ĐI TÌM CHỮ VIỆT CỔ | MINH TRIẾT VIỆT
Có thể bạn quan tâm
Đỗ Văn Xuyền
….. Trước khi vào cuộc tìm kiếm
Từ một ngôi miếu nhỏ
Trên một quả đồi nhỏ ven đường, thôn Hương Lan – Nơi trung tâm của cố đô Văn Lang xưa – Có một tòa cổ miếu nằm ẩn mình dưới hai cây táu, gốc to đến bốn, năm người ôm không xuể, ước tính tuổi đời đã đến ngót nghìn năm. Mỗi độ hè về, trên mái ngói rêu phong và quanh những gốc cây lại phủ đầy những cánh hoa vàng, hoa bạc làm tăng thêm vẻ u tịch và cổ kính. Người ta gọi đây là miếu Hai Cô. Ngôi miếu rộng chừng ngót chục mét vuông với bức tường thấp nứt nẻ và hai mái nhỏ lô xô những viên ngói vỡ tưởng chừng có thể sụp đổ và tan biến trước bão tố trong thời gian bất kể lúc nào, nếu không có hai cây cổ thụ vươn dài những cánh tay lực sỹ che chở.
Vào một mùa hè năm 1978, ban lãnh đạo Hợp tác xã nông nghiệp Động Lực quyết định cho chặt hai cây táu trước miếu về làm củi nung gạch. Được tin này các cụ già thôn Hương Lan đã kéo nhau ra miếu. Nhìn đám xã viên vác rìu, búa… chuẩn bị vào cuộc, cụ Nguyễn Hữu Bồng đã chạy đến, ôm chặt gốc cây hét lớn:
“Không được phá nơi thờ thầy, cô giáo. Nếu chúng mày định chặt cây thì hãy chặt xác tao luôn thể”.
Đến lúc này, người ta mới biết đây không phải là miếu Hai Cô như người dân đã bao đời lầm tưởng, mà là miếu thờ thầy giáo Vũ Thê Lang – quê ở Mộ Trạch – Hải Dương (cùng vợ là cô Nguyễn Thị Thục quê ở Đông Ngàn – Kinh Bắc) đã lên đây dạy học từ thời Vua Hùng thứ 18. Thầy Cô đã chết vào cùng một giờ, ngày 2 tháng 2 năm Quý Dậu (288 trước Công nguyên) và được song táng trong lòng miếu. Ngôi mộ đã được nhân dân Hương Lan âm thầm bảo vệ suốt gần 23 thế kỷ. (1)
(1) Theo Ngọc Phả do Nguyễn Bính phụng soạn.
Trên bàn thờ còn tượng thầy cô và đặc biệt có hai cô gái với thị nữ theo hầu. Đó chính là Tiên Dung và Ngọc Hoa, hai cô học trò yêu của thầy họ Vũ mà người ta dùng hình ảnh để ngụy trang cho ngôi miếu cổ. Bức hoành phi nhỏ “Thiên Cổ Miếu” và đôi câu đối bằng gỗ mộc, dài chừng một mét đã nói lên tầm cỡ của di tích này:
“Hùng lĩnh trung chi thắng tích, Nam thiên chính khí linh từ”
(Tạm dịch: “Thắng tích: Dấu xưa Hùng Lĩnh Đền thiêng: Nguồn sáng trời Nam)
…Đến cả một hệ thống đền, miếu thờ thầy cô giáo thời trước Hán
Mở rộng phạm vi tìm kiếm, ta thấy ngoài miếu Thiên cổ thôn Hương Lan, còn rất nhiều nơi thờ thầy cô giáo ở khắp vùng miền núi, trung du, đồng bằng Bắc Bộ và Thanh Nghệ Tĩnh.
Điều đáng tiếc là sau bao năm bị chiến tranh tàn phá và do nhận thức nông cạn một thời, nhiều di tích lịch sử đã không còn nữa. Rất may mắn là năm 1938, người Pháp đã có một cuộc tổng kiểm kê di tích các làng xã. Tài liệu hiện giờ còn lưu giữ ở kho AE Viện Hán Nôm, cộng với một số công trình của một số tác giả: “Thần linh đất Việt”, “Các nữ thần Việt Nam”, “Các nữ tướng của Hai Bà Trưng” cộng với các di tích còn sót lại… Ta đã có thề dựng lại tấm bản đồ vùng Giao Chỉ, Cửu Chân cũ với rất nhiều dấu tích của một nền giáo dục thời trước Hán, mở đầu từ thời Hùng Vương thứ sáu và kết thúc là thời Hai Bà Trưng với thầy Đỗ Năm Tế, cô Tạ Cẩn Nương, thầy Lê Đạo, sư bà chùa Phúc Khánh… Có tấm bản đồ ghi chú và qua danh sách các thầy cô giáo học sinh kèm theo ta cũng có thể hình dung được sự học hành của tổ tiên ta thời ấy.
Như vậy phải chăng ngay từ thời đại Hùng Vương dân tộc ta đã từng có chữ viết riêng?
Đất nước ta nhỏ bé, lại phải trải qua hàng nghìn năm bị thống trị với chính sách đồng hóa nghiệt ngã của kẻ thù, bao nhiêu di sản quí báu của tổ tiên đã không còn nữa. Giờ đây nhiều nhà khoa học đang dành hết công sức vào các công cuộc kiếm tìm.
Riêng về chữ viết, trong suốt mấy nghìn năm đã có bao nhiêu người từng nhắc tới. Từ Hứa Thận, Trịnh Tiểu… đời Tống cho đến Vũ Quỳnh, Trương Vĩnh Ký, Vương Duy Trinh, Lê Huy Nghiệm… Và gần đây là Bùi Văn Nguyên, Lê Trọng Khánh, Hà Văn Tấn, Trần Ngọc Thêm… Và một số lượng không nhỏ các nhà nghiên cứu Việt Kiều.
Những dấu tích về ký tự của tổ tiên cũng ngày càng phát lộ nhiều hơn:
– Từ những nét khắc đơn sơ trên các bãi đá cổ ở Xín Mần (Hà Giang) Pá Màng (Sơn La), trên các đồ đồng Đông Sơn đến các hình vẽ tinh xảo đã mang tính khoa học, trên hàng trăm tảng đá ở Sa Pa mà chúng ta chưa giải mã được. – Tiến lên một bước, ta còn tìm thấy dấu tích chữ khoa đẩu trên vách đá Đài Loan – một loại chữ tượng hình mà nhìn qua ta cũng đoán biết đây là tiền thân của chữ Hán. Các nhà khảo cổ Trung Quốc còn phát hiện nhiều di vật có khắc chữ, cách đây tới sáu, bảy nghìn năm, vào thời điểm mà các vùng phát hiện còn là khu vực cư trú của người Bách Việt. Ấn tượng về loại chữ khoa đẩu mạnh đến mức còn lưu dấu lại trong các tác phẩm văn học như Thủy Hử của Thi Nại Am, Lộc Đĩnh Ký của Kim Dung…
Thời điểm ghi lại sự xuất hiện của loại ký tự này đã cách xa tới bốn, năm nghìn năm trước… Ta biết rằng ký tự của một dân tộc bao giờ cũng phát triển từ đơn sơ lên hoàn chỉnh. Sự phát triển này mang tính kế thừa. Vì vậy, muốn nghiên cứu về chữ viết của tổ tiên, ta phải bắt đầu từ loại chữ viết xuất hiện gần ta nhất (song song với ngôn ngữ của giai đoạn đó). Thời điểm này ít nhất cũng vào thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên khi đất nước ta bắt đầu chìm vào đêm dài tăm tối của trên 1000 năm Bắc thuộc.
Với phương pháp nghiên cứu khoa học, có điều kiện tiếp xúc nhiều tài liệu và với cái nhìn khách quan, một số nhà khoa học thế giới đã giúp ta những tài liệu mới về vấn đề này.
Giáo sư Noel Barnard ở Đại học Quốc gia Úc đã khẳng định: “Rõ ràng là thời trước Hán (thời của dòng Bách Việt) ở Trung Quốc đã tồn tại một hình thức chữ viết và ngôn ngữ văn học khá chuẩn xác”.
Trong cuốn “Lịch sử chữ viết thế giới” xuất bản trước năm 1945, nhà khoa học Tiệp Khắc Cesmir Loukotca viết: “Phía nam đế quốc Trung Hoa có nhà nước An Nam, ngay từ thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên đã bị người Hán thống trị. Viên Thái thú Sĩ Nhiếp đã du nhập chữ Hán vào. Trước đó, người An Nam đã đọc bằng thứ chữ ghi âm riêng. Chữ đó không còn lại đến ngày nay”.
– Trước đó, năm 1887, Terrien de Couperie đã viết trong tạp chí Hoàng gia Anh:
“… Sĩ Nhiếp đã bắt người Việt học thứ chữ Hán tượng hình và cấm dùng thứ chữ tượng thanh của mình”.
Vào giai đoạn này, nhiều cuốn kinh Phật được dịch sang chữ Hán (như Tạp thí dụ kinh, Cựu tạp thí dụ kinh… và Lục độ tập kinh của Khương Tăng Hội – dịch năm 246). Tới nay, căn cứ vào nội dung và hình thức ngữ pháp của sách, Thiền sư tiến sĩ Lê Mạnh Thát đã có một phát hiện quan trọng: Cuốn Lục độ tập kinh không phải dịch từ chữ Phạn mà là chép nguyên văn một cuốn sách bằng chữ Việt. Thiền sư khẳng định: Ngay từ trước khi chữ Phạn từ Ấn Độ được truyền sang Đông Nam Á theo con đường Phật giáo thì ở Việt Nam đã có một hệ thống chữ viết hoàn chỉnh.
Không phải chỉ có loại chữ ghi âm, tiến bộ vượt bậc so với loại chữ Hán tượng hình. Trong khi, đến thế kỷ thứ 3, nhiều nơi ở Trung Quốc vẫn dùng thẻ tre ghi chép thì từ năm 43, Mã Viện đã báo cáo với vua Hán: Dân Giao chỉ đã làm được giấy mật hương, loại giấy thả xuống nước không nát. Sử sách còn ghi: “Năm 284 lái buôn La Mã mua từ Giao Chỉ 30.000 tờ giấy mật hương biếu vua Tấn”. Điều đó chứng tỏ kỹ nghệ làm giấy đã phát triển rất cao.
Giáo sư Jean Pierre Drege, Giám đốc viện Viễn Đông bác cổ ở Pháp, căn cứ vào sách “Nam phương thảo mộc trạng” của Kê Hàm năm 304 và sách “Thập di ký” của Vương Gia, thời gian sau đó đã đi đến kết luận: “Ngay từ thế kỷ 2 trước Công nguyên, người Việt đã làm ra giấy và sau đó truyền vào Trung Hoa”.
Tất cả để chứng minh rằng: Ngay từ khi lập quốc, tổ tiên ta đã có chữ viết, từ những hình vẽ đơn sơ đến loại chữ khoa đẩu như hình con nòng nọc và tới khi bị kẻ thù triệt hạ thì cứ văn tự ấy đã đạt đến mức độ cao về mặt khoa học: Thứ ký tự ghi âm có chữ cái ghép vần… có thể đứng ngang hàng với những loại chữ tiến bộ nhất của nhân loại.
Thứ tài sản vô giá ấy của tổ tiên liệu có còn không? Làm sao để chúng ta tìm lại được và tìm ở những nơi nào?
Đất nước ta nhỏ bé, ở bên cạnh một đế quốc to lớn, bị thống trị tới hàng nghìn năm mà vẫn giành lại được độc lập dân tộc, vẫn tồn tại với cả một nền văn hóa độc đáo. Trải qua bao thử thách khốc liệt, dân tộc ta vẫn giữ vững ý chí quyết chiến quyết thắng với lòng yêu nước mênh mông và tình yêu thương nhân loại cao cả. Bao nhiêu di tích, bao nhiêu di sản quý giá từ thời đại đồ đá, đồ đồng… Vẫn được dân ta bí mật cất dấu bảo vệ thì Chữ Việt cổ nhất định vẫn còn.
Chỉ có điều chúng ta không hy vọng tìm thấy ở các vùng biên giới phía Bắc, đồng bằng và đô thị. Cuộc tận thu trống đồng của Mã Viện năm 43, lệnh triệt hạ chữ viết cổ của Sĩ Nhiếp khi bắt dân ta học chữ Hán, một chỉ dụ của Minh Thành Tổ gửi Trương Phụ năm 1875, chắc những nơi đó không còn sót lại được gì.
Chỉ còn vùng Tây Bắc. Một số nhà khoa học thế giới và trong nước đã khẳng định:
Vùng triền núi ven sông Đà là nơi cư trú của người Lạc Việt từ hàng vạn năm trước, sau đó là người Mường và người Thái. Do địa hình cao và địa thế hiểm trở, dân ở đây không phải chịu những cuộc thiên di do Đại hồng thủy và kẻ thù cũng không dễ dàng vượt qua sông Đà đầy ghềnh thác mà vào cái vùng rừng núi đầy hiểm trở này.
Chúng ta hướng việc tìm tòi về phía đó, chỉ có điều, phải dùng một phương pháp nghiên cứu khác (để không bị rơi vào những cái bẫy kiến thức người ta đã đặt sẵn – làm bao nhiêu người lệch hướng). Chúng ta tin tổ tiên còn lưu giữ lại nhiều. Chí có về với dân và dùng phương pháp nghiên cứu hiện đại nhất, ta mới hy vọng tìm ra sự thật.
Như vậy, ta có thể xác định:
– Đối tượng tìm của ta là Chữ Việt cổ, loại chữ ghi âm đã có chữ cái ghép vần. – Địa điểm tìm, chủ yếu là vùng Tây bắc. – Phương pháp của ta là: dựa vào dân tìm tư liệu trong dân. Thu thập, lựa chọn để tìm ra những bộ chữ có nhiều khả năng nhất. Tìm cách giải mã và sau đó dùng phương pháp hiện đại nhất để kiểm nghiệm.
Trên đường tìm kiếm
Dấu tích chữ Việt cổ dạng tượng thanh – Loại ký tự đã có chữ cái ghép vần – Tìm thấy ở vùng Giao Chỉ cửu chân
Đây là loại chữ, ta tìm thấy ở nhiều nơi, đặc biệt là vùng Tây Bắc, trong khoảng thời gian hàng nghìn năm và trên nhiều chất liệu: Đồ đá, đồ gốm, đồ đồng và cả trên mặt giấy.
1. Trên trống đồng:
+ Sách “Đại Nam nhất thống chí” ghi về trống đồng Đan Nê (Yên Định, Thanh Hóa): + “… Trên mặt có 9 vành hoa văn. Bốn bên tang trống có dây dọc và chữ VẠN, văn như chữ khoa đẩu, lâu ngày mòn mất không thể đọc được. Tương truyền Hùng Vương đúc trống này…” + Trong cuốn “Trống đồng vùng Đất Tổ”, Tiến sỹ Nguyễn Anh Tuấn giới thiệu 75 chiếc trống đồng đã tìm thấy ở Phú Thọ (tới năm 2000), trong đó có trống Lai Đồng và Ngọc Lập, trên mặt có khắc chữ nhưng đã bị cạo sứt hết. + Đặc biệt, tháng 3/1970, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội phát hiện một trống đồng để trong nhà dân ở Lũng Cú (Hà Giang), trên tang trống có hai hàng 8 chữ cái:
(u)(đ)(ng)
+ Năm 1889, tại cuộc đấu xảo quốc tế ở Pari có trưng bày một trống đồng do Phó sứ Moulíe lấy được tại nhà một quan lang ở Hòa Bình gần sông Đà.
Trên tang trống có khắc hình những người đang cầm đọc văn bản. Hình ảnh này nhắc ta nhớ lại báo cáo của Mã Viện gửi lên Hán Quang Đế năm 43:
“Giao Chỉ đã biết làm giấy mật hương, loại giấy trắng thả xuống nước không nát. … Luật Việt khác luật Hán trên 10 điều…”
2. Trên đồ gốm:
Năm 1923, bà Colani đào được ở chân núi Lam Gan Hòa Bình nhiều hiện vật đồ đá cách đây khoảng 8000 năm, đã gây chấn động dư luận quốc tế. Trong số đó có hai chiếc đĩa gốm có khắc chữ, qua hình dạng có người đoán là chữ Sỹ (士)
Và chữ Thượng (上) của Trung Quốc. Nay ta đã giải mã được. Đó là chữ SÔtương tự chữ X và chữ Ốtương tự chữ O của quốc ngữ. Ta có thể gặp hai chữ này trong rất nhiều tại liệu Việt cổ đã tìm được
3.Trên chiếc rìu đá do Đỗ Quý Bào tìm thấy ở đồi Giàm Việt Trì(n)
4. Trên tảng đá ở Hầu Thào 1 ở Sa Pa (sau khi cạo sạch lớp rêu phủ)
(S.X)®©
5. Trên rìu đồng Bắc Ninh
(ă) (t) (ng)
6. Trong hiện vật đồng (tấm che ngực) của Viện bảo tàng Lịch sử
(n) (u) (n)
7. Trong bài ca Hỏa tự của Vương Duy Trinh (1903)
(n) (cu=qu) (m)
8. Trong trang sách Mường Thanh Hóa do viện sỹ Trần Ngọc Thêm giới thiệu trong “Cơ sở Văn hóa Việt Nam” 1999
(h) (n) (cu=qu)
9. Trong một số vùng ở Tây Bắc (theo giáo sư Lê Trọng Khánh):
– Vùng Mường La: (B) (t) (cu=qu)
– Vùng Mường Lay © (ph)
– Vùng Mộc Châu (h)
– Vùng Phong Thổ:(i,y) (l)
10. Trong bộ chữ Thái thổ tư do Thượng thư Phạm Thận Duật sưu tầm trên Tây Bắc năm 1855 – 1856
– Ở Lai Châu, Luân Châu, Quỳnh Nhai:
(O) (m) (uô,uâ)
– Ở Tuần Giáo, Thuận Châu:
(B) (D)
– Ở Châu Phù Yên:
(ch) (a)
11. Ở rất nhiều văn bản tìm thấy hiện để ở Bảo tàng và Thư viện Sơn La:
(O) (th) (Ô)
12. Đặc biệt, ta còn tìm được nguyên vẹn CẤU TRÚC CỦA CHỮ VIỆT CỔ đã khoác VỎ LA TINH trong các tác phẩm đầu tiên của chữ Quốc ngữ.
– Trong “Thư báo cáo” của Gaspa Loui viết từ Ma Cao (1621): Ontrum, Nouoeman – Trong hồi ký của Cirs – tô – phô – rô Bori (1631): Quanghia, Chiuua, Omgne – Trong sách giảng 8 ngày của A. de Rhodes: Tỏ tưầng, ∫óũ, ∫aũ le. – Trong từ điển Việt Bồ La của A. de Rhodes (1651): Con ruầi, tổ aõ, Sáp aõ, Saũ le – Trong từ điển của Pisneau de behaine (1772) và từ điển của Taberd (1830): Duiên, Khuia – Trong từ điển của Aubaret (1861): Huình, huinh, Koặp
13. Trong “Sách sổ sang” của linh mục filip Bỉnh viết ở thủ đô Lisbon – Bồ Đào Nha (từ 1790 – 1820), do viết tay nên ngoài những chữ quốc ngữ có cấu trúc của chữ Việt cổ khoác vỏ La Tinh, ta còn gặp nguyên dạng chữ Việt cổ trong suốt hớn 600 trang sách.
– Khaóc laóc, Vỏng, Cụ Cuiền, Phu xưấng phụ tùi tùi…………………………………………………..Dà Tra∫aExcomunha
Riêng trang 147 có 22 dòng thì có tới 12 từ có cấu trúc Việt cổ vỏ La Tinh và 11 từ còn lưu lại nguyên dạng chữ Việt cổ (11 từ này, mỗi từ có 3 chữ cái thì hai chữ nguyên dạng chữ Việt cổ: A(a = o) đọc là Ô và(ng) đọc là ngộ.
Có thể nói: Trong khắp vùng Giao Chỉ, Cửu Chân cũ, suốt mấy nghìn năm, nhân dân ta đã tìm mọi cách lưu giữ lại nguyên vẹn những chữ Việt cổ trong lần cải tiến cuối cùng của chữ Khoa đẩu: Từ những ký hiệu, những chữ tượng hình… chuyển sang chữ tượng thanh: Loại có chữ cái ghép vần.
Loại chữ này tìm thấy ở một vùng không gian rộng lớn cách nhau hàng nghìn cây số, với khoảng thời gian chênh nhau hàng nghìn năm nhưng có một đặc điểm chung về hình dạng chữ cái, về cấu trúc của các từ cơ bản là thống nhất. Điều đó chứng tỏ, chúng có chung một nguồn gốc và sẽ rất thuận lợi cho chúng ta khi so sánh, tìm hiểu, nhưng cũng gây cho ta không ít khó khăn trong quá trình nghiên cứu vì một số lý do:
1. Sự thay đổi con chữ đối với các dân tộc anh em:
Do tính chất khoa học và tiện lợi, một số dân tộc anh em đã sử dụng loại ký tự này để ghi ngôn ngữ của dân tộc mình. Nhưng do sự khác nhau đôi chút về ngôn ngữ, bộ ký tự Việt cổ còn thiếu một số chữ cái. Trong quá trình sử dụng họ đã có sự bổ sung, cải tiến cho phù hợp với dân tộc mình.
Ví dụ: Bộ ký tự này thiếu chữ P đứng đầu từ, trong khi người Thái lại cần rất nhiều phụ âm P (Pí noọng, Pa ử…). Họ đã dùng chứ P khóa đuôi của Việt cổ thay cho chữ P đứng đầu còn thiếu:
Ví dụ: Chữ PHÁP (PH – A – P)
Chữ PAP (… – A – P)
Không viết được vì Việt cổ không có P đứng đầu từ. Người Thái đã viết:
Ví dụ: Tam Tan
Để khỏi nhầm lẫn, người Thái đã cải tiến chữ thành 2 chữ
(là N khóa đuôi) (là M khóa đuôi)
2. Sự thay đổi hình dạng các chữ một cách tùy tiện:
Do không có điều kiện làm bản khắc gỗ và máy in, việc viết bằng tay đã xày ra sự tự do tùy tiện đối với mỗi cá nhân ở những vùng khác nhau. Vì vậy cũng là chữ Việt cổ nhưng có chữ ta chưa đọc được vì đã biến dạng.
Ví dụ:
Chữ O Ở Tuần Giáo viết là
Ở Quỳnh Nhai viết là
Ở Phù Yên viết là
Ở Sơn La viết là
Chữ X
Ở Lai Châu viết là
Ở Phù Yên viết là
3. Tình trạng phiên âm sai còn xảy ra không phải ít:
Gây khó khăn cho giai đoạn đầu khi cần giải mã bộ ký tự này – đặc biệt ngay trong bộ chữ Thái Thổ Tự của Thượng thư Phạm Thận Duật là bộ chữ chúng ta sẽ dựa vào là chính để nghiên cứu. Ví dụ:
+ Ở trang 201 dòng Chữ (thi) Lại phiên âm là Bố
+ Ở trang 201 dòng Chữ (nhu) Lại phiên âm là Khổng
+ Ở trang 2 Chữ (Ác) Lại phiên âm là Á
Hầu hết các trang sách giới thiệu 1500 từ “chữ Thái thổ tự” trong bộ tài liệu ta đều gặp phải các sai sót này.
Lựa chọn
Cuộc khai quật của bà Colani – một học giả Pháp ở Viễn Đông Bác cổ năm 1923, với việc phát hiện ra nền văn hóa Hòa Bình đã làm chấn động dư luận quốc tế. Năm 1932, Hội nghị bàn về thời tiền sử ở Viễn Đông, họp tại Hà Nội đã khẳng định “Việt Nam là cái nôi văn minh của nhân loại”. Sau này, qua quá trình nghiên cứu, các nhà khoa học nước ngoài như: Trương Quang Trực (Trung Quốc), Vavilov (Nga), Solheim (Mỹ)… bổ sung thêm, đại ý: “Nền văn minh của Việt Nam, trước Lưỡng Hà, Trung Quốc, Ấn Độ tới cả nghìn năm”.
Như vậy, chúng ta đã trải qua một thời kỳ văn minh rực rỡ. Riêng về chữ viết chúng ta đã tìm thấy dấu tích các thầy cô thời trước Hán. Các học giả trong và ngoài nước đã xác nhận: “Trước khi chữ Hán xâm nhập, Việt Nam đã từng có chữ viết riêng”. Các nhà nghiên cứu Anh, Tiệp còn khẳng định: Đó là loại chữ tượng thanh (Ký tự ghi âm, có chữ cái ghép vần).
Mặc dầu hàng nghìn năm bị đô hộ, bị bao cuộc chiến tranh tàn phá, trên vùng đất Lạc Việt cổ xưa vẫn còn lưu lại dấu vết của các loại “Ký tự” Tổ tiên đã để lại như: Hình vẽ trên các bãi đá cổ Sa Pa, Xín Mần, Pá Màng… Dấu vết chữ khoa đẩu trên vách đá Đài Loan (với dạng tượng hình như chữ Hán sơ khai). Và một số nơi trên lục địa Trung Hoa mà các tác phẩm: Thủy Hử (Thi Nại Am), Lộc Đỉnh Ký (Kim Dung)… còn miêu tả lại.
Nhưng tìm lại các ký tự buổi đầu này quả là một điều hết sức khó khăn. Chúng ta chỉ có thể tập trung vào chữ viếg cuối cùng: Chữ Việt cổ tượng thanh.
Đây là loại ký tự có số lượng hết sức phong phú và chắc chắn là hình thức cuối cùng của loại chữ này – từ hình vẽ sơ khai, qua loại chữ tượng hình đơn giản. Do số lượng hết sức phong phú và có nhiều sự khác biệt về hình dạng, ở nhiều vùng khác nhau, nên ta cần chọn lấy một bộ tiêu biểu nhất làm cơ sở để tập trung nghiên cứu.
Bộ “chữ Thái thổ tự” của Thượng thư Phạm Thận Duật sưu tầm được trong thời gian làm Tri châu Điện Biên vào những năm 1855 – 1856 có thể có đủ những điều kiện ấy. Sở dĩ ta chọn bộ này để nghiên cứu vì 3 lý do.
1. Đây là một bộ tư liệu phong phú nhất, tác giả đã bỏ vào nhiều công sức trong quá trình thu thập.
Về hình dạng: Chữ cái của bộ ký tự này giống với hầu hết chữ cái ở các vùng khác.
Nếu lấy năm 1855 làm mốc, ngược thời gian về trước, ta thấy thứ chữ này có trong Sách Sổ Sang của Filip Bỉnh viết năm 1800 ở Bồ Đào Nha, trong cấu trúc của các chữ Quốc ngữ buổi đầu từ những năm 1621. Ngược lên nữa, ta thấy chữ này xuất hiện trên rìu đồng Bắc Ninh, trên trống đồng Lũng Cú, trên các đĩa gốm của nền văn hóa Hòa Bình mà bà Colani đào được ở chân núi Lam Gan năm 1923…
Xuôi thời gian về hiện tại, ta gặp loại chữ này trong Bài ca hỏa tự của Vương Duy Trinh (1903), trong các công trình sưu tầm chữ Việt cổ của giáo sư Lê Trọng Khánh, Giáo sư Hà Văn Tấn trong sách Mường Thanh Hóa của Viện sỹ Trần Ngọc Thêm (1999) và trong hàng trăm cuốn sách của Sơn La sưu tầm được trong hàng chục năm gần đây.
2. Lý do thứ hai ta chọn bộ chữ này là niềm tin vào cuộc đời tác giả. Phạm Thận Duật quê ở làng Yên Mô – huyện Yên Mô – Ninh Bình, có lòng yêu nước và tinh thần say mê, nghiên cứu. Với kiến thức uyên bác, chỉ trong hai năm ở Tây Bắc ông đã có nhiều công trình có giá trị. Về cuối đời, ông đã từ bỏ những chức vị cao của triều đình (Thượng thư bộ Hình, Tổng tài Quốc Tử Giám, Phó tổng quản Quốc sử quán) để theo vua Hàm Nghi chống Pháp. Bị đầy ra Côn Đảo, sau đó sang Tahiti. Trên đường lưu đầy, ông đã chết vì bị ốm đau và tra tấn. Xác ông bị vứt xuống eo biển Ma – Lắc – Ca. Đến hai năm sau, gia đình mới được tin.
3. Đây là bộ tài liệu phong phú nhưng cũng đầy rẫy những sự vô lý: Các kiến thức đều sai: A, tác giả chú thích là B, B tác giả lại nói là C. Cho nên, mặc dầu đã tồn tại gần 2 thế kỷ, bộ tài liệu không được ai chú ý.
Kiểu ngụy trang và khóa mã này, ta thường gặp khi Tổ tiên muốn dấu đi những di tích, những di sản cần bảo vệ (Kiểu như Miếu Thiên Cổ, miếu thờ đại tướng Thục Nương và nhiều di tích vùng Hà Đông, Sơn Tây cũ…)
Phân tích
Phân tích “chữ Thái thổ Tự”
I. Tác giả ghi rõ: Đây là chữ Thái “thổ tự”, tức là chữ địa phương của riêng người Thái. Bộ chữ có từ 32 đến 36 chữ cái và 11 nét phụ bốn bên. “Tuy nhiên ít khác nhau, song nếu dùng 3 thể chữ cái ấy đảo lên, lộn xuống, ghép lại với nhau thành từ thì đều có thể thông với văn tự Trung Châu”. Điều này vô lí vì: Lúc này ở Trung Châu, về phương diện công khai chỉ có hai loại văn tự:
1. Chữ Hán (hoặc chữ Nôm) 2. Chữ Quốc ngữ sơ khai chưa được dùng phổ biến, chỉ hạn chế trong phạm vi Tôn giáo. Người Trung Châu không biết tiếng Thái và chữ Thái. Vì vậy không thể đem loại chữ “Thổ tự” để giao dịch được (1).
(1) Nhưng chi tiết này lại làm xuất hiện một khả năng cần lưu ý: Có thể ở Trung Châu lúc ấy, có những người sử dụng được loại văn tự này (Ví dụ như Tổng dốc Vương Duy Trinh, Án sát Lê Huy Nghiệm và nhiều người khác). Và như vậy, cần “xem lại” ý kiến của Thượng thư Phạm Thận Duật. Đây có thể không phải là chữ Thái thổ tự mà chỉ có cái vỏ ngụy trang cho chữ Việt Cổ của tổ tiên mà chính Phạm Thận Duật cũng chưa kịp nhận ra.
II. Bảng chữ cái:
Như phần trên đã giới thiệu, tác giả giới thiệu ba bảng chữ cái sưu tầm được ở 3 địa phương khác nhau: Lai Châu, Sơn La, Phù Yên.
Ví dụ: Ở Sơn La, Tuần Giáo, Thuận Châu…
1. Có 17 thể chữ cái thêm vần bằng, có thể đây là những con chữ phụ âm (như các chữ b, l, m, c, kh… ở Quốc Ngữ) nhưng chỉ để ghép với các từ thuộc thanh bằng. 2. Có 16 chữ cái theo vần trắc (có thể là những con chữ phụ âm chỉ để ghép với các từ thuộc thanh trắc). 3. 11 nét phụ cho các từ vầng bằng (Nguyên văn chữ Hán là “mai” âm Thái là “mây” có nghĩa như dấu (accents). Tác giả gọi là các nét phụ bốn bên (tứ bàng phụ họa).
Nhận xét
Tất cả 3 chú thích này đều hoàn toàn sai. Bộ chữ này không có dấu. Vì vậy cũng không thể có chữ cái theo vần trắc. Trong số 44 chữ cái giới thiệu chì có 2 loại: 1. Nguyên âm (voyelles): Đó là chữ mà tác giả nhầm là dấu (accents) Có 11 chữ: Mai công: Ô
Mai cô: UÔ, UÂ
Mai kê: E
Mai Cư: Ư
Mai Ca: A
Mai cơ: IÊ
Mai cơ: I
Mai căng: Ă
Mai câm: Â (thiếu trong tư liệu chính)
Mai cầm: U
Riêng Mai khuông (chưa thấy sử dụng)
Để có thể đọc, viết được mọi loại ký tự này, còn cần bổ sung thêm một số nguyên âm
đọc là Ơ hoặc Â
đọc là Ơ hoặc Ê
đọc là ƯƠ
Nguyên âm khóa đuôi, đọc là O hoặc U
Nguyên âm khóa đuôi, đọc là I hoặc Y
Đỗ Văn Xuyền
(Nguồn: Diễn Đàn Lý Học Đông Phương)
[Tác Giả] [Lãnh Vực]
Từ khóa » Bằng Chữ Cái Việt Cổ
-
Bảng Chữ Cái - CHỮ VIỆT CỔ - Flickr
-
Chữ Việt Cổ (khoa đẩu Tự) - Dragon
-
Chữ Việt Cổ Và Sự Kiến Tạo Truyền Thống - Công An Nhân Dân
-
Chữ Việt Cổ - Tiếng Việt Mến Yêu
-
Học Chữ Việt Cổ - Learn Forumvi
-
301. Tản Mạn Về Chữ Việt Cổ - Lược Sử Tộc Việt
-
511. Chữ Viết Của Người Việt Thời Hùng Vương - Lược Sử Tộc Việt
-
Nhóm Yêu Thích Chữ Việt Cổ - Home | Facebook
-
Chữ Việt Cổ (khoa đẩu Tự) - Thông Tin Để Tư Duy
-
Chữ Viết Tiếng Việt - Wikipedia
-
Bảng Chữ Cái Tiếng Việt Và Cách Phát âm Chuẩn, Những Từ Thường ...
-
Chữ Viết Của Người Việt | Nghiên Cứu Lịch Sử
-
Chữ Của Nền Văn Minh Rực Rỡ? - VIỆT Y CỔ TRUYỀN