Đề Văn 6: Cảm Nhận Bài Thơ Lượm Của Nhà Thơ Tố Hữu

[toc:ul]

Bài mẫu 1: Cảm nhận bài thơ Lượm của nhà thơ Tố Hữu.

Đề văn 6: Cảm nhận bài thơ Lượm của nhà thơ Tố Hữu.

Dàn ý

1. Mở bài

  • Giới thiệu khái quát về tác giả Tố Hữu
  • Giới thiệu về bài thơ “Lượm” (hoàn cảnh sáng tác, khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật,…)

2. Thân bài

  • Cuộc gặp gỡ tình cờ giữa hai chú cháu
    • Hoàn cảnh gặp gỡ
    • Hình ảnh Lượm trong lần gặp gỡ đầu tiên
  • Sự hy sinh anh dũng của Lượm trên đường làm nhiệm vụ
    • Tình thế vô cùng khó khăn, nguy hiểm
    • Hình ảnh cậu bé dũng cảm, nhanh nhẹn, hăng hái làm nhiệm vụ, không sợ khó khăn, nguy hiểm.
    • Dù hồn đã lìa khỏi xác nhưng vẫn hòa quyện vào đồng lúa quê hương - hình ảnh miêu tả vừa hiện thực vừa lãng mạn
  • Hình ảnh Lượm sống mãi cùng đất nước
  • Hai khổ thơ miêu tả hình ảnh chú bé đưa thư nhí nhảnh, tinh nghịch ở đầu bài thơ được lặp lại một lần nữa

3. Kết bài

  • Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ

Bài làm

Nhà thơ Tố Hữu sáng tác bài Lượm vào năm 1949, in trong tập thơ Việt Bắc. Bài thơ đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc hình ảnh Lượm, một em bé thiếu nhi hy sinh vì nhiệm vụ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Lượm là bài thơ tự sự - trữ tình kể về cuộc đời ngắn ngủi nhưng rất anh dũng của chú bé liên lạc, hồn nhiên, nhí nhảnh, yêu đời, dũng cảm đã ngã xuống để bảo vệ sự bình yên cho chính mảnh đất quê hương mình. Hình ảnh nhân vật Lượm xuyên suốt trong bài thơ.

Trong năm khổ thơ đầu, bằng cái nhìn trìu mến thân thương, tác giả đã miêu tả một chú bé rất đáng yêu:

Chú bé loắt choắtCái xắc xinh xinhCái chân thoăn thoắtCái đầu nghênh nghênh.Ca nô đội lệchMồm huýt sáo vangcon chim chíchNhảy trên đường vàng...

Nhắc đến Lượm, người đọc nhớ đến hai khổ thơ này, bởi đây là hai khổ thơ đầy ấn tượng về một chú bé liên lạc nhỏ nhắn, xinh xinh, nhanh nhẹn hồn nhiên, nhí nhảnh vui tươi. Những từ láy loát choắt, xinh xinh, thoăn thoát, nghênh nghềnh được dùng rất gợi hình gợi cảm, cùng với thể thơ bốn chữ và nhịp thơ nhanh, tạo âm hưởng vui tươi, nhí nhảnh rất phù hợp với một chú bé như Lượm. Một hình ảnh so sánh đẹp như con chim chích - nhảy trên đường vàng... gợi lên trước mắt chúng ta một chú bé hồn nhiên yêu đời. Thật thú vị! Nhà thơ Lê Đức Thọ cũng có bài thơ Em bé liên lạc, ông cũng hình dung em như một con chim non vui tươi ở những câu kết:

Ngày mai trên quãng đường trắngCó em bé lại dẫn đường bên anh.Miệng cười chân bước nhanh nhanh,Như con chim nhỏ trên cành vui tươi.

Có lẽ không còn hình ảnh nào có thể thay thế cho được hình ảnh con chim nhỏ và chỉ có hình ảnh này mới thể hiện được vẻ đẹp trẻ thơ của chú bé liên lạc. Bao trùm lên tất cả là cái tình của nhà thơ, cái nhìn trìu mến, thân thương của tác giả đối với chú bé. Phải yêu quý Lượm lắm thì mới miêu tả Lượm hay đến như vậy!

Người đọc yêu biết bao cái cười híp mí, má đỏ bồ quân của chú, nhưng càng yêu hơn niềm vui được tham gia kháng chiến của chú bé:

Cháu đi liên lạcVui lắm chú àỞ đồn Mang CáThích hơn ở nhà!

Nhà thơ miêu tả Lượm vui như con chim sổ lồng. Cái ý đi làm liên lạc thích hơn ở nhà, đúng là niềm vui của con chim sổ lồng. Đó là niềm vui chung của cả thế hệ trẻ sau Cách mạng tháng Tám, chứ không riêng gì của chú bé Lượm

Đáng yêu hơn là tiếng chào: Thôi chào đồng chí vừa tinh nghịch dí dỏm, lại vừa đứng đắn nghiêm trang, bởi em đã tham gia kháng chiến như mọi người, như chú của em vậy. Trong tiếng chào ấy ta thấy vang lên một niềm tự hào kiêu hãnh rất trẻ con, và rất đáng yêu của Lượm.

Ấn tượng của cuộc gặp gỡ vẫn còn giữ nguyên vẹn nét đẹp đẽ, vui tươi, ấm áp trong lòng tác giả, thì bỗng nhiên có tin Lượm hy sinh. Câu thơ bốn tiếng được ngắt làm hai dòng, bị gãy đôi như một tiếng nấc:

Ra thếLượm ơi!

Đó là nỗi sửng sốt, xúc động đến nghẹn ngào. Và nhà thơ hình dung ngay ra cảnh tượng chú bé hy sinh trong khi đang làm nhiệm vụ:

Một hôm nào đóNhư bao hôm nàoChú đồng chí nhỏBỏ thư vào baoVụt qua mặt trậnĐạn bay vèo vèoThư để "thượng khẩn"Sợ chi hiểm nghèo?

Để rồi lại nghẹn ngào gọi em một lần nữa:

Bỗng lòe chớp đỏThôi rồi Lượm ơi!Chú đồng chí nhỏMột dòng máu tươi!

Lượm đã hy sinh anh dũng như một chiến sĩ thực thụ, ở trên nhà thơ còn gọi em bằng cháu, và ở đây khi kể lại cảnh Lượm hy sinh. Tố Hữu đã gọi chú bằng những lời xưng hô trang trọng: Chú đồng chí nhỏ và có tới hai lần gọi như thế. Việc làm của em, sự hy sinh cao đẹp của em khiến em xứng đáng được nhà thơ gọi như thế. Phải chăng đó là lòng cảm phục của một cán bộ cách mạng đối với một em thiếu nhi anh hùng.

Nhưng rồi cuối cùng, tình cảm công dân ấy lại quay về tình chú - cháu. Nhà thơ lại gọi Lượm bằng tiếng cháu thân thương khi miêu tả cái chết đẹp đẽ cua em giữa đồng lúa quê hương:

Cháu nằm trên lúaTay nắm chặt bôngLúa thơm mùi sữaHồn bay giữa đồng...

Cánh đồng quê hương như vòng nôi, như vòng tay của mẹ, ấm êm dịu dàng đón em vào lòng. Em chết mà tay vẫn nắm chặt bông lúa, quê hương và hương lúa vẫn bao bọc quanh em như ru em vào giấc ngủ đẹp của tuổi thơ anh hùng. Em chết mà hồn bay giữa đồng, vừa thiêng liêng vừa gần gũi biết bao! Không yêu mến, xót thương, cảm phục Lượm thì không thể miêu tả một cái chết hồn nhiên và lãng mạn đến như thế! Đó là cái chết của những thiên thần nhỏ bé. Thiên thần nhỏ bé ấy đã bay đi để lại bao tiếc thương cho chúng ta, như Tố Hữu đã nghẹn ngào, đau xót gọi em lần thứ ba bằng một câu thơ day dứt: Lượm ơi còn không?

Câu thơ đứng riêng thành một khổ thơ, như một câu hỏi xoáy sâu vào lòng người đọc. Nếu không có cái tình với Lượm thì nhà thơ làm sao lại day dứt thế được!

Câu hỏi ngân vang ấy, tưởng chừng như không có câu trả lời, nhưng chính tác giả đã trả lời bằng hai khổ thơ cuối khép lại bài thơ:

Chú bé loắt choắtCái xắc xinh xinhCái chân thoăn thoắtCái đầu nghênh nghênhCa lô đội lệchMồm huýt sáo vangNhư con chim chíchNhảy trên đường vàng.

Hai khổ thơ cuối láy lại khổ thơ thứ hai và khổ thơ thứ ba như một điệp khúc để khẳng định Lượm vẫn còn sống mãi với quê hương đất nước, sống mãi trong lòng tác giả. Bài thơ hết nhưng ý thơ lại mở ra vẫn còn tiếp nối mãi trong lòng người đọc hình ảnh một chú bé liên lạc hồn nhiên mà dũng cảm, đáng yêu và đáng cảm phục. Lượm vẫn còn sống mãi trong lòng chúng ta như bài ca bất diệt về tuổi thơ trong sáng đã hiến dâng đời mình cho độc lập, tự do của dân tộc.

Với thể thơ bốn chữ, một thể thơ dân gian truyền thống phù hợp với lối kể chuyện có nhịp kể nhanh. Với cách ngắt đôi câu thơ đột ngột, và nghệ thuật tách câu thơ thành một khổ thơ riêng rất độc đáo, kết hợp với cách sử dụng câu hỏi tu từ, câu cảm thán... Lượm thật sự là một bài thơ hay, cảm động về một tấm gương bé bỏng hy sinh trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Bài mẫu 2: Cảm nhận bài thơ Lượm của nhà thơ Tố Hữu.

Đề văn 6: Cảm nhận bài thơ Lượm của nhà thơ Tố Hữu.

Bài làm

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, thiếu nhi Việt Nam hăng hái làm theo lời dạy của Bác Hồ:

Tuổi nhỏ làm việc nhỏ,Tùy theo sức của mình.

Nhiều bạn đã hi sinh tuổi thơ trong sáng cho sự nghiệp đấu tranh bảo vệ chủ quyền độc lập, tự do của dân tộc. Hình ảnh chú bé liên lạc hồn nhiên, dũng cảm trong bài thơ Lượm của Tố Hữu đã để lại trong em niềm cảm phục sâu sắc.

Lượm theo bộ đội làm liên lạc hồi đầu kháng chiến (cuối năm 1946). Lúc này, Pháp chưa đánh rộng ra. Quân ta đóng ở đồn Mang Cá một cứ điểm quan trọng của Huế. Trong một trận tấn công vào đồn giặc, Lượm hi sinh. Tác giả biết tin, vô cùng xúc động và đã sáng tác nên bài thơ này (1949).

Bằng cách kết hợp miêu tả với kể chuyện và biểu hiện cảm xúc, nhà thơ đã khắc họa sinh động hình ảnh chú bé Lượm hồn nhiên, vui tươi, hăng hái và dũng cảm.

Thể thơ bốn chữ cùng với nhiều từ láy có giá trị gợi hình và giàu âm điệu đã góp phần tạo nên thành công trong nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật.

Mở đầu bài thơ, tác giả dựng lại khung cảnh buổi gặp gỡ đáng nhớ giữa hai chú cháu:

Ngày Huế đổ máuChú Hà Nội vềTình cờ chú cháuGặp nhau Hàng Bè.

Cuộc gặp gỡ đáng nhớ bởi nó diễn ra trong thời gian, không gian đặc biệt: Ngày Huế đổ máu. Huế đổ máu, Huế chiến đấu ác liệt để ngăn chặn bàn chân xâm lược của giặc Pháp vì chúng muốn chiếm lại nước ta. Ngày ấy là ngày mọi người không thể nào quên. Hoàn cảnh điển hình đó càng tô đậm thêm tính cách của nhân vật Lượm.

Trang phục của Lượm giống như trang phục của các chiến sĩ Vệ quốc bởi Lượm cũng là một chiến sĩ thực sự. Nhưng Lượm còn rất bé nên cái xắc đeo bên mình cùng chỉ xinh xinh. Chiếc mũ ca lô đội lệch bộc lộ vẻ tinh nghịch và hiếu động.

Lượm được nhà thơ miêu tả với tấm lòng yêu mến chân thành:

Chú bé loắt choắtCái xắc xinh xinhCái chân thoăn thoắtCái đầu nghênh nghênhCa lô đội lệchMồm huýt sáo vangNhư con chim chíchNhảy trên đường vàng...

Dáng Lượm loắt choắt, đã nhỏ lại gầy nhưng nhanh nhẹn và tinh nghịch. Chân thì thoăn thoắt, rất nhanh và rất nhẹ. Đầu nghênh nghênh, lúc nghiêng bên này, lúc nghiêng bên kia. Nhịp thơ nhanh gợi lên hình ảnh chú bé vui tươi, nhí nhảnh, yêu đời.

Đặc điểm bên ngoài phần nào đã thể hiện tính cách bên trong của Lượm. Ca lô không chịu đội thẳng mà đội lệch. Miệng luôn huýt sáo vang. Lượm chẳng khác nào như con chim chích bé nhỏ nhảy trên đường vàng.

Lượm hồn nhiên kể chuyện:

Cháu đi liên lạcVui lắm chú àỞ đồn Mang CáThích hơn ở nhà

Bấy giờ, cái gian khổ của kháng chiến trường kì chưa tới. Mọi người đang sống trong không khí phấn khởi hào hứng của độc lập, tự do sau Cách mạng tháng Tám. Cái vui của Lượm bắt đầu từ niềm vui của đất nước, của dân tộc. Lượm vui trong lòng, vui ngoài nét mặt, dáng điệu, cử chỉ, lời nói. Tưởng chừng cái xắc cũng vui lây, cũng nhún nhảy theo nhịp chân của chú bé. Đeo xắc là dấu hiệu của người làm cán bộ. Lượm thấy oai lắm, ra vẻ lắm nên tỏ ra rất tự hào.

Giống như các bạn cùng lứa tuổi, Lượm rất hiếu động. Đặc điểm này đã được hướng vào những công việc có ích cho kháng chiến. Hình ảnh Lượm lúc chia tay tác giả thật đẹp và đầy sức sống:

Cháu cười híp míMá đỏ bồ quân

Cả câu: Thôi chào đồng chí! cũng mang dấu ấn của niềm vui. Lượm chào chú bằng đồng chí, rất tinh nghịch, dí dỏm, mà cùng rất nghiêm túc, bởi Lượm đã tham gia kháng chiến.

Đoạn thơ dùng thể thơ bốn chữ, nhịp nhanh, cùng nhiều từ láy (loắt choắt, thoăn thoát, nghênh nghênh) góp phần thể hiện hình ảnh Lượm - một em bé liên lạc hồn nhiên, vui tươi) say mê tham gia công tác kháng chiến thật đáng mến, đáng yêu.

Câu chuyện của Lượm trong chuyến đi liên lạc cuối cùng được kể qua lời của người kể với những cảm xúc đau xót, tiếc thương, tự hào được biểu hiện trực tiếp và qua cả cách nhìn, cách miêu tả.

Khi nghe tin Lượm hi sinh, tác giả đau đớn thốt lên: Ra thế Lượm ơi!...

Kỉ niệm về cuộc gặp gỡ với chú bé liên lạc còn tươi nguyên trong lòng nhà thơ thì bỗng dưng có tin chẳng lành. Câu thơ bình thường bỗng nhiên bị ngắt làm đôi. Ám hiệu ngập ngừng và dấu chấm than thể hiện tâm trạng ngạc nhiên và xúc động đến bàng hoàng.

Tác giả hình dung ra tình huống hi sinh của Lượm thật cụ thể. Cũng như bao lần đi làm nhiệm vụ, Lượm dũng cảm, nhanh nhẹn, hăng hái và đầy quyết tâm, không nề nguy hiểm:

Một hôm nào đóNhư bao hôm nàoChú đồng chí nhỏBỏ thư vào baoVụt qua mặt trậnĐạn bay vèo vèoThư đề thượng khẩnSợ chi hiểm nghèo

Chiến trường đầy khói lửa nhưng Lượm vẫn xông pha làm nhiệm vụ. Bỗng lòe chớp đỏ, Thôi rồi Lượm ơi! Kể lại, hình dung lại sự việc mà tưởng chừng như tác giả đang tận mắt chứng kiến cái giây phút đau đớn ấy nên không kiềm chế được, tự đáy lòng bật thốt lên tiếng kêu đau đớn. Câu thơ như tiếng nấc nghẹn ngào đầy xót thương và cảm phục của tác giả của chúng ta trước cái chết bất ngờ của người chiến sĩ nhỏ. Chú bé đã hi sinh anh dũng giữa tuổi thiếu niên hồn nhiên, tươi trẻ đầy hứa hẹn. Nhà thơ không dừng lâu ở nỗi đau xót mà ông cảm nhận rằng sự hi sinh của Lượm rất đỗi thiêng liêng, cao cả. Chú như một thiên thần bé nhỏ yên nghỉ trên cánh đồng quê hương. Lượm đã hóa thân vào đất mẹ:

Cháu nằm trên lúaTay nắm chặt bôngLúa thơm mùi sữaHồn bay giữa đồng...

Bao quanh Lượm là sự sống mơn mởn đang lên. Hương lúa thơm như mùi sữa mẹ. Sự hi sinh của Lượm vô cùng nhẹ nhàng, thanh thản. Câu thơ: Hồn bay giữa đồng khẳng định tinh thần bất tử của Lượm. Lượm đã chết cho quê hương xứ sở.

Câu thơ Lượm ơi, còn không? là một câu hỏi tu từ được tách ra thành một khổ thơ riêng có tác dụng nhấn mạnh, đặc tả nỗi đau đớn xót xa và niềm bâng khuâng, nhớ tiếc khôn nguôi của tác giả.

Hai khổ thơ cuối lặp lại như một điệp khúc khắc sâu hình ảnh đẹp đẽ của Lượm trong tâm hồn mọi người:

Chú bé loắt choắtCái xắc xinh xinhCái chân thoăn thoắtCái đầu nghênh nghênhCa lô đội lệchMồm huýt sáo vangNhư con chim chíchNhảy trên đường vàng...

Lượm là bài thơ hay trong số những bài viết về tuổi nhỏ Việt Nam hồn nhiên, dũng cảm. Em thấy Lượm rất xứng đáng với những gương sáng của thanh thiếu niên thế hệ trước như Lí Tự Trọng, Kim Đồng; xứng đáng là đàn anh của những anh hùng dũng sĩ thiếu niên như Nguyễn Bá Ngọc, Kpa Klơng, Nguyễn Văn Hòa... thời đánh Mĩ.

Bài mẫu 3: Cảm nhận bài thơ Lượm của nhà thơ Tố Hữu.

Đề văn 6: Cảm nhận bài thơ Lượm của nhà thơ Tố Hữu.

Bài làm

Lượm là bài thơ rất tiêu biểu cho thơ Tố Hữu trên nhiều phương diện, về mặt hình tượng, Lượm là một nhân vật nằm trong hệ thống những nhân vật trở đi trở lại nhiều lần trong các tác phẩm của ông, nhất là trong tập thơ Việt Bắc: những bà mẹ, người chị, anh bộ đội, đứa em,... nghĩa là hình ảnh một cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện. Giọng kể, cách kể trung thực và sinh động trong một bài thơ bốn chữ với tiết tấu nhanh thích hợp với nhân vật được kể. Bố cục của bài thơ rõ ràng, mạch lạc: cuộc gặp gỡ tình cờ giữa nhà thơ và nhân vật, chuyến đi liên lạc cuối cùng, sự hi sinh dũng cảm của em, kết thúc là những cảm nghĩ của nhà thơ về "con người không chết" ấy.

Hình tượng nhân vật Lượm, trong năm khổ thơ đầu nếu chuyển từ thơ ca sang kí hoạ miêu tả chân dung, ta thấy đó là một người có thật, từ trang phục đến dáng đi, cử chỉ, lời nói. Nhưng giá trị của bức tranh không chỉ dừng lại ở những nét vẽ ngoại hình. Hoặc nói khác đi, từ những đường nét có thật của ngoại hình, vẻ đẹp bên trong của em được bộc lộ. Đó mới là điều tạo nên ấn tượng sâu sắc với nhà thơ:

Chú bé loắt choắtCái xắc xinh xinhCái chân thoăn thoắtCái đầu nghênh nghênh

Giọng thơ dĩ nhiên là theo lời kể, một cách kể nhịp nhàng, về trang phục và dáng đi, cả nét người, khuôn mặt. Những từ "cái" đặt ở đầu câu tạo nên một cấu trúc hệ thống, vừa lặp lại vừa rất đáng ngạc nhiên hay là cảm giác ngạc nhiên trong sự lặp lại. Thích hợp với hệ thống ấy, là một loạt những tính từ, động từ chỉ vật (đồ vật) và chỉ người hoàn toàn bằng từ láy. Có những từ láy gần âm và gần nghĩa (giữa "thoăn thoắt" và "loắt choắt") bổ sung cho nhau tạo ấn tượng về sự nhỏ bé và nhanh nhẹn, nhưng cũng có những từ láy mà cả âm và nghĩa đều khác xa nhau: "xinh xinh" với "nghênh nghênh" chẳng hạn: "xinh xinh" là vẻ đẹp tươi tắn, hồn nhiên (hoà hợp giữa trang phục với dáng người thấp nhỏ), còn "nghênh nghênh" tạo dáng một trẻ em mới lớn cả sức vóc và ý chí, mong muốn sớm tự khẳng định mình. Tính đồng bộ về sự ăn nhập ngoại hình phải đến câu tiếp theo "Ca lô đội lệch", và chỉ chờ có thế là một niềm vui oà ra, cất cánh:

Mồm huýt sáo vangNhư con chim chíchNhảy trên đường vàng

So sánh đã thay dần cho tả thực, một tính cách đã định hình. Nhà thơ không chỉ quan sát, nhìn ra mà là cảm thấy. Con đường mà em Lượm đang đi cứ lớn rộng dần ra, và là con đường rất đẹp (đường vàng). Hình ảnh con đường mang nhiều lớp nghĩa vừa chỉ hướng đi, vừa chỉ hướng dời. Đặt chân vào con đường ấy (con đường kháng chiến của toàn dân), em như bước vào ngày hội ("Mồm huýt sáo vang"). Nhịp thơ không chỉ thể hiện bước đi nhanh và ngắn như ở khổ hai mà dài hơn, xa hơn và thay cho "đi" là "nhảy". Những điệp từ và từ láy không còn cũng vì lí do ấy. Sự lớn lên trong tâm hồn, trong tư tưởng ở em giống như một bước nhảy vọt trong khi về dáng dấp, hình hài vẫn là một đứa trẻ thơ. Chính sự không ăn khớp đến so le này đã tạo cho Lượm một vẻ đẹp riêng, vượt qua cái khác lạ hình thức bên ngoài (ngộ nghĩnh) có tính chất đơn lẻ, cá nhân mà vươn tới một vóc dáng tinh thần khác mang âm vang cái hào hùng có tính chất thời đại, có tính chất toàn dân. Chỉ có điều cái "khác thường" ấy thống nhất với cái bình thường. Đứa trẻ bình thường ấy đã rất hồn nhiên:

Cháu đi liên lạcVui lắm chú àỞ đồn Mang CáThích hơn ở nhà !

Có lẽ niềm vui lớn nhất cần được chia sẻ lúc này là niềm vui của con cá tung tăng được từ suối, ra sông, ra biển. Lượm đã là con của đất nước "con của vạn nhà" chứ không chỉ hạn hẹp là con của một nhà. Thơ không phân tích lí giải mà đơn giản chỉ giãi bày thì đó cũng là một dấu hiệu về sự hồn nhiên, hợp với tuổi nhỏ. Cũng như tâm lí thích làm người lớn, tập làm người lớn là biểu hiện của cái háo hức bên trong không giấu được của mình:

Cháu cười híp míMá đỏ bồ quânThôi chào đồng chí!Cháu đi xa dần...

Một từ "đồng chí" mà náo nức, xôn xao. Đó là ngôn ngữ mà cũng là tiếng reo vang khi người ta có thể giã từ tuổi thơ để bước vào đội ngũ. Một thế giới mới lạ mở ra, cho dù dấu vết của tuổi thơ còn đó (cười híp mí, má đỏ bồ quân). Với nhà thơ, những kỉ niệm ấy làm sao có thể dễ dàng quên, quên đi lớp thiếu niên của nước Việt Nam độc lập, quên đi đứa cháu thật đáng tự hào và cũng rất đáng yêu của mình như thế? Trong hành trang của nhà thơ, hình tượng bé Lượm là một sự cổ vũ lớn, có một vị trí không gì thay thế được.

Giá như Lượm không mất thì chưa chắc Tố Hữu đã có được bài thơ cảm động này. Thì ra, sự ác liệt của chiến tranh đã không loại trừ một ai kể cả những em nhỏ chưa kịp thành người lớn. Lượm tự nguyện bước vào cuộc đời chiến đấu và chấp nhận hi sinh, dũng cảm hi sinh. Hình ảnh ấy đã trở nên một thứ tượng đài bất tử. Đoạn thơ nói về cái chết anh dũng của em bắt dầu từ câu: "Ra thế - Lượm ơi!".

Một câu thơ tưởng như đơn giản vậy thôi mà hội đủ ba tính chất: nhất quán, cao trào và đột biến. Nói nhất quán vì đây là một bài thơ kết hợp hai yếu tố trữ tinh và tự sự. Tự sự là mạch nối, còn mạch chìm là cảm xúc của nhà thơ. Nói cao trào vì đây là những nỗi niềm của nhà thơ dâng lên cực điểm. Còn nói đột biến vì dòng cảm xúc từ yêu thương, phấn khởi đã thành đột ngột, hụt hẫng, đau đớn, rụng rời. Câu thơ tự nó vỡ ra thành hai nhịp, tự nó cắt rời với những khoảng trống xót xa. "Ra thế" thuộc về câu chuyện chú bé hi sinh, còn "Lượm ơi!" là tiếng khóc thầm thì bật lên thành nức nở? "Ra thế" thuộc về khách quan, còn "Lượm ơi!" thuộc về chủ quan, về nỗi đau của trái tim nhà thơ như viên đạn bắn vào. Từ cảm xúc tức thời ấy mà câu chuyện trong cái kênh "tin nhà" kia được kể lại, tất nhiên là trong tưởng tượng mà nhà thơ có thể hình dung:

Một hôm nào đóNhư bao hôm nàoChú đồng chí nhỏBỏ thư vào bao...

Chuyển thư từ, mệnh lệnh là nhiệm vụ hằng ngày của những em bé "liên lạc" như Lượm thì có gì phải kể? Nhưng mà không. Yếu tố tự sự của lời kể bỗng nhiên có ý nghĩa khi nó kết hợp làm một với yếu tố trữ tình, thông qua yếu tố trữ tình. Yếu tố trữ tình ở đây thể hiện trong việc sử dụng một thứ thời gian không xác định "Một hôm nào đó - Như bao hôm nào". Có một cái gì thật mơ hồ, một phần có lẽ vì trong chiến tranh người ta không nhớ được thật cụ thể (ngày, giờ), một phần diễn tả đúng được tính cách vô tư của Lượm. Em có biết đâu đấy là ngày định mệnh của mình. Khổ thơ chuẩn bị cho cái chết của nhân vật ở đoạn sau. Cái chết đang đến gần mà Lượm không biết, nhưng người kể thì đâu có vô tâm. Chính với ý thức ấy mà nhà thơ thay đổi đại từ xưng gọi, những đại từ đơn: cháu, chú bé, Lượm... bằng một đại từ ghép: chú đồng chí nhỏ. Cách gọi tên trang trọng này tương ứng với hành động, với sự kiện hi sinh. Vị trí của người kể chuyện khi thì hoà nhập vào nhân vật được kể, khi thì tách ra với cự li cần có để đảm bảo tính khách quan của việc trần thuật:

Vụt qua mặt trậnĐạn bay vèo vẽoThư đề "Thượng khẩn"Sợ chi hiểm nghèo?

Đối mặt với cái chết mà Lượm không hề nghĩ đến nó mặc dù nó có thể diễn ra bất cứ lúc nào. Vì yêu cầu của nhiệm vụ, Lượm đã vượt lên tất cả, đó là trường hợp tác giả đã hoá thân vào nhân vật cua mình. Còn khổ thơ sau đó, ông trở lại vị trí của người quan sát:

Đường quê vắng vẻLúa trổ đòng đòngCa lô chú béNhấp nhô trên đồng...

Tách nhà thơ ra khỏi nhân vật được kể trong thơ, nhưng thi sĩ đã tạo nên một sự hoà nhập mới giữa nhân vật trẻ thơ của mình với đồng quê, ruộng lúa, những gì thật gần gũi, thân thuộc với trẻ thơ. Chất biểu cảm trữ tình trong thơ tự sự toả ra theo một cách riêng từ phía ấy. Và chính nó làm cho người theo dõi lo lắng đến thắt lòng. Kẻ thù (đồng nghĩa với cái chết) thì tàn bạo, hiểm độc mà chú bé của chúng ta trong trẻo, thơ ngây như một tiên đồng. Cái hồn nhiên thần thánh ở nhân vật là ở chỗ: trước họng súng của kẻ thù, em vẫn không biết giấu mình, cứ lồ lộ, không hề quan tâm đến hiểm hoạ bao vây. Bởi vậy, khi cái chết ập đến, câu thơ như có gì vỡ ra thật đau đớn, nghẹn ngào. Giọng trần thuật không còn ở dạng thông thường. Thay thế cho nó là một tiếng kêu thảng thốt cất lên. Tâm trạng của nhà thơ qua câu: "Thôi rồi, Lượm ơi!" chẳng những như người bước hụt mà còn có gì như bâng khuâng nửa mê nửa tỉnh. Cảm giác không tin là có thật, vì bé Lượm, vì chú tiên đồng làm sao có thể chết?Nhưng sự thực đau xót "Một dòng máu tươi" lại không thể không tin. Chỉ có điều kẻ thù cướp đi mạng sống mà không giết được cái thanh thản, hồn nhiên của một tâm hồn thơm mùi đồng quê gặt hái.

Đoạn thứ ba của bài bắt đầu bằng một câu thơ đặc biệt: "Lượm ơi, còn không?". Đặc biệt vì lẽ thứ nhất: nó tách ra thành một dòng riêng, không ăn nhập với khổ nào. Và lẽ thứ hai: không tự sự, cũng không trữ tình, nó khái quát triết học về lẽ còn mất, trước một cao cả nhân sinh. Để sau đó, hai khổ tiếp theo như một luận chứng tâm hồn: Lượm không bao giờ mất đi trong niềm mến yêu, nhớ tiếc. Lượm vẫn sống trong lòng đồng chí, đồng bào. Cấu trúc trùng điệp (hai khổ kết lặp lại hai khổ đầu của bài thơ) như một âm vang bất tử. Nó vừa là câu hỏi, vừa là những hồi âm. Sự hô ứng trong bài thơ này dễ tạo nên ở người đọc sự tri âm, đồng điệu.

Về nghệ thuật bài thơ, Tố Hữu đã bắc được một cái cầu nối với bạn đọc nhỏ tuổi bằng thể thơ bốn chữ thật trong trẻo, hồn nhiên như bà kể cho cháu, mẹ kể cho con. Cách kể cũng không một chiều, đơn điệu. Tuy vẫn sử dụng cấu trúc đường thẳng, lấy trục thời gian làm điểm tựa nhưng khi trực tiếp (đoạn một), lúc gián tiếp (đoạn hai), kết hợp giữa miêu tả (đoạn một, đoạn hai) với độc thoại (đoạn ba). Tính sinh động của bài thơ còn thể hiện ở sự ngắt nhịp như những nốt lặng trên dòng chảy tâm tình. Những khổ thơ đặc biệt như "Ra thế - Lượm ơi!", hoặc "Lượm ơi, còn không?" là những cơ hội giao tiếp (giữa nhà thơ với bạn đọc, giữa nhà thơ với nhân vật), cũng là cơ hội mà tác giả bộc lộ tâm tình. Một dụng ý không thể không nói là nhà thơ đặt nhân vật anh hùng nhỏ tuổi vào bối cảnh thiên nhiên, một thiên nhiên thuần phác, trẻ trung, ngọt ngào rất quen thuộc. Với Lượm, thiên nhiên ấy như một thứ khí trời, về với nó, cá được về với nước. Sự quấn quýt giữa Lượm với cánh đồng quê phảng phất một tình mẫu tử thân thiết lạ lùng, có một cái gì thật thanh khiết bản năng. Đó là nơi ra đi (đi chiến đấu), cũng là bờ bến trở về (lúc hi sinh):

Cháu nằm trên lúaTay nắm chặt bôngLúa thơm mùi sữaHồn bay giữa đồng...

Thiên nhiên ấy, với đầu óc còn thơ ngây của Lượm, nó chính là quê hương, và rộng hơn: nó là đất nước.

Từ khóa » Câu Thơ Sợ Chi Hiểm Nghèo Thuộc Kiểu Câu Gì