Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi Dậy Xuân Mậu Thân 1968-Ý Chí Quyết ...

Sau nửa thế kỷ, chúng ta có thêm những cứ liệu lịch sử để nhìn nhận toàn diện hơn, sâu sắc hơn về sự kiện Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968; càng thêm tự hào về truyền thống kiên cường, bất khuất của dân tộc, đồng thời biết trân trọng một biểu tượng sáng ngời - tiêu biểu cho ý chí quyết chiến, quyết thắng của dân tộc Việt Nam trong "cuộc đụng đầu lịch sử" với đế quốc Mỹ xâm lược.

Với ý nghĩa đó, bài tham luận này tập trung làm rõ ý chí quyết chiến, quyết thắng của dân tộc Việt Nam, một trong những nhân tố quan trọng góp phần vào thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Trước hết, ý chí quyết chiến, quyết thắng của dân tộc Việt Nam được bắt nguồn từ trong đường lối lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng, tiêu biểu cho quyết tâm kháng chiến của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trước thử thách ngặt nghèo của lịch sử.

Từ đầu năm 1965, khi chiến lược "chiến tranh đặc biệt" đứng trước nguy cơ phá sản hoàn toàn, đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược "chiến tranh cục bộ", ồ ạt đưa quân viễn chinh và quân một số nước đồng minh cùng nhiều loại vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại vào tham chiến trực tiếp ở miền Nam, đồng thời mở cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ra miền Bắc. Đây là bước leo thang thể hiện nỗ lực cao nhất của Mỹ trong toàn bộ cuộc chiến tranh xâm lược, đặt cuộc kháng chiến của nhân dân ta trước tình thế vô cùng khó khăn.

Trên cơ sở phân tích toàn diện bối cảnh lịch sử, đánh giá đúng tình hình địch, ta, từ Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 11 (3-1965), đặc biệt là Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 12 (12-1965), Đảng ta đã kịp thời đề ra quyết tâm: "Động viên lực lượng của cả nước, kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất cứ tình huống nào, để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà"[1]. Từ quyết tâm ấy, Đảng ta tiếp tục phát động và đưa cuộc chiến tranh nhân dân lên một bước phát triển cao hơn, lấy tư tưởng chiến lược cách mạng tiến công làm nền tảng, đó là: kết hợp chặt chẽ chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy; tiến công địch bằng cả chính trị, quân sự, ngoại giao; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; đánh địch trên khắp ba vùng chiến lược (rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị); tiến công kiên quyết, liên tục từ nhỏ đến lớn, từ cục bộ lên toàn bộ...

Nhờ có đường lối lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo, quân và dân ta đã bước vào "cuộc đụng đầu lịch sử" chống đế quốc Mỹ với khí thế sục sôi chưa từng có, trở thành cao trào thi đua sôi nổi nhanh chóng lan rộng ra cả nước. Ở miền Bắc có những phong trào: "Thanh niên ba sẵn sàng", "Phụ nữ ba đảm đang", "Hai giỏi", "Ba nhất", "Tay cày tay súng, tay búa tay súng", "Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người"... Quân và dân trên các nẻo đường vận chuyển chi viện cho chiến trường miền Nam nêu cao quyết tâm giữ vững mạch máu giao thông, với các khẩu hiệu hành động "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước", "Xe chưa qua, nhà không tiếc", "Đánh địch mà đi, mở đường mà tiến"...

Trên chiến trường miền Nam nổi lên những phong trào: "Tìm Mỹ mà đánh, tìm ngụy mà diệt", thi đua phấn đấu đạt danh hiệu "Dũng sĩ diệt Mỹ"... Với ý chí quyết tâm cao độ, quân và dân miền Nam không những đánh bại những cuộc hành quân "tìm diệt", lần lượt đập tan các cuộc phản công chiến lược của địch trong các mùa khô 1965-1966 và 1966-1967, mà còn mở những chiến dịch tiêu diệt lớn quân địch; đồng thời, vận dụng linh hoạt nhiều phương thức tác chiến chiến lược đánh cả vào hậu cứ, kho tàng, những tuyến giao thông quan trọng, thực sự tạo ra nhiều khó khăn, gây bất ngờ đối với Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Quá trình chiến đấu giành thắng lợi từng bước, đánh bại từng mục tiêu, thủ đoạn hành động của địch trong những năm 1965 đến 1967 cũng đồng thời là quá trình quân và dân ta tích cực phát triển lực lượng, tổ chức thế trận... chuẩn bị cho đòn tiến công quyết định, tạo bước phát triển nhảy vọt của chiến tranh nhân dân.

Ý chí quyết chiến, quyết thắng thể hiện ở quyết định mang tính lịch sử của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam: mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Cuối năm 1967, cục diện chiến trường và tình hình quốc tế liên quan đến cuộc chiến tranh Việt Nam chuyển biến mau lẹ theo hướng ngày càng có lợi cho cách mạng. Về phía Mỹ, dù nỗ lực leo thang chiến tranh đến đỉnh cao, nắm trong tay đội quân xâm lược đông đảo hơn 1,2 triệu tên (trong đó có hơn nửa triệu quân viễn chinh, quân một số nước đồng minh), song vẫn không đạt được những mục tiêu cơ bản đề ra, trái lại, phải chịu nhiều tổn thất to lớn. Phong trào phản đối chiến tranh trong các tầng lớp nhân dân Mỹ diễn ra mạnh mẽ. Nội bộ chính quyền Tổng thống Giônxơn chia rẽ thành nhiều phe phái với các quan điểm, lập trường khác nhau... Đây cũng là thời điểm "nhạy cảm" về chính trị, bởi nước Mỹ đang chuẩn bị bước vào cuộc vận động tranh cử tổng thống nhiệm kỳ mới diễn ra vào năm 1968. Một thất bại lớn về quân sự (nếu diễn ra) ở chiến trường Việt Nam sẽ tác động rất mạnh đến tình hình nước Mỹ, có thể làm xoay chuyển toàn bộ đường lối, chính sách theo đuổi chiến tranh. Lúc này, đối với chính quyền Mỹ, cuộc chiến tranh tại miền Nam trở nên khó lường định hơn lúc nào hết.

Về phía ta, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã giành được nhiều thắng lợi quan trọng, vừa bảo đảm tiềm lực đánh lâu dài, đồng thời sẵn sàng cho khả năng chớp thời cơ giành thắng lợi quyết định. Trên chiến trường miền Nam, lực lượng vũ trang cách mạng phát triển lớn mạnh, đứng chân tại những địa bàn chiến lược từ Quảng Trị, Trung Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ đến đồng bằng sông Cửu Long, trực tiếp đe dọa không chỉ vùng nông thôn, ngoại tuyến mà ngay tại các thành phố lớn do địch kiểm soát. Vùng giải phóng được củng cố và giữ vững. Thế trận chiến tranh nhân dân phát triển mạnh. Phong trào đấu tranh chính trị (nhất là ở đô thị) chuyển biến tích cực cả về hình thức và nội dung, lôi cuốn đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Uy tín của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được nâng cao. Vượt qua sự đánh phá quyết liệt của bom đạn Mỹ, quân và dân miền Bắc ra sức đẩy mạnh sản xuất, thực hiện nghĩa vụ hậu phương chi viện cho chiến trường miền Nam, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao cho cuộc kháng chiến. Hoạt động ngoại giao cách mạng đạt được nhiều kết quả quan trọng, làm rõ tính chính nghĩa của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam, tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới; đồng thời, đấu tranh phân hóa, cô lập đối phương trên trường quốc tế, làm rõ tính chất phi nghĩa của cuộc chiến tranh xâm lược mà Mỹ đang tiến hành ở Việt Nam. Nhìn nhận một cách tổng quát, cách mạng đang ở thế thắng, thế chủ động và thuận lợi, còn Mỹ đang ở thế thua, thế bị động, "tiến thoái lưỡng nan" về chiến lược.

Trên cơ sở nắm bắt tình hình thực tế, phân tích đúng xu thế vận động, chiều hướng chiến tranh, sau nhiều lần nghiên cứu, thảo luận, Hội nghị Bộ Chính trị (cuối tháng 12-1967) và Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 14 (1-1968) đề ra quyết tâm: "... Động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất..."; "... chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định"[2]. Theo đó, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy sẽ được tiến hành vào dịp Tết Mậu Thân 1968, bao gồm hai hướng chiến lược: hướng tiến công chủ yếu nhằm vào các thành thị, đánh sập các cơ quan đầu não chiến tranh, các trung tâm chỉ huy, hậu cứ và các phương tiện giao thông vận tải chiến lược của địch; hướng phối hợp quan trọng là mở chiến dịch lớn vùng rừng núi, trọng điểm là mặt trận Đường 9 - Khe Sanh, nhằm tiêu diệt, nghi binh, thu hút, giam chân một bộ phận lớn quân địch, tạo điều kiện thuận lợi cho mặt trận đô thị và nổi dậy của quần chúng ở nông thôn. Tất cả nỗ lực đó đều hướng đến mục tiêu: "Giáng cho địch một đòn thật mạnh và hiểm, bất ngờ và đồng loạt, làm cho Mỹ phải lung lay ý chí xâm lược, tạo nên sự thay đổi cơ bản cục diện chiến tranh có lợi cho ta"[3]. Đây thực sự là tư duy quân sự mới trong chỉ đạo chiến lược của Đảng, khiến cho đối phương không thể nghĩ tới, khi hành động diễn ra sẽ không kịp trở tay. Đặt trong điều kiện tương quan lực lượng quân sự, tiềm lực vật chất của địch vẫn còn rất lớn, thì chủ trương mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 với cách đánh táo bạo, bất ngờ thực sự là một quyết tâm rất lớn, thể hiện bản lĩnh và tầm cao trí tuệ của Đảng ta trong việc nắm bắt và chớp thời cơ, nêu cao tinh thần quyết chiến, quyết thắng dẫn dắt cả dân tộc bước vào "trận đánh lịch sử" với khí thế sục sôi nhất, như đồng chí Lê Duẩn khẳng định: "Khi đã có thời cơ thuận lợi, nếu chúng ta biết làm và làm đúng, có sự nỗ lực vượt bậc thì lực lượng ít cũng có thể tạo nên sức mạnh bảo đảm giành được thắng lợi rất to lớn, rất quan trọng"[4].

Ý chí quyết chiến, quyết thắng được biểu hiện ở hành động kiên trì, bí mật, quyết liệt, dũng mãnh của quân và dân ta trong chuẩn bị và thực hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy.

Chấp hành chủ trương chiến lược do Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đề ra, dù thời gian rất gấp, nhưng với quyết tâm cao độ, quân và dân ta ra sức chuẩn bị mọi mặt với tinh thần, khí thế sục sôi. Trên miền Bắc, chỉ từ tháng 12-1967 đến tháng 1-1968, hàng chục ngàn tấn vật chất theo các đoàn quân di chuyển vào Nam. Tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn tiếp tục được củng cố, mở rộng, không ngừng vươn xa đến các chiến trường, vươn sâu vào từng mặt trận, kịp thời phục vụ yêu cầu, nhiệm vụ mới đề ra. Các quân khu miền Nam khẩn trương tổ chức lực lượng, chuẩn bị thế trận với khả năng cao nhất cho trận quyết chiến lịch sử sắp diễn ra. Nhân dân vùng địch tạm chiếm tích cực vận chuyển lương thực, vũ khí, đạn dược về cất giấu ở các vùng ven đô. Các đoàn cán bộ bằng nhiều con đường khác nhau thâm nhập vào đô thị, phối hợp cùng cơ sở tại chỗ tiến hành các mặt công tác, sẵn sàng cho quần chúng nổi dậy khởi nghĩa... Công tác chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công diễn ra trên quy mô rộng lớn chưa từng có. Mặc dù hệ thống phòng giữ, kiểm tra, kiểm soát của địch hết sức gắt gao, mạng lưới an ninh, tình báo của chúng giăng ở khắp nơi, nhưng ta vẫn giữ được bí mật công tác chuẩn bị và kế hoạch hành động cho đến lúc khởi sự. Đó là một thành công rất lớn, vượt ra ngoài sự tưởng tượng của kẻ thù. Thành công ấy không chỉ do ý thức tổ chức, chấp hành kỷ luật của cán bộ, chiến sĩ, mà còn cho thấy ý chí, quyết tâm to lớn, khát vọng độc lập, tự do đến cháy bỏng của đồng bào miền Nam, chỉ chờ thời khắc bùng lên.

Thực hiện kế hoạch nghi binh, thu hút một bộ phận quan trọng sinh lực địch, đêm 20, rạng ngày 21-1-1968, quân ta nổ súng mở đợt hoạt động quân sự lớn tại mặt trận Đường 9 - Khe Sanh. Bộ Chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ tại Việt Nam nhận định: mục tiêu chủ yếu và cố gắng cao nhất của Quân giải phóng là tiêu diệt Khe Sanh, biến Khe Sanh thành một "Điện Biên Phủ" đối với Mỹ, sau đó chiếm giữ hai tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên để tạo đà đi vào thương lượng. Từ nhận định đó, Mỹ và chính quyền Sài Gòn tập trung quân cơ động cùng các loại vũ khí, phương tiện chiến tranh để đối phó với ta. Tình hình chiến sự vùng giới tuyến quân sự tạm thời ở Nam Việt Nam như "thỏi nam châm cực mạnh" thu hút sự quan tâm theo dõi của cả chính quyền, các hãng truyền thông cùng đông đảo nhân dân Mỹ.

Trong khi mọi sự chú ý của phía Mỹ đổ dồn vào mặt trận Đường 9 - Khe Sanh, thì đêm 30 rạng ngày 31-1-1968 (đêm mùng một rạng ngày mùng hai Tết Mậu Thân 1968), quân và dân miền Nam đồng loạt tiến công và nổi dậy ở 4 thành phố, 37 thị xã, hàng trăm thị trấn, quận lỵ; đánh vào hầu hết các cơ quan đầu não trung ương, địa phương của Mỹ và chính quyền Sài Gòn... Đặc biệt, những trận đánh vào Tòa Đại sứ Mỹ, Dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn,... thực sự đã tạo nên chấn động lớn. Tại các vùng nông thôn, được lực lượng vũ trang cách mạng giúp sức, nhân dân nổi dậy đập tan từng mảng ách kìm kẹp, giành thế chủ động trên chiến trường. Để cứu vãn tình thế, Mỹ và chính quyền Sài Gòn, sau cơn choáng váng ban đầu, tập trung phản kích quyết liệt. Dù trong điều kiện chiến đấu ác liệt, lực lượng gặp nhiều bất lợi, nhưng cán bộ, chiến sĩ khắp chiến trường vẫn kiên cường trụ bám mục tiêu. Tại Khe Sanh, quân Mỹ tập trung đánh phá rất ác liệt, nhưng cán bộ, chiến sĩ giải phóng ngày đêm kiên quyết giữ vững trận địa bao vây, đẩy bộ phận quân viễn chinh vào tình thế khốn cùng, buộc địch phải đưa quân ứng cứu, tạo điều kiện cho quân và dân các chiến trường đẩy mạnh đấu tranh. Tại cố đô Huế, trong điều kiện lực lượng có nhiều hao hụt, nhưng quân ta vẫn kiên cường bám trụ từng căn nhà, từng góc phố, đánh bại liên tiếp các cuộc phản kích của địch, làm chủ thành phố 25 ngày đêm. Bộ đội đặc công, biệt động đánh vào những mục tiêu hiểm yếu, quan trọng của địch ở hầu khắp các thành phố. Vượt qua mưa bom, bão đạn của quân thù, nhân dân vẫn ngày đêm sát cánh chiến đấu, gùi lương, tải đạn, cứu chữa thương binh, chôn cất tử sĩ... Từ nông thôn đến thành thị, từ Khe Sanh đến miền Đông Nam Bộ về mũi Cà Mau... nơi đâu cũng ngời sáng chủ nghĩa anh hùng cách mạng với sức mạnh quật khởi trước sự chống trả điên cuồng của quân xâm lược.

Dù chưa đạt được mục tiêu cao nhất đặt ra, song cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 thực sự là "đòn sấm sét" làm chính quyền, quân đội Mỹ và Sài Gòn choáng váng, gây kinh ngạc đối với nhân dân Mỹ và thu hút sự quan tâm của dư luận thế giới. Phong trào phản đối chiến tranh trong các tầng lớp nhân dân Mỹ và nhân dân thế giới lên cao. Đội quân viễn chinh đông đảo, thiện chiến đã chịu thất bại to lớn. Ý chí xâm lược bị suy sụp, buộc Chính phủ Mỹ phải xuống thang chiến tranh, ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán tại Hội nghị Pari. Đó là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của cách mạng, mở ra bước ngoặt mới cho sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Sau đợt Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân, phát huy kết quả đã đạt được, nêu cao tinh thần quyết chiến, quyết thắng, quân và dân ta liên tiếp mở các đợt tiến công đánh bại ý chí xâm lược, làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ, bảo vệ những thành quả cách mạng đã giành được.

Đặt trong bối cảnh quốc tế những năm 60 của thế kỷ XX, khi tư tưởng "phục Mỹ, sợ Mỹ" vẫn còn khá phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới, thì thắng lợi của nhân dân Việt Nam mà đỉnh cao là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy vang dội Xuân Mậu Thân 1968 là sự cổ vũ, động viên tinh thần rất to lớn. Thắng lợi ấy được tạo nên do nhiều yếu tố, từ đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo, từ chủ nghĩa yêu nước nồng nàn đến sự giác ngộ về lý tưởng, mục tiêu, chân lý "Không có gì quý hơn độc lập, tự do!", được biểu hiện tập trung ở ý chí quyết chiến, quyết thắng của toàn dân tộc Việt Nam.

Trong không khí cả nước đang ra sức thi đua lập thành tích chào mừng kỷ niệm 50 năm cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, để phát huy ý chí quyết chiến, quyết thắng năm xưa vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay, chúng ta cần thực hiện tốt một số yêu cầu, nhiệm vụ cơ bản sau:

Một là, tiếp tục nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, phát huy nội lực thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước.

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 trước hết là thắng lợi của đường lối độc lập, tự chủ. Nhờ có tinh thần độc lập, tự chủ, chúng ta đã điều hành cuộc chiến tranh rất chủ động, sáng tạo, biết khởi sự cuộc chiến tranh đúng lúc, thúc đẩy giành thắng lợi quyết định và kết thúc chiến tranh vào thời điểm có lợi nhất, bảo đảm giành thắng lợi trọn vẹn. Cũng chính nhờ có sự độc lập, tự chủ nên Đảng ta đã phát huy bản lĩnh và tầm cao trí tuệ, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại để thắng Mỹ, đồng thời hạn chế được những tác động, ảnh hưởng đến mục tiêu của cuộc kháng chiến. Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, đất nước đứng trước nhiều thời cơ thuận lợi nhưng cũng đang đối mặt với nhiều nguy cơ, thách thức. Đảng ta đề ra chủ trương tăng cường mở rộng quan hệ, hợp tác quốc tế nhằm tranh thủ những thuận lợi, những nguồn lực từ bên ngoài để góp phần xây dựng, phát triển đất nước, song vẫn khẳng định phải luôn giữ vững đường lối độc lập, tự chủ, phát huy sức mạnh nội lực là chính, coi đó là nền tảng có ý nghĩa quyết định đến thành công của công cuộc đổi mới. Việc phát huy sức mạnh nội lực đòi hỏi chúng ta phải thực hiện đồng bộ trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, trước mắt cần tập trung thực hiện thắng lợi các mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đề ra. Điều đó thể hiện sự kiên định đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.

Hai là, tăng cường giáo dục, bồi dưỡng phát huy tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc cho các thế hệ người Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ.

Chủ nghĩa yêu nước chính là động lực giúp dân tộc Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng các thế lực ngoại xâm hùng mạnh, khẳng định sự trường tồn cùng lịch sử. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, tinh thần yêu nước đã được phát huy cao độ thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng, giúp quân và dân ta đạp bằng mọi khó khăn, gian khổ, quyết chí, bền gan, "biết đánh và biết thắng" quân xâm lược, tiến lên giành thắng lợi quyết định.

Có thể khẳng định, bài học về tinh thần "yêu nước, thương nòi", của ý chí quyết chiến, quyết thắng được biểu hiện sinh động qua sự kiện Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đến nay vẫn còn nguyên giá trị và nóng hổi tính thời sự. Ngày nay, tinh thần yêu nước vẫn là động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do đó, vấn đề giáo dục lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc đối với các thế hệ người Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ cần tiếp tục được phát huy mạnh mẽ hơn nữa nhằm nâng cao giác ngộ chính trị bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, dân tộc, đồng thời bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, ý thức trách nhiệm của mỗi người dân cùng chung tay xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh, chống lại những quan điểm sai trái, những luận điệu tuyên truyền bôi nhọ, xuyên tạc của các thế lực thù địch đối với lịch sử đấu tranh cách mạng. Để đạt mục đích, yêu cầu đề ra, chúng ta cần tích cực, thường xuyên phát động các phong trào thi đua yêu nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, phải nhận thức đây không chỉ là trách nhiệm của công tác tuyên truyền, của ngành giáo dục, mà còn là trách nhiệm của toàn xã hội.

Ba là, phát huy vai trò to lớn của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân nhằm củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Kế thừa truyền thống "chung sức, đồng lòng" của dân tộc, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta đã tổ chức, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc lên tầm cao mới theo tư tưởng "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công" của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mặt trận dân tộc thống nhất ở mỗi miền Nam, Bắc tuy mục tiêu, cương lĩnh cụ thể, hình thức tổ chức, cơ cấu thành phần có nhiều điểm khác nhau, nhưng đều nhằm mục tiêu chung là đấu tranh giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thực hiện hòa bình thống nhất Tổ quốc, đáp ứng nguyện vọng tha thiết của nhân dân. Nhờ đó, chúng ta huy động được lực lượng rộng lớn, tập trung được sức mạnh tổng hợp, nhất là trong những thời điểm quyết định như cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Để củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong điều kiện mới hiện nay, đòi hỏi Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cần không ngừng đổi mới nội dung và phương thức hoạt động để nhân dân nắm rõ mọi chủ trương, đường lối của Đảng, tạo điều kiện cho nhân dân phát huy hơn nữa quyền dân chủ, trên cơ sở đó xây dựng bền chặt mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân; mặt khác, đa dạng hóa các hình thức vận động, tập hợp, tạo nên sự đồng thuận toàn xã hội, góp phần tạo không khí thi đua sôi nổi hoàn thành thắng lợi các mục tiêu nghị quyết đại hội Đảng các cấp đề ra.

Bốn là, thực hiện tốt công tác chính sách, chăm lo phát triển kinh tế - xã hội vùng sâu, vùng xa, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Việt Nam là đất nước có nhiều tộc người cùng sinh sống lâu đời. Trong những năm kháng chiến, đặc biệt là trước và sau Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, địa bàn trung du, miền núi (nơi sinh sống chủ yếu của đồng bào dân tộc thiểu số) là căn cứ kháng chiến, nơi đứng chân của lực lượng cách mạng. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn nhất quán thực hiện nguyên tắc: "tất cả các dân tộc đều bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển", đề ra nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn để phát triển mọi mặt đời sống, giúp đỡ đồng bào các dân tộc, góp phần xóa đói giảm nghèo và được đồng bào dân tộc thiểu số đồng tình, ủng hộ. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, tình hình kinh tế - xã hội ở những vùng sâu, vùng xa, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn. Các thế lực thù địch trong và ngoài nước tiếp tục tuyên truyền xuyên tạc, lôi kéo một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số nhằm thực hiện mưu đồ chính trị chống phá, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Do đó, việc thực hiện tốt chính sách chăm lo phát triển kinh tế - xã hội vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số vừa trở thành một trong những nhiệm vụ rất cấp thiết hiện tại, vừa có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Điều đó đòi hỏi tất cả các ngành, các cấp, mọi cán bộ, đảng viên cần quán triệt và thực hiện tốt chủ trương, chính sách chăm lo, phát triển đối với đồng bào dân tộc thiểu số của Đảng, Nhà nước, không để các thế lực phản động lợi dụng tăng cường các hoạt động chống phá, gây mất ổn định an ninh, chính trị.

Năm là, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, làm nòng cốt cho toàn dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam trong mọi tình huống.

Tiến trình 30 năm chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc (1945-1975) đã cho thấy: Vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc luôn là một nội dung lớn, một bài học sâu sắc được đúc rút trong toàn bộ đường lối, chủ trương chỉ đạo chiến lược cách mạng của Đảng ta. Điều đó xuất phát không chỉ từ yêu cầu, quy luật của chiến tranh, mà còn phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam, khi kẻ thù của dân tộc ta là những đội quân xâm lược hung bạo, có tiềm lực kinh tế, quân sự lớn mạnh hơn ta gấp nhiều lần. Nhờ đó, thế trận chiến tranh nhân dân được phát huy cao độ, tạo thành sức mạnh to lớn, vừa có khả năng thực hiện giam chân, chia cắt, tiêu hao, tiêu diệt từng bộ phận quân địch, vừa sẵn sàng chớp thời cơ giáng cho chúng những "đòn sấm sét", mà cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là minh chứng điển hình.

Trong giai đoạn hiện nay, nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa - giáo dục, xây dựng Đảng và Nhà nước, giữ vững môi trường chính trị ổn định, Đảng ta đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo nhiệm vụ xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân vững mạnh về mọi mặt theo phương châm "cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại"; bảo đảm cho quân đội, công an luôn là lực lượng chính trị tin cậy, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân. Lực lượng vũ trang nhân dân được xây dựng vững mạnh, tiếp tục phát huy, phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam truyền thống, đồng thời chủ động, sáng tạo làm chủ vũ khí, trang bị hiện đại, đáp ứng yêu cầu tác chiến công nghệ cao; trên cơ sở đó làm nòng cốt xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; ngăn ngừa, đẩy lùi, làm thất bại mọi âm mưu, hành động xâm phạm đến an ninh quốc gia, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đại tướng NGÔ XUÂN LỊCH

Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng

______________________________

[1] Nghị quyết Hội nghị lần thứ 12 của Ban Chấp hành Trung ương, ngày 27-12-1965, Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.26, tr.634.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.29, tr.50.

[3] Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.69.

[4] Lê Duẩn: Thư vào Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1985, tr.192.

Từ khóa » Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi Dậy 1968