Đền Mẫu Tây Thiên (Tam Đảo, Vĩnh Phúc) - Chốn Thiêng

Tên gọi và vị trí địa lý

Khu di tích danh thắng Tây Thiên, với diện tích khoảng 148ha, tọa lạc tại xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Nằm trên sườn núi Thạch Bàn thuộc dãy Tam Đảo, Tây Thiên kéo dài 11km và rộng 1km, là một quần thể di tích lịch sử – văn hóa và danh lam thắng cảnh. Khu vực này bao gồm hệ thống các đình, chùa có giá trị văn hóa và khảo cổ như đền Thượng, đền Thõng, đền Mẫu, đền Cậu, đền Cô… Tây Thiên không chỉ thu hút du khách đến thưởng ngoạn phong cảnh mà còn là một biểu tượng quan trọng cho đời sống tâm linh và tín ngưỡng tại Việt Nam. Với sự kết hợp giữa vẻ đẹp thiên nhiên và các công trình kiến trúc tôn giáo, Tây Thiên đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc, đồng thời là điểm đến lý tưởng cho những ai muốn tìm hiểu và trải nghiệm văn hóa, tín ngưỡng Việt Nam.

Lịch sử và nhân vật

Theo truyền thuyết dân gian, khu vực Tây Thiên có lịch sử rất xa xưa, từ thời Hùng Vương dựng nước, gắn với các sự kiện và nhân vật về vua Hùng Vương thứ 7 và công lao đánh giặc của Quốc mẫu Tây Thiên Lăng Thị Tiêu, được sắc phong là “Tam Đảo sơn thần, Trụ Quốc mẫu”. Truyền thuyết kể rằng: Vào thời Hùng Vương thứ 7, tộc trưởng họ Lăng tên Vỹ và vợ là Đào Liễu, sống ở Đông Lộ, Tam Dương, Văn Lang, chưa có con. Một ngày, họ lên chùa Tây Thiên cầu tự và bà Đào mộng thấy bảy nàng tiên hiện ra. Sau đó, bà mang thai và sinh con gái với dung mạo tuyệt đẹp. Cô bé lớn lên, thông thạo âm luật, nữ công gia chánh, và có tài phép lạ. Khi đất nước bị giặc ngoại xâm, cô đã kêu gọi 3.000 tướng sĩ giúp vua Hùng đánh giặc. Vua Hùng gia tăng thêm quân lính và sau chiến thắng, cô được phong là Tam Đảo Sơn Trụ Quốc Mẫu Đại Vương. Sau khi đất nước hòa bình, cô trở về Đông Lộ, lập các cung ở Quan Nội, Quan Đình, Nhân Lý, Khuyết Trung, và Tây Thiên. Tại chùa Tây Thiên, cô nhận chiếu chỉ của Thượng đế đòi về trời. Triều đình đã tặng cô danh hiệu “Tam Đảo Sơn Trụ Quốc Mẫu Đại Vương, đệ nhất thượng đẳng phúc thần” và lập miếu cúng tế qua các triều đại.

Điều đáng chú ý bản Ngọc phả thờ Hùng Vương tại đình Đông Lộ (xã Đại Đình) đã đề cập đến sự kiện ông Lăng Vỹ và bà Đào Liễu, thân phụ và thân mẫu của Quốc mẫu Lăng Thị Tiêu, đã cầu tự tại một ngôi chùa trên núi Tam Đảo vào thời Hùng Vương. Điều này cho thấy khả năng Phật giáo đã xuất hiện ở vùng Tam Đảo từ những thế kỷ trước công nguyên. Các tư liệu cổ từ Trung Hoa cũng ủng hộ giả thuyết này. Theo sách “Giao Châu Dị vật chí” của Dương Phù thời Đông Hán, người Giao Châu đã trồng hoa Uất kim hương để cúng Phật, chứng tỏ Phật giáo đã hiện diện ít nhất từ thế kỷ I trở về trước. Sách “Giao Châu ký” của Lưu Hân Kỳ (thế kỷ IV) ghi lại rằng ở đông nam huyện An Định có thành Nê Lê, với tháp và giảng đường do A-Dục vương dựng lên, cho thấy dấu vết Phật giáo từ thời Asoka Đại đế của Ấn Độ (thế kỷ III trước công nguyên). Sử gia Phật học Lê Mạnh Thát cho rằng thành Nê Lê có thể là khu vực Tây Thiên, Tam Đảo, do từ “Nê Lê” có thể phiên âm từ chữ Phạn “nakara” (địa ngục). Tại Tây Thiên có ngôi Địa ngục tự, hiện gọi là chùa Tây Thiên, có thể ám chỉ thành Nê Lê. Điều này gợi ý rằng Tam Đảo là nơi tu hành của các nhà sư Ấn Độ, và tên Tây Thiên ghi nhớ giáo đoàn đầu tiên từ Ấn Độ vào Việt Nam truyền đạo, là nơi phát tích Phật giáo Việt Nam.

Kiến trúc cảnh quan

Đền Thõng

Điểm dừng chân đầu tiên của khách hành hương tại Tây Thiên là đền Thõng, còn được gọi là đền Trình. Đây là “cửa ngõ” dẫn lên khu di tích đền Thượng trên đỉnh núi. Được xây dựng vào năm 1998 trên nền ngôi đền cũ, đền Thõng mang kiến trúc chữ đinh truyền thống, nằm trên nền cao rộng ở chân núi. Mặt trước có hệ thống bậu đá và ba lối lên được phân cách bởi bốn rồng lớn. Nghi môn tứ trụ, được xây dựng lại bằng đá theo kiểu truyền thống, dẫn vào sân đền rộng lớn được lát đá. Ngôi điện chính có mặt bằng hình chữ đinh, với ba gian hai chái lớn và “chuôi vồ” đặt bàn thờ Thánh Mẫu.

Đền Cô, đền Cậu

Tiếp theo, đền Cậu nằm cách đền Thõng hơn 1km, có lịch sử từ một miếu nhỏ được thay thế bằng một căn nhà đơn sơ. Chính điện có tượng ba cậu bé cửa rừng đặt trong khám. Đền khởi nguồn từ khe Trường Sinh, nơi “Cậu” ngự lại chiêu mộ và nuôi quân. Đền được tu sửa vào năm 1993. Đền Cô, cách đền Cậu khoảng 2km, nằm gần thác Bạc bên dòng Giải Oan. Đền thờ Cô Bé, vị con nhà Trời giúp dân cùng Quốc Mẫu. Cảnh sắc nơi đây thanh nhã và yên bình với thảm thực vật phong phú và khí hậu trong lành, mát mẻ quanh năm. Dòng suối Giải Oan và giếng nước cổ tăng thêm vẻ tịch mịch và thanh tĩnh.

Đền Thượng

Khu vực đền Thượng là trung tâm của cả tín ngưỡng dân gian và tôn giáo, với điện thờ Quốc Mẫu Tây Thiên. Đền Thượng nằm ở trung tâm, lưng tựa vào ngọn Thạch Bàn, hai bên là hai tay núi chạy xuống, phía trước rộng thoáng. Kiến trúc đền gồm ba gian, hai chái lớn với hai tầng “chồng diêm” tám góc mái cong. Chính điện thờ tượng Bà ngồi uy nghi, sang trọng. Ngoài ra, khu vực này còn có các công trình mới như miếu Sơn thần, đền Cô Chín, đền Địa Mẫu, đền Tam tòa Thánh Mẫu, Tả/ hữu vu.

Chùa Tây Thiên

Chùa Tây Thiên cũ đã được thay bằng chùa mới, chỉ còn lại tam quan cổ khá đẹp và bức hoành phi ghi tên chùa “Tây Thiên thiền tự”. Tam quan theo dạng tam sơn, kết hợp yếu tố Phật và Nho. Chùa mới cách nền cũ khoảng 20m, có tam quan và toà chính xây bằng vật liệu mới, bài trí tượng tương đồng với chùa dưới đồng bằng. Nhà Tổ mới dựng kiểu nhà sàn, kết hợp truyền thống và hiện đại. Vườn tháp sau chùa có ba tháp còn bia ghi danh các thiền sư. Gần đó là thạch bàn với bàn cờ khắc đá.

Đền thờ thần núi Tam Đảo

Đền thờ thần núi Tam Đảo nằm trên con đường quanh co từ chùa, được vua phong là “Thanh Sơn Đại Vương” vì âm phù cho cuộc cầu đảo thời Trần Nhân Tông. Đền hiện nay nhỏ, kiểu một gian hai chái, hai tầng tám mái, không chuôi vồ.

Hiện vật

Trong khuôn viên khu di tích có tấm bia đá, một di vật lịch sử có giá trị, được người dân địa phương gọi là Bia đá chữ. Trước đây, tấm bia này đã được nhiều người biết đến nhưng chưa được công bố do những khó khăn trong việc tiếp cận hiện vật. Qua khảo sát thực tế, bia đá chữ là một bài văn bia khắc trực tiếp vào giữa một phiến đá màu ngà có chiều dài khoảng 5m và cao khoảng 3m. Phiến đá nằm nghiêng bên bờ suối, tạo ra hình vòm như hàm ếch, bảo vệ phần chữ khắc khỏi mưa nắng. Bia đá chữ có tổng cộng 121 chữ Hán khắc theo thể khải thư, chia thành 11 dòng, mỗi dòng từ 3 đến 16 chữ. Chữ khắc sâu, dễ đọc, đặc biệt ba chữ “Bát nhã tuyền” (Suối Bát nhã) ở cuối bia được khắc lớn. Nội dung nhằm ghi lại dấu ấn về một lần đi tế thần núi Tam Đảo năm 1450 do quan đại thần Lê Khắc Phục lập.

Tại đền Thõng, hiện còn lưu giữ một bia đá bốn mặt từ năm Bảo Thái thứ 5 (1723), ghi nhận nơi đây là “Tam Đảo linh sơn”, một quả chuông đúc vào năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), một bản thần tích từ năm Bảo Đại thứ 12 (1937), cùng một khánh đồng và một số hoành phi, câu đối. Các chứng tích này là những di sản lịch sử – văn hóa có giá trị, khẳng định sự quan tâm của nhiều triều đại đối với danh thắng Tây Thiên và vị thế “địa linh bậc nhất” của quần thể di tích này.

Ngoài ra, trong đền Cô còn lưu giữ nhiều hoành phi và câu đối có giá trị, làm tăng thêm phần thiêng liêng và phong phú cho khu di tích Tây Thiên. Các hiện vật này không chỉ phản ánh lịch sử và văn hóa của vùng đất mà còn là minh chứng cho sự tôn kính và sùng bái của các thế hệ đối với những giá trị tâm linh và thiêng liêng của Tây Thiên.

Sự kiện – Lễ hội

Lễ hội Tây Thiên, diễn ra từ ngày 15 đến 17 tháng Hai âm lịch hàng năm, là một sự kiện văn hóa quan trọng nhằm tưởng nhớ và tri ân công lao to lớn của Quốc Mẫu Lăng Thị Tiêu, Chính Vương phi của Hùng Chiêu vương thứ VII. Bà đã có nhiều đóng góp quan trọng trong việc mở mang bờ cõi, dạy dân trồng lúa nước, chiêu mộ quân sỹ và củng cố vương triều Hùng.

Lễ hội bao gồm hai phần chính: phần lễ và phần hội. Phần lễ được tổ chức trang nghiêm với các nghi thức như lễ cáo, lễ rước kiệu, lễ khai mạc, lễ dâng hương và lễ tạ. Đây là những hoạt động mang ý nghĩa tâm linh và tôn vinh truyền thống lịch sử.

Phần hội của lễ hội Tây Thiên thường diễn ra sôi động với nhiều hoạt động văn hóa phong phú. Các hoạt động này bao gồm liên hoan hát văn, hát chầu văn gắn với thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tây Thiên; hội diễn văn hóa văn nghệ, trình diễn và tái hiện các phong tục tập quán của đồng bào dân tộc Sán Dìu; biểu diễn dân ca Soọng cô; và hội chợ thương mại-du lịch trưng bày các sản phẩm OCOP cùng ẩm thực đặc trưng của các dân tộc trong tỉnh.

Ngoài ra, lễ hội còn có nhiều hoạt động thể thao hấp dẫn như Giải Vật cổ truyền toàn quốc, Giải golf toàn quốc cúp Tây Thiên, và các giải bóng chuyền hơi, kéo co, cờ tướng của các xã, thị trấn huyện Tam Đảo. Những hoạt động này không chỉ góp phần tạo nên không khí vui tươi, phấn khởi mà còn thúc đẩy phong trào rèn luyện sức khỏe trong cộng đồng.

Xếp hạng

Năm 2015, Di tích Lịch sử và Danh lam thắng cảnh Tây Thiên đã được công nhận là Di tích Quốc gia Đặc biệt. Năm 2020, tín ngưỡng thờ Mẫu Tây Thiên được công nhận là Di sản Văn hóa Phi vật thể Quốc gia.

Tham khảo

  1. Lê Mạnh Thát 2003. Lịch sử Phật giáo Việt Nam – Tập I. Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh
  2. “Di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh Tây Thiên – Tam Đảo”, Cục Di sản văn hóa. https://dsvh.gov.vn/di-tich-lich-su-va-danh-lam-thang-canh-tay-thien-tam-dao-1491
3.5/5 (4 bình chọn)

Từ khóa » đi Lễ Mẫu Tây Thiên