cầu của Mỹ nhằm duy trì vai trò bá chủ thế giới của Washington khi sức mạnh của Mỹ đang trên đà suy giảm.
Ukraine có diện tích 603.700 km2, lớn thứ hai ở châu Âu (Nga có diện tích 17,075 triệu km2), lớn gấp 1,8 lần diện tích Việt Nam. Ukraine có 10% đất tốt nhất thế giới.
Dân số: Năm 1998 là 52 triệu người, năm 2013 còn 46 triệu người. 64,7% là người Ukraine, 32,8% là người Nga, 2% là người Belarus. 71% người Ukraine nói tiếng Ukraine, 20% nói tiếng Nga. Tôn giáo: Đa số theo Thiên Chúa giáo chính thống (Nga), thiểu số theo Thiên Chúa giáo La Mã.
Phía Đông giáp Nga; Phía Bắc giáp Belarus; Đông Nam giáp Thổ Nhĩ Kỳ và Biển Đen – Địa Trung Hải; Phía Tây giáp Ba Lan (Tây Bắc), Slovakia, Hungary, Romania, Bulgaria, Moldova.
Ukraine được hợp nhất từ 3 vùng:
– 9 tỉnh miền Đông và Đông Nam (24 triệu/46 triệu người). Có đa số người Nga, nói tiếng Nga, lịch sử, tôn giáo, văn hóa có quan hệ gần gũi với Nga và họ muốn hội nhập, gắn bó với Nga. Đây là vùng kinh tế trọng điểm của Ukraine và gắn liền với kinh tế Nga. Hầu hết các ngành công nghiệp trọng yếu của Ukraine ở phía Đông giáp Nga.
– 8 tỉnh miền Tây, nói tiếng Ukraine là chủ yếu. Vùng miền Tây Ukraine có lịch sử, văn hóa, tôn giáo La Mã, kinh tế nông nghiệp gần gũi với các nước châu Âu. Người dân vùng này (phía Tây) có tư tưởng bài Nga, muốn Ukraine gia nhập EU và NATO.
– 7 tỉnh miền Trung, người dân có thái độ trung lập giữa Nga và Tây Âu, họ không chống Nga, chỉ không thích Nga, thích Tây Âu, muốn hội nhập sâu vào châu Âu.
Ukraine có diện tích rộng nhất châu Âu (trừ Nga); đất tốt nhất châu Âu (có 10% đất tốt nhất thế giới); khí hậu ôn hòa thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Ukraine nằm trên trục giao thông huyết mạch từ Tây sang Đông. Nghĩa là Ukraine có “Thiên thời” và “Địa lợi”, rất tiếc “Nhân không hòa”: Phía Đông muốn gắn với Nga, phía Tây ngả hẳn vào Tây Âu. Do đó, muốn tồn tại và phát triển đất nước, những người nắm quyền lực ở Kiev phải thực hiện cân bằng (tương đối) giữa Nga và Tây Âu, nghĩa là không ngả hẳn vào Nga và cũng không ngả hẳn vào Tây Âu. Từ năm 1991 đến nay, người nào nắm quyền lực ở Kiev mà ngả hẳn vào Nga, bài xích Tây Âu, cũng thất bại. Ngược lại, người nào nắm quyền lực ở Kiev ngả hẳn vào Tây Âu và chống Nga cũng thất bại.
Về lịch sử, Ukraine, Nga và Belarus có cội nguồn lịch sử 1.140 năm gắn bó chặt chẽ với nhau.
Năm 882, Hoàng tử Oleg xứ Novgorod (thành phố cổ Tây Bắc Nga, phía Đông Nam Moskva) đã tập hợp các bộ tộc Đông Slave thành lập Công quốc Nga – Kiev (Rus – Kiev), lấy Kiev làm thủ đô. Vùng phía Bắc dãy Karpat là thủy tổ (nơi phát sinh) của người Slave.
Từ Công quốc Rus – Kiev năm 882, qua nhiều thăng trầm lịch sử, phát triển thành 3 quốc gia ngày nay là Nga, Ukraine và Belarus. Trong tâm thức sâu kín, người Nga, người Belarus và người Ukraine đều thừa nhận họ có cùng cội nguồn từ Công quốc Rus – Kiev.
Từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII, Ukraine bị các đế quốc Ba Lan, đế quốc Nguyên Mông, đế quốc Ottoman (Thổ Nhĩ Kỳ) xâm chiếm, thống trị. Năm 1793, Sa hoàng Nga hợp nhất các vùng lãnh thổ thuộc Ukraine và tách Ukraine khỏi Ba Lan (lần thứ 2) và đặt Ukraine dưới quyền cai trị của Nga.
Năm 1918, lợi dụng thời cơ Đại chiến thế giới thứ nhất (1914 – 1918) và Cách mạng Tháng Mười Nga (7/11/1917), Ukraine giành độc lập.
Năm 1922, Ukraine gia nhập Liên Xô.
Tháng 12/1991, khi Liên Xô tan rã, Ukraine độc lập.
Ukraine và Nga có quan hệ kinh tế hết sức chặt chẽ và tạo thành một không gian kinh tế thống nhất: Có chung hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế như tiêu chuẩn, định mức, chất lượng, mẫu mã hàng hóa. Hệ thống đường sắt Nga – Ukraine rộng 1,25m, đường sắt các nước châu Âu là 1,435m.
Đến trước năm 2000, 50% đầu tư nước ngoài vào Ukraine (FDI) là từ Nga; 62% sản phẩm công nghiệp của Ukraine xuất khẩu sang Nga; Nga chiếm 25% ngoại thương của Ukraine.
Như vậy, Ukraine và Nga có mối quan hệ hết sức chặt chẽ về lịch sử, nhân chủng, dân tộc, tôn giáo, văn hóa, kinh tế, xã hội, và hai quốc gia dân tộc này đều xuất phát từ một nhà nước đầu tiên – Công quốc Russ – Kiev năm 882, Belarus cũng phát triển từ Russ – Kiev 882. Nga, Ukraine và Belarus có cùng một cội nguồn cách đây 1.140 năm và 3 quốc gia này tạo thành một không gian văn hóa thống nhất. Đây là trường hợp độc nhất ở châu Âu.
Ngày 4/4/1949, tại Washington, 12 quốc gia gồm: Mỹ, Anh, Pháp, Canada, Italy, Bỉ, Hà Lan, Luxembourg, Đan Mạch, Bồ Đào Nha, Na Uy và Iceland ký thành lập Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương – NATO (có hiệu lực từ 24/8/1949). Đối tượng tác chiến của NATO là Liên Xô (đúng hơn là Hồng quân và hải quân Liên Xô).
NATO là công cụ để Mỹ tiến hành hoạt động chống phá Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa (XHCN), duy trì vai trò bá chủ thế giới của Washington.
Để đối phó với NATO, ngày 14/5/1955, tại Warsaw (Ba Lan), 8 nước Bulgaria, Hungary, CHDC Đức, Ba Lan, Romania, Liên Xô, Tiệp Khắc và Albania ký thành lập Tổ chức Hiệp ước Warsaw – liên minh quân sự – chính trị của các nước XHCN do Liên Xô làm chủ đạo (có hiệu lực từ 5/6/1955). Ngày 25/2/1991, tại Budapest (Hungary), Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao và Bộ trưởng Quốc phòng các nước thành viên tuyên bố giải thể Tổ chức Hiệp ước Warsaw và đến ngày 1/7/1991, Tổ chức Hiệp ước Warsaw không tồn tại.
Cuối năm 1911, Liên Xô tan rã và Tổ chức Hiệp ước Warsaw không tồn tại, Mỹ và NATO mất đối tượng chủ yếu. Giai đoạn 1911 – 2000, Nga suy yếu đến tận cùng và bên bờ vực tan rã, sụp đổ. Đúng ra, trong bối cảnh đó, NATO phải giải thể.
Sau gần 10 năm cầm quyền (1), Boris Yeltsin đã đẩy nước Nga đến bờ vực tan rã.
Các thông tin, số liệu sau đây cho ta hình dung được “sức mạnh” của nước Nga vào những năm 90 của thế kỷ XX. “Nền kinh tế Nga lâm vào tình trạng “rơi tự do”. Sản lượng giảm sút với nhịp độ chưa từng có trong thực tiễn thế giới, hơn 25%. Lạm phát gần tới mức cao 10 – 20%/tháng”(2); “Các tổ chức tội phạm (mafia) chiếm lĩnh nhiều lĩnh vực kinh tế. Số lượng các nhóm mafia tăng từ 800 nhóm năm 1990 lên tới hơn 5.500 nhóm năm 1994, với hơn 3 triệu thành viên”(3). Xã hội Nga thì “hỗn loạn, bất ổn, còn tội phạm lại xâm nhập sâu vào các cơ quan công quyền”(4).
Về sức mạnh quân sự, đến 1999, “Quân đội Nga có 1,2 triệu quân, nhưng ngân sách hàng năm chỉ chi khoảng 10 tỷ USD, trong khi Mỹ có 1,4 triệu quân nhưng ngân sách quốc phòng của họ là 340 tỷ USD” (5).Và “một sĩ quan Nga có mức lương trung bình là 100 USD/tháng. Binh lính hưởng phụ cấp không đủ sống đã buộc phải làm những việc khác, kể cả buôn lậu, nên binh lính đã trở nên không kiểm soát nổi”(6).
Trong khi rơi vào tình cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”, “Mỹ không giúp Nga mà họ còn nhấn Nga sâu hơn vào vũng bùn bằng chính sách địa chính trị thô thiển của mình”(7), và “người Mỹ hiểu rất rõ Nga không còn gì đáng giá ngoài dầu khí và họ làm tất cả để phá hoại chỗ dựa kinh tế cuối cùng của Nga”(8).
Sau khi Liên Xô tan rã (1991), Nga như một con thú trúng đạn, co cụm chữa lành vết thương và bảo vệ các lợi ích sống còn của mình. Trong tình cảnh hoang tàn, Nga không có tham vọng toàn cầu, cũng không có khả năng đe dọa vai trò toàn cầu toàn năng của Mỹ.
Một số chính khách, học giả Mỹ và Tây Âu rất tỉnh táo, sáng suốt phê phán sai lầm của Washington và Brussels trong việc theo đuổi chính sách thù địch với Nga, dồn ép Nga đến tận cùng. Dana Rohrabacher – Chủ tịch Ủy ban về châu Âu, Âu – Á của Hạ viện Mỹ (2016) đã khẳng định: “Không có một bằng chứng cụ thể nào cho thấy Nga nuôi tham vọng bành trướng toàn cầu, ngay cả khi Nga vẫn trong thời kỳ Xô viết. Nga chính là quốc gia đã đơn phương rút quân chiếm đóng khỏi Đông Âu, một động thái chấm dứt Chiến tranh Lạnh”(9), và “Ngày nay, nước Mỹ lại có những chính sách thù địch nóng vội đối với Nga – một đất nước có thể trở thành một đồng minh để chống lại rất nhiều kẻ thù như các thành phần Hồi giáo cực đoan và rất có thể là một Trung Quốc đang nỗ lực bành trướng”(10).
Mỹ đã cam kết những gì với Nga và họ đã bội tín như thế nào:
– Về việc không mở rộng NATO về phía Đông giáp Nga:
Không có cam kết bằng văn bản giữa Mỹ và Nga về việc Mỹ không kết nạp các nước Đông Âu và Baltic (thuộc Liên Xô cũ) vào NATO. Chỉ có 2 sự kiện liên quan vấn đề này:
“Ngày 9/2/1990, Ngoại trưởng Mỹ James Baker khi đó đã đảm bảo với lãnh đạo Liên Xô Mikhail Gorbachev rằng, NATO sẽ không mở rộng dù chỉ 1 inch về phía Đông” (12) và “Cựu Giám đốc CIA Robert Gates đã viết rằng, Gorbachev “bị xỏ mũi” để tin rằng, sự mở rộng về phía Đông của NATO “sẽ không xảy ra”. Sai lầm khi tin vào thiện ý đằng sau những lời đảm bảo này”(13).
Thông tin thứ hai về NATO không mở rộng về phía Đông, không kết nạp các nước thuộc Liên Xô: Ngày 6/3/1991, tại Bonn (Thủ đô Tây Đức), có cuộc họp đại diện Bộ Ngoại giao 6 nước: Mỹ, Liên Xô, Tây Đức, Đông Đức, Anh, Pháp bàn về an ninh của Đức nói riêng, an ninh của châu Âu nói chung. Tại cuộc họp này, Mỹ, Anh, Pháp, Tây Đức đã cam kết (có trong biên bản cuộc họp): Chúng tôi không mở rộng NATO ra ngoài sông Elbe. Do đó, chúng tôi không thể trao cho Ba Lan và các nước còn lại tư cách thành viên NATO. Đại diện Mỹ Raymond Seitz nói rằng: “NATO không nên mở rộng về phía Đông dù chính thức hay không chính thức” (14).
– Mỹ đã ký và không thực hiện (bội ước) nhiều hiệp ước, hiệp định về an ninh đã ký với Nga:
Năm 1997, Nga và NATO (Mỹ) đã ký “Văn kiện cơ bản về quan hệ, hợp tác và an ninh giữa Liên bang Nga và NATO”, trong đó, NATO cam kết họ sẽ không triển khai vũ khí hạt nhân ở các quốc gia thành viên NATO mới và NATO có nghĩa vụ không tái theo đuổi việc triển khai các lực lượng tác chiến quan trọng (tại các thành viên NATO mới).
Văn kiện Mỹ và Nga ký năm 1997 tạo ra nền tảng vững chắc cho việc đảm bảo an ninh ở châu Âu nói chung, cho quan hệ giữa Mỹ và NATO với Nga nói riêng. Rất tiếc, Mỹ và NATO đã không thực hiện thỏa thuận 1997 và tiến hành nhiều hoạt động gây hấn, đe dọa Nga và đơn phương rút ra khỏi các hiệp ước, hiệp định về an ninh đã ký với Nga.
Năm 1999, NATO tấn công quân sự Nam Tư, một quốc gia độc lập, có chủ quyền, thành viên Liên hợp quốc và không có bất kỳ hành động nào đe dọa Mỹ và NATO. Việc vô cớ tấn công quân sự đối với Nam Tư chứng tỏ Mỹ và các đồng minh có quyền quyết định số phận của các dân tộc khác trên thế giới? Đây là một đòn nặng nề làm xấu quan hệ NATO – Nga và thức tỉnh Nga, Nga nghi ngờ Mỹ và tìm cách đối phó với mối đe dọa từ NATO.
Ngày 22/5/2002, tại Rome (Italy), lãnh đạo Nga và lãnh đạo 19 quốc gia NATO đã ký Tuyên bố mở ra một chương mới trong quan hệ Nga – NATO nhằm tăng cường hợp tác trong việc đối phó với các mối đe dọa và nguy cơ an ninh chung và thành lập Hội đồng Nga – NATO.
Một lần nữa, từ sau ký Tuyên bố mở ra một chương mới trong quan hệ Nga – NATO 2002, Mỹ và NATO có hàng loạt hoạt động vi phạm các hiệp định, hiệp ước đã ký với Nga, vi phạm Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.
Năm 2002, Mỹ rút khỏi Hiệp ước chống tên lửa đạn đạo (ABM). Năm 2003, Mỹ xâm lược Iraq. Năm 2010, Mỹ và NATO xâm lược Libya. Năm 2019, Mỹ rút khỏi Hiệp ước tên lửa tầm trung. Năm 2020, Mỹ rút khỏi Hiệp ước bầu trời mở.
Từ năm 2013, Mỹ liên tiếp triển khai các căn cứ chống tên lửa và các căn cứ quân sự tiền phương ở Romania và Ba Lan. Từ năm 2016 đến 2020, các nước thành viên châu Âu của NATO và Canada đã tăng chi tiêu quân sự trong 6 năm liên tiếp. Năm 2020, chi tiêu quân sự của NATO đạt 1.090 tỷ USD, tăng 7,4% so với năm 2019(15). Năm 2020, GDP của Nga bằng khoảng 5% GDP của 30 quốc gia thành viên NATO và chi tiêu quân sự chỉ khoảng 70 tỷ USD (khoảng 7% chi tiêu quân sự của NATO). Với tương quan sức mạnh kinh tế, quân sự quá chênh lệch này mà coi Nga đe dọa NATO, đe dọa vai trò, vị thế toàn cầu của Mỹ là phi lý.
Chính sách của Washington và Brussels đối với Nga không phải vì mục đích duy trì, củng cố xu thế hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển ở châu Âu nói riêng, trên thế giới nói chung, cũng không có mục đích nâng cao chất lượng cuộc sống cho hơn 300 triệu người Mỹ và hơn 500 triệu người châu Âu; chủ yếu phục vụ lợi ích của một nhóm người thuộc tổ hợp tài chính – công nghiệp quân sự khổng lồ ở Phố Wall (Washington) – thế lực nắm quyền lực thực sự ở Mỹ từ Chiến tranh Thế giới thứ nhất (1914 – 1918) đến nay. Cuối những năm 50 của thế kỷ XX, Tổng thống D.Eisenhower(16) đã cảnh báo nguy cơ của một tổ hợp công nghiệp quân sự mất kiểm soát và khuynh đảo chính trường Mỹ(17). Năm 2014, khi trả lời phỏng vấn của Đài Tiếng nói Nga (VOR), nguyên Trợ lý Bộ trưởng Bộ Ngân khố Mỹ Paul Craig Robert đã chỉ rõ: “Đó là một nhóm lợi ích tư nhân lớn và quyền lực lớn đến mức đáng ngạc nhiên với những thành phần trong Chính phủ, các cơ quan an ninh gồm CIA, Bộ An ninh nội địa, FBI, Lầu Năm Góc”(18).
Vì lợi nhuận kếch sù trong buôn bán vũ khí, tổ hợp tài chính – công nghiệp quân sự khổng lồ ở Phố Wall là thế lực nắm quyền lực thực sự ở Mỹ và họ chỉ đạo Nhà Trắng thực hiện chính sách dồn ép Nga đến tận cùng, buộc Nga phải suy yếu. Họ phải “vẽ” ra một nước Nga hung hăng, hiếu chiến và luôn có mưu đồ xâm lược các nước để bán vũ khí cho Bộ Quốc phòng Mỹ và bộ quốc phòng của 29 quốc gia thành viên NATO cùng nhiều đồng minh, đối tác ở Bắc Phi, Trung Đông, Trung Á, Nam Á.
Đó là nguồn gốc, bản chất của cuộc đối đầu Mỹ và Nga.
Sẽ không hiểu được cuộc khủng hoảng Ukraine 2021 – 2022 nếu không bắt đầu từ năm 2012, cách đây 10 năm.
Năm 2012, Mỹ có kế hoạch lật đổ chính quyền ở 3 quốc gia Syria, Ukraine và Venezuela. Syria thuộc phạm vi tác chiến của Bộ Chỉ huy Trung tâm Mỹ (CENTCOM) do Philip Gardon chỉ huy; Ukraine thuộc phạm vi tác chiến của Bộ Chỉ huy châu Âu (EUCOM) do Karen Donfrich chỉ huy; Venezuela thuộc phạm vi tác chiến của Bộ Chỉ huy phương Nam (SOUTHCOM) do Ricardo Zuniga – chuyên gia về Mỹ Latinh chỉ huy.
Theo nhà báo Canada Mark Markinnon (19), sự can thiệp của Mỹ vào Syria, Ukraine, Venezuela và các nước khác (thực hiện “cách mạng màu” hay “cách mạng đường phố”, về cơ bản, theo một quy trình 5 bước: 1. Vu cáo, lên án các chính phủ đàn áp người dân, vi phạm nhân quyền; 2. Xây dựng ngọn cờ tập hợp lực lượng chống đối, tổ chức biểu tình phản đối chính quyền; 3. Tiến hành các biện pháp trừng phạt vào các cá nhân, thể nhân, các tổ chức kinh tế nhằm làm suy sụp kinh tế từ đó kích động bất mãn của người dân; 4. Tổ chức biểu tình đến bạo loạn chính trị tiến tới lật đổ chính quyền hoặc đảo chính; 5. Xây dựng bộ máy quyền lực mới thân Mỹ và phục vụ lợi ích của Mỹ.
Nhà báo Canada Mark Markinnon đã mô tả chi tiết quá trình Mỹ tiến hành các cuộc “cách mạng Hoa Hồng” ở Gruzia 2003, “cách mạng Cam” ở Ukraine 2004, “cách mạng Hoa Tuylip” ở Kyrgyzstan năm 2005, “cách mạng Trắng” (Bạch Vệ) ở Nga cuối 2011, và các diễn biến ở Ukraine giai đoạn 2012 – 2014.
Cuộc khủng hoảng Ukraine hiện nay bắt đầu từ cuối năm 2013 và diễn biến thông qua một chuỗi các sự kiện sau:
Ngày 20/11/2013, Tổng thống Ukraine Viktor Yanukovych tuyên bố tạm hoãn việc gia nhập Liên minh kinh tế châu Âu. Trước đó, nửa cuối năm 2013, Ukraine đã tuyên bố ngày 20/11/2013 sẽ chính thức ký hiệp định để Ukraine tham gia Liên minh kinh tế châu Âu. Lý do ngày 20/11/2013 Ukraine hoãn tham gia Liên minh kinh tế châu Âu, theo Tổng thống Yanukovych, là nền kinh tế Ukraine ở trình độ phát triển thấp so với các cường quốc kinh tế châu Âu. Trong điều kiện đó, nếu gia nhập Liên minh kinh tế châu Âu thì hàng hóa Ukraine khó vào thị trường EU, ngược lại, hàng hóa chất lượng cao với giá rẻ của các nước Tây Âu sẽ tràn vào chiếm lĩnh thị trường Ukraine; từ đó dẫn đến nguy cơ các cường quốc kinh tế Tây Âu sẽ chi phối kinh tế Ukraine. Do đó, Ukraine cần có thời gian (khoảng 3 – 5 năm) để cơ cấu lại nền kinh tế và nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, sau đó mới gia nhập Liên minh kinh tế châu Âu.
Lực lượng đối lập cho rằng, Tổng thống Yanukovych thân Nga và không muốn hội nhập với châu Âu. Vì thế, họ tổ chức biểu tình ở Kiev và các thành phố lớn đòi Tổng thống Yanukovych phải ký tham gia Liên minh kinh tế châu Âu.
Có thể xác định cuộc biểu tình ở Ukraine phát triển qua hai giai đoạn (rất tương đối):
– Từ 21/11/2013 đến 30/11/2013, các cuộc biểu tình diễn ra hòa bình yêu cầu Tổng thống Yanukovych hội nhập kinh tế với châu Âu ngay lập tức. Trong giai đoạn này chưa xảy ra xung đột giữa người biểu tình với các cơ quan chức năng Ukraine.
Từ 1/12/2013 đến 20/2/2014, biểu tình với khẩu hiệu chính trị đòi lật đổ chính quyền của Tổng thống Yanukovych. Cầm đầu các nhóm người biểu tình trên đường phố Kiev là bọn phát xít mới, những phần tử theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan bài Nga, bài Do Thái, bọn đâm thuê chém mướn. Bọn chúng dùng súng bắn tỉa vào lực lượng an ninh, cảnh sát và bắn vào người biểu tình rồi vu cáo chính quyền Yanukovych đàn áp đẫm máu.
Các ngày 18, 19, 20/2/2014 là 3 ngày đẫm máu nhất trên quảng trường thành phố Kiev. Bọn phát xít mới dùng súng bắn tỉa từ cửa sổ các nhà cao tầng vào người biểu tình. Đây là loại súng bắn tỉa đặc biệt chính xác mà Ukraine và Nga không có. Đây là loại súng mà Mỹ và NATO cung cấp cho lực lượng cực hữu, phát xít mới ở Ukraine.