Đặc điểm Sinh Thái, Sinh Học Của Rầy Nâu Và Phương Pháp Phòng Trừ ...

Rầy nâu (Nilaparvata lugens Stal) được đánh giá là một trong những dịch hại quan trọng nhất trên cây lúa hiện nay không chỉ ở Việt Nam mà còn ở khắp các vùng trồng lúa trên thế giới. Rầy nâu không chỉ gây hại trực tiếp bằng cách chích hút dịch cây lúa làm cản trở quá trình sinh trưởng và phát triển của cây lúa mà nguy hại hơn, chúng còn là tác nhân môi giới lây truyền các loại virus rất nguy hiểm trên cây lúa, trong đó hiện nay là virus vàng lùn, lùn xoắn lá. Tìm hiểu về đặc điểm sinh thái, sinh học của rầy nâu là một trong những bước cần thiết để việc phòng trừ rầy nâu hiệu quả.

Tổng quan:

Rầy nâu được coi là một trong những đối tượng nguy hiểm gây hại trên lúa, có tên khoa học là Nilaparvata lugens Stal, thuộc giống Nilaparvata, họ rầy Delphacidae, bộ nhỏ Fulgoromorpha, bộ phụ Auchenorrhyncha, bộ cánh đều Homoptera (BVTVwiki, 2012)

Nilaparvata lugens được đặt tên đầu tiên vào năm 1854 là Delphax lugens Stal. Sau đó được đổi tên thành Nilaparvata lugens bởi Muir và Giffard vào năm 1924 (Ecoport, nd). Tại Sri Lanka, Nilaparvata lugens được biết đầu tiên với tên Nilaparvata greeni Distant (Fernando và ctv, 1979). Tại Đài Loan, rầy nâu được biết đến với cái tên đầu tiên là Liburnia oryzae (Fukuda, 1934), sau đó là Nilaparvata oryzae Matsumra (Anonymous, 1944) và trở thành Nilaparvata lugens Stal vào các năm sau đó (Lin, 1970).

1. Đặc điểm sinh thái của rầy nâu Nilaparvata lugens Stal

Nhiệt độ: Nhiệt độ là một trong những yếu tố khí hậu có ảnh hưởng lớn nhất tới sự phát dục, biến động quần thể và phát dịch của rầy nâu. Nhiệt độ trong phạm vi 25-30ºC là thích hợp nhất đối với sự phát dục của trứng và rầy non, nếu nhiệt độ cao hơn 33-35ºC thì không thích hợp với rầy (Bae and Pathak, 1970). Theo Ho and Liu (1969) cho rằng nhiệt độ thấp trong khoảng từ 15-18ºC là không thích hợp cho sự phát triển của rầy. Các tác giả như  Fukuda (1934) cho hay nhiệt độ cao góp phần tăng số lượng rầy.

Ẩm độ và lượng mưa: Về vai trò của ẩm độ với phát sinh, phát triển của rầy nâu, nhìn chung các tác giả đều cho rằng môi trường ẩm có liên quan chặt với rầy nâu, điều kiện này góp phần làm tăng số lượng quần thể của chúng. Theo Kulshresthan (1974) độ ẩm trong phạm vi từ 70-80% là thích hợp cho sự phát dục của rầy nâu.. Tác giả Fukuda (1934) có nhận xét các trận dịch rầy nâu thường xảy ra trong điều kiện khô hạn.

Cây chủ: Lúa là cây chủ thích hợp nhất với rầy nâu (Kisimoto, 1977). Trên các ký chủ phụ như cỏ, rầy nâu có thể sống nhưng phát triển không thuận lợi (Mochida và ctv, 1977).

Giống lúa: Quan niệm chung đều cho rằng việc gieo cấy các giống lúa mới đã làm tác hại của rầy nâu tăng lên (Smith, 1972). Tác giả nhận xét các trận dịch rầy nâu gần đây liên quan đến nhập nội những giống lúa có năng suất cao (Oka, 1976). Mochida và ctv (1977) cho biết ở Indonesia sự phá hại của rầy nâu có tương quan chặt chẽ với diện tích cấy giống lúa mới, nhưng một số tác giả khác lại phản đối quan niệm này và cho rằng nhìn chung các giống lúa mới không mẫn cảm với rầy nâu hơn các giống lúa cao cây cổ truyền, mà chính là các biện pháp kỹ thuật được áp dụng với giống lúa mới như cấy dày, tưới nước, bón nhiều phân... mới là nguyên nhân gây lên bùng phát rầy nâu (Freeman, 1976).

Mùa vụ: Nhiều tác giả cho rằng việc tăng vụ lúa trong năm đã dẫn đến làm tăng sự phá hại của rầy nâu, việc gieo cấy hai hoặc nhiều vụ lúa liên tiếp trong một năm với thời gian không ổn định đã góp phần gây ra các trận dịch rầy nâu (Nickel, 1973). Trong một năm, thời gian có cây chủ tồn tại trên đồng ruộng càng dài thì càng có điều kiện cho quần thể rầy nâu đạt đến mật độ cao, trong điều kiện đó rầy nâu phát tán từ ruộng này sang ruộng khác và lan rộng từ ruộng cấy trước sang ruộng lúa cấy sau.

Mật độ gieo cấy: Cấy dầy và tăng mật độ gieo sạ cũng làm tăng tác hại của rầy nâu. Nguyên nhân là do khi tăng mật độ cấy hoặc sạ đã tạo nên điều kiện tiểu khí hậu trong ruộng lúa thích hợp với rầy nâu (Kisimoto, 1965).

Phân bón: Các tác giả đều thống nhất bón nhiều phân, đặc biệt là phân đạm sẽ làm tăng sự gây hại của sâu hại trong đó có rầy nâu (Nickel, 1973). Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy: bón nhiều phân đạm sẽ làm mật độ rầy nâu tăng lên, bởi lẽ khi bón nhiều phân đạm đã làm cây lúa chống chịu với rầy nâu kém hơn và làm tăng sức sống, cũng như khả năng đẻ trứng của rầy nâu (Cheng, 1971).

Thiên địch: Quan hệ tương tác giữa rầy nâu và kẻ thù tự nhiên (bắt mồi, ký sinh...) dường như là nhân tố chính điều khiển quần thể rầy nâu, nhất là ở các nước nhiệt đới (Visarto, 2005).

2. Đặc điểm sinh học rầy nâu Nilaparvata lugens Stal

Có rất nhiều các tác giả và tài liệu công bố về đặc điểm sinh học của rầy nầu. Tuy nhiên người có nhiều công trình liên quan hơn cả phải kế đến là cố PGS.TS Nguyễn Công Thuật (1978). Khi theo dõi đặc điểm sinh học của rầy nâu Ông cho biết: tại Long An, nhiệt độ nuôi từ 25-27oC thì thời gian phát dục của rầy nâu như sau: trứng từ 6-8 ngày, rầy non từ 12-15 ngày, rầy trưởng thành sống trung bình là 19,2 ngày (cái) và 8 ngày (đực). Rầy non có 5 tuổi, thời gian các tuổi kéo dài từ 2-6 ngày. Vòng đời của rầy từ trưởng thành lứa trước đến trưởng thành lứa sau khoảng 26-31 ngày. Tại Hà Nội thời gian phát triển các pha của rầy nâu nuôi trong điều kiện nhiệt độ từ 24,5-29,3oC thời gian trứng là 6,6-7,4 ngày, rầy non 13,4-15,7 ngày, rầy trưởng thành sống 12,2-14,7 ngày. Vòng đời từ 26-31 ngày. Tháng 11, khi nhiệt độ thấp 22,3oC, vòng đời rầy từ 35-40 ngày. Trong tháng 2- 3, với nhiệt độ thấp (17-20,2oC) vòng đời kéo dài tới 50-55 ngày.

Theo Nguyễn Đức Khiêm (1995) thời gian phát dục của rầy nâu trong vụ mùa nhiệt độ từ 25-29oC thì thời gian trứng khoảng 6,5 ngày, rầy non khoảng 13,5-16 ngày, trưởng thành 6-9 ngày, trước đẻ trứng 2,5-3 ngày, vòng đời 26-30 ngày. Số trứng trên mỗi ổ ít nhiều phụ thuộc vào giống lúa làm thức ăn cho rầy . Trên giống nhiễm rầy số trứng/ổ cao gấp 2 lần so với giống kháng rầy. Bên cạnh đó, khả năng đẻ trứng còn phụ thuộc vào mùa vụ, trong một năm thì vụ xuân rầy đẻ trứng nhiều hơn vụ mùa, vụ xuân đẻ 255 trứng nhưng vụ mùa chỉ đẻ 164 trứng (thấp hơn 1,37 lần so với vụ xuân). Tại Tiền Giang, năm 1977-1978 cho thấy ổ trứng rầy nâu có ít nhất là 1 trứng và nhiều nhất là 43 trứng, thường là 2-5 trứng/ổ (Phạm Văn Lầm, 1992). Trứng có dạng “quả chuối tiêu” mới đẻ trong suốt, gần nở chuyển màu vàng và có hai điểm mắt đỏ. Rầy đẻ thành từng ổ từ 5 - 12 trứng nằm sát nhau theo kiểu “úp thìa”, đầu nhỏ quay vào trong, đầu to quay ra ngoài biểu bì ngoài của bẹ lá.  Trứng mới đẻ nằm chìm trong mô biểu bì,  trứng sắp nở chồi đầu trứng ra ngoài biểu bì bẹ lá. Trứng được đẻ ở bẹ lá là chính (lúa non) và ở gân chính của lá lúa (lúa già) (Viện BVTV, 2006).

Trong điều kiện Việt Nam, các kết quả theo dõi về khả năng đẻ trứng của rầy nâu không giống nhau. Tại phòng thí nghiệm Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam, một con rầy nâu cái trưởng thành của rầy nâu đẻ trung bình 150-400 trứng. Nuôi thí nghiệm ở Long An, mỗi con rầy nâu cái trưởng thành cái đẻ 50 – 200 trứng, nhiều nhất đẻ tới 612 trứng. Trong điều kiện vùng Hà Nội, một con rầy nâu cái trưởng thành có khả năng đẻ 110-324 trứng, nhiều nhất tới 670 trứng (Viện BVTV, 1980). Trong điều kiện ở nước ta, rầy nâu cái trưởng thành có thời gian đẻ trứng kéo dài tử 1-27 ngày, thường phổ biến là 6-7 ngày (Viện BVTV, 1980).

(Nguồn ảnh: baovecaytrong.com)

Tỷ lệ rầy cánh ngắn và cánh dài phụ thuộc vào nguồn thức ăn và mật độ trong ruộng lúa. Ở giai đoạn lúa đẻ nhánh và chín, chủ yếu rầy cánh dài xâm nhập vào ruộng lúa (Nguyễn Đức Khiêm, 1995). Thời gian sống của rầy nâu trưởng thành cũng phụ thuộc vào nhiệt độ. Ở điều kiện nhiệt độ cao thời gian sống của rầy trưởng thành ngắn hơn và ngược lại ở điều kiện nhiệt độ thấp thì thời gian sống của rầy trưởng thành cũng dài hơn (Trần Huy Thọ và Nguyễn Công Thuật, 1989).

3. Phòng trừ rầy nâu Nilaparvata lugens Stal

 Dự tính dự báo: Thực hiện dự tính dự báo là cơ sở quan trọng trong công tác phòng chống sâu bệnh hại cây trồng. Dự tính dự báo bằng bẫy đèn, điều tra trực tiếp ngoài đồng ruộng, dự báo sớm sự phát sinh và tỷ lệ rầy nhiễm bệnh là những nội dung quan trọng của qui trình phòng trừ  tổng hợp rầy nâu và bệnh vi rút hại lúa (Viện BVTV, 2006).

Phòng chống rầy nâu bằng biện pháp sử dụng giống chống chịu: đây một nội dung cơ bản trong phòng trừ tổng hợp.  Sử dụng giống lúa kháng rầy là biện pháp rẻ tiền, hiệu quả, dễ thực hiện trên diện rộng để hạn chế tác hại của rầy nâu. Các giống lúa kháng rầy nâu như Mudgo (gen Bph1), ADS7, IR36 (gen bph2), CR 203, C 70, C180… làm cho rầy sinh trưởng kém, thời gian phát dục kéo dài, tỷ lệ tử vong cao. Từ đó dẫn đến sự phát triển quần thể của rầy nâu kém hơn rất nhiều lần so với khi chúng phát triển trên các giống nhiễm như giống lúa TN1, IR8, IR22.

Giống lúa CR203, C70, C71,.CR 84-1 kháng rầy nâu đã được triển khai rộng trên cả nước. Chính vì vậy các trận dịch rầy nâu đã được dập tắt, sản lượng lúa tăng, chi phí cho bảo vệ thực vật giảm đáng kể (Viện BVTV, 2006).

Các giống lúa khác nhau có khả năng phản ứng với rầy nâu cũng khác nhau:

+ Ở miền Bắc đã xác định được 332 giống và dòng lai có tính kháng rầy nâu trong số 905 giống và dòng lai được đánh giá (Nguyễn Đức Khiêm, 1995).

+ Khu vực phía Nam đã xác định được 78 giống và dòng lai có tính kháng với rầy nâu trong 1134 giống và dòng lai được đánh giá (Nguyễn Đức Khiêm, 1995).

Nhiều giống lúa phản ứng kháng với rầy nâu ở miền Bắc nhưng lại nhiễm với rầy nâu ở đồng bằng sông Cửu long, tuy nhiên chưa thấy giống nào ở đồng bằng sông Cửu long lại nhiễm rầy nâu ở khu vực phía Bắc (Nguyễn Đức Khiêm, 1995).

Phòng chống rầy nâu bằng biện pháp sinh học: Có thể nói, cho đến nay, biện pháp sinh học được nhắc đến như một biện pháp không thể thiếu trong biện pháp bảo vệ cây trồng. Tuy nhiên, trên cây lúa, biện pháp này vẫn chủ yếu là bảo vệ các thiên địch trong tự nhiên thông qua việc thực hiện các biện pháp phòng trừ và canh tác làm giảm việc ảnh hưởng đến suy giảm quần thể của thiên địch trong tự nhiên (Viện BVTV, 2006).

Các kết quả nghiên cứu về thành phần và diễn biến số lượng quần thể thiên địch của rầy nâu cho tới nay cũng khá nhiều như: Phạm Văn Lầm (1992), tác giả đã phát hiện được 56 loài côn trùng, nhện, nấm và tuyến trùng là thiên địch của rầy nâu ở các tỉnh Hà Nội, Hà Tây, Thái Bình và Tiền Giang. Như vậy thành phần thiên địch của rầy nâu trên ruộng lúa của nước ta không nghèo nàn như một vài ý kiến đánh giá. Các thiên địch của rầy nâu thuộc một số bộ của lớp côn trùng, lớp nhện, lớp nấm bất toàn và tuyến trùng. Các loài thiên địch thu được nhiều nhất thuộc bộ nhện lớn (17 loài chiếm 30,3%) bộ cánh cứng (15 loài chiếm 26,8%) bộ cánh màng (13 loài chiếm 23,2%).

Có 18 loài thiên địch của rầy nâu bắt gặp thường xuyên với số lượng tương đối cao, 6 loài ký sinh trứng rầy nâu, 8 loài ký sinh rầy non và trưởng thành, 2 loài ký sinh bậc 2, 5 loài thuộc 3 giống họ ong kiến ngoại ký sinh rầy non và rầy trưởng thành (Phạm Văn Lầm, 1992). Trong số các loài ăn thịt thường gặp nhất là nhện bắt mồi. Trong đó, loài có số lượng lớn hơn cả là loài Lycoza pseudoannulata, phổ biến ở hầu hết các nơi trên ruộng lúa, chúng có mặt từ đầu vụ đến cuối vụ lúa, chúng thích sống ở nơi ẩm ướt. Nhện này có khă năng ăn mồi lớn: 6-7 rầy non và 3-4 rầy trưởng thành/ngày  4-5 rầy trưởng thành hoặc 7-8 rầy non/ngày (Nguyễn Công Thuật, 1989).

Các loài ăn thịt như bọ rùa đỏ, bọ ba khoang, bọ cánh ngắn, bọ xít mù xanh, bọ xít nước... chúng xuất hiện, phát sinh, phát triển theo sự xuất hiện và gia tăng của rầy nâu trên ruộng lúa. Chúng có thể ăn trứng, ăn rầy non và thường đạt đỉnh cao vào đỉnh cao của rầy nâu hoặc trứng (Nguyễn Công  Thuật, 1989). Các loài ăn thịt chủ yếu thuộc Miridae và Coccinellidae (Nguyễn Văn Huỳnh, 1980).

Ký sinh trứng phổ biến thuộc 2 họ Mymaridae và Trichogrammatidae. Vai trò của chúng đã được tác giả Hà Quang Hùng (1984) nghiên cứu kỹ. Vai trò ký sinh của ong Oligosita và Gonatocerus trên trứng rầy nâu được Phạm Văn Lầm và cộng sự, nghiên cứu trong nhiều năm cho biết: ong Anagrus sp. ký sinh trứng rầy nâu từ tháng 4-11 (vùng Hà Nội), tháng 7-12 (Long An). Tỷ lệ trứng bị ong này ký sinh từ 15-25%, có trường hợp 95% ở cuối vụ hè thu tháng 8 năm 1980.

Phòng chống rầy nâu bằng biện pháp hoá học: Biện pháp hoá học vẫn cần thiết trong một tương lai dài. Theo quan niệm của một số nhà khoa học, phương pháp này không nhằm mục tiêu loại bỏ mà là sử dụng hợp lý và có chọn lọc hoá chất bảo vệ thực vật. Tại Việt Nam, hầu hết các công trình nghiên cứu về phòng trừ sâu bệnh hại lúa đều quan tâm đến biện pháp sử dụng thuốc hóa học hợp lý, cụ thể để diệt rầy nâu có thể dùng thuốc Bassa 50EC, Trebon 10EC, Applaud 15 WP, Regent 800 WG, Admire 50EC phun khi rầy tuổi 1 - 2 rộ.

Xử lý hạt giống: Cruiser Plus 312.5FS (50ml/100 kg hạt giống) và Gaucho 600 FS (40ml/100 kg hạt giống) không ảnh hưởng đến tỷ lệ nẩy mầm và tốc độ nảy mầm của hạt, không ảnh hưởng xấu đến sinh trưởng và phát triển của cây lúa sau khi gieo cấy. Thuốc Cruiser có hiệu quả trừ rầy trưởng thành xâm nhập vào ruộng từ 72-82% sau mọc 3-5 ngày tuổi, từ  40-60% cây lúa 7-10 ngày tuổi (Ngô Vĩnh Viễn 2007). 

Cũng theo tác giả Ngô Vĩnh Viễn (2007) thì thuốc nhóm Neonicotinoid có hoạt chất Dinotefuran (trong đó có Oshin 20 WP), Clothianidin (trong đó có Dantosu 16 WSG), Thiamethoxan (trong đó có Actara 25WG) có hiệu quả trừ rầy non và rầy trưởng thành và có thể bảo vệ lúa non trong 5 ngày sau phun. Những loại thuốc này có thể khuyến cáo sử dụng trừ rầy nâu véc tơ truyền bệnh vàng lùn, lùn xoăn lá cho lúa từ khi mọc cho đến 30 ngày tuổi.

Tài liệu tham khảo

Nguyễn Bảo Toàn - 10SH

Từ khóa » Sinh Trưởng Của Rầy Nâu