DI TRUYỀN ĐA GEN VÀ DI TRUYỀN ĐA NHÂN TỐ Ở NGƯỜI

DI TRUYỀN ĐA GEN VÀ DI TRUYỀN ĐA NHÂN TỐ Ở NGƯỜI

1. KHÁI NIỆM VÀ ĐỊNH NGHĨA

Theo kết quả nghiên cứu bản đồ gen năm 2000, ở người có 31780 gen mã hóa cho các protein khác nhau. Các bệnh, tật di truyền có thể do tác nhân môi trường khoảng 7%, do đột biến NST 10%, đo đột biến đơn gen 8%, do di truyền đa nhân tố 25 %. 50% còn lại là các bệnh tật di truyền chưa rõ nguyên nhân.

1.1. Định nghĩa di truyền đa gen

Di truyền đa gen là dạng di truyền mà sự biểu hiện của tính trạng hoặc bệnh bị kiểm soát bởi nhiều gen không alen, trong đó mỗi gen thành viên chỉ có một tác động nhỏ, không đủ để tạo nên thay đổi thấy được ở kiểu hình, khi nhiều gen tác động theo một hướng thì kiểu hình mới thay đổi về lượng để có thể quan sát được.

1.2. Định nghĩa di truyền đa nhân tố

Di truyền đa nhân tố là dạng di truyền có sự tham gia của nhiều gen không alen, các gen này chịu sự ảnh hưởng của các tác nhân môi trường, sự tương tác giữa các gen thành viên phối hợp với tác động của môi trường quyết định kiểu hình của tính trạng, tật, bệnh di truyền đa nhân tố.

Các tính trạng bình thường hoặc bệnh lý đa nhân tố được quy định do sự tác động cùng hướng của nhiều gen thành viên thuộc các locus khác nhau, trong đó tác động của mỗi gen thành viên không đủ gây một thay đổi thấy được ở kiểu hình, nhưng nhiều gen thành viên cùng tác động theo một hướng, tương tác nhau kiểu tích gộp có thể gây những thay đổi thấy được ở kiểu hình. Mặt khác mỗi gen thành viên đều có thể chịu ảnh hưởng của các nhân tố môi trường khác nhau. Kết hợp ảnh hưởng của nhiều nhân tố môi trường với tổng thể các gen quy định tính trạng sẽ quyết định sự biểu hiện của một tính trạng, bệnh, tật di truyền đa nhân tố.

1.3. Quy luật di truyền

1.3.1. Quy luật phân bố tần số kiểu hình theo đường cong chuẩn trong di truyền đa nhân tố

Trong quần thể, nhiều tính trạng số lượng có sự phân bố tần số kiểu hình theo đường cong hình chuông. Các tính trạng này phải do nhiều nhân tố về gen, môi trường hay cả hai, mỗi yếu tố thành viên đóng góp một phần nhỏ quy định sự biểu hiện.

Ví dụ: nếu chiều cao được quy định bởi một gen có 3 alen, alen (a+) làm chiều cao tăng thêm 2 cm, alen a-làm giảm đi 2 cm, alen a trung tính, quần thể lúc này có 9 tổ hợp gen và có 5 nhóm kiểu hình, giả thiết tần số alen

a gấp đôi a+ và a-, các giá trị chiều cao được trình bày ở bảng 8.1. Nếu quần thể có chiều cao trung bình là 168 cm, sẽ có 1/16 quần thể có kiểu gen a-a- có chiều cao 164 cm, 1/16 a+a+ có chiều cao 172 cm, 4/16 aa và 2/16 a+a' có chiều cao 168 cm.

Nếu thêm một locus cũng có 3 alen cùng quy định chiều cao (ví dụ là b, b+ và b-), thì số nhóm cá thể trong quần thể tăng, sự khác biệt giữa các nhóm ít đi, sự phân bố chiều cao bắt đầu giống đường cong chuẩn (hình

8.2). Trong trường hợp này chỉ có 1/256, cá thể có cả 4 alen lặn (a"a"b"b") hay 4 alen trội (a+a+b+b+) và tham gia tạo thành các cực của đường phân bố. Số gen tăng lên thì số nhóm các cá thể tăng lên, trển đồ thị, các cột mới hình thành lấp dần vào khoảng trống để dần tạo ra một đường cong liên tục. Ngoài ra, còn có rất nhiều các yếu tố môi trường, mỗi yếu tố góp thêm hoặc hạn chế một phần biểu hiện, cũng cho kết quả tạo ra đường phân bố chuẩn, thậm chí khi chưa có sự thay đổi nào ở gen.

Như vậy, tần số của các biến thể di truyền là kết quả cộng gộp của các biến thể gen, sự biến thiên kiểu hình trong quần thể là kết quả tác động đồng thời nhiều gen và các yếu tố môi trường quy định hiệu quả cuối cùng.

Vấn đề đặt ra là vai trò của gen (liên quan tới quan hệ huyết thống) là bao nhiêu và bao nhiêu là do các yếu tố môi trường. Mối liên quan huyết thống diễn biến từ bằng 0 (bệnh, tật do tác động của môi trường), đến không có sự tham gia của môi trường, độ di truyền bằng 1.

Ví dụ tính trạng chiều cao, xét về vai trò của gen: trên thực tế, một người nam giới quá thấp, hoặc quá cao thường có xu hướng tìm một người vợ có chiều cao gần với chiều cao trung bình. Xét mối quan hệ giữa cha và con, để đơn giản ta giả thiết chiều cao của mẹ ở mức trung bình trong quần thể. Nếu chiều cao của bố thay đổi, xét từng cặp bố - con, mối quan hệ huyết thống đều là 0,5, con lại nhận 1/2 số gen từ mẹ, vì vậy chiều cao của con sẽ ở mức trung gian giữa chiều cao của bố và trung bình quần thể (hình 8.3). Tình trạng cũng tương tự, nếu một người nữ giới quá thấp, hoặc quá cao thường có xu hướng tìm một người chồng có chiều cao trung bình, con của họ cũng có chiều cao có xu hướng gần về trung bình quần thể.

Về vai trò của môi trường: cùng một quần thể, các con sinh ra từ các cặp vợ chồng khác nhau đều có chung tác động môi trường giống nhau, có thể coi những đứa con sinh ra trong quần thể ở cùng thời điểm có chung một hiệu ứng tác động môi trường như nhau (hiệu ứng này có thể coi là hiệu ứng trung bình quần thể). Do môi trường luôn thay đổi, vì vậy thế hệ con thường có môi trường khác với bố mẹ, chiều cao của các con có thay đổi để gần về giá trị trung bình quần thể.

Tổng hòa tác động của di truyền và môi trường đều kéo giá trị chiều cao của các con sinh ra có xu hướng tiến về giá trị trung bình quần thể. Mối liên quan này lần đầu được Francis Galton tổng kết thành “Luật hồi quy ở con cái”. Đường hồi quy ở hình 8.3 thể hiện giá trị trung bình chiều cao của những đứa con với từng giá trị chiều cao của bố.

Đương nhiên, vai trò tác động môi trường càng cao, vai trò tính chất gia đình càng ít thì chiều cao của con càng tiến nhanh về giá trị trung bình quần thể. Ngược lại, vai trò các yếu tố môi trường càng ít thì mối liên quan với nhau giữa các cá thể họ hàng bậc 1 càng tiến gần tới giá trị 0,5.

1.3.2. Việc tính mối tương quan giữa các thế hệ trong di truyền đa nhân tố

Người ta đã triển khai các kỹ thuật tính toán khác nhau, để tính toán thành phần của các biến thể di truyền khác nhau. Với họ hàng bậc 1, nếu di truyền quyết định toàn bộ (độ di truyền bằng 1) thì mối tương quan là 0,5, nếu không do di truyền quyết định thì mối tương quan bằng 0. Mối tương quan càng gần tới 0,5 thì độ di truyền càng gần 1.

Những thành viên trong sinh đôi một hợp tử có mối liên quan di truyền bằng 1, sự khác nhau về kiểu hình giữa những người này sẽ cho ta một ước lượng về các biến thể do môi trường. Trên thực tế, những tác động môi trường giống nhau cũng làm cho sự biểu hiện kiểu hình giống nhau hơn.

Để có thể tính toán vai trò của di truyền, chúng ta cũng phải giả định không có gen nào chi phối chính sự biểu hiện, phải coi như các gen hoạt động cộng gộp, không có tương tác át chế, bổ trợ, không có các yếu tố môi trường tác động.

Để xác định vai trò môi trường, người ta phải so sánh một cách đơn giản, tức thời giữa anh em trong gia đình và so sánh các cặp trẻ em không có quan hệ họ hàng nhưng cùng lớn lên ở cùng một nơi, được nuôi dưỡng ở cùng một nhà trẻ. Do ở thế hệ con, môi trường sống thường ít nhiều có khác so với môi trường ở thời kỳ bố, mẹ. Vì vậy phải coi sự tương quan giữa bố mẹ và con là thấp hơn giữa các anh em trong cùng một nhà. Kết hôn gần cũng được loại vì làm tăng các biến thể gen do tăng đồng hợp tử.

Do các ước lượng khả năng di truyền là không tính được mức độ quyết định của từng gen (phải chấp nhận coi các gen có vai trò ngang nhau), vì vậy, nó chỉ cho ta biết các biến thể gen của từng quần thể. Chúng được dùng để xem xét cho từng quần thể cụ thể với một chuỗi các nhân tố môi trường xác định, không được ngoại suy tùy tiện ra các quần thể khác, với các yếu tố môi trường khác. Một ước lượng về di truyền màu da ở quần thể người Thuỵ Điển khác hơn nhiều so với quần thể ở Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (có nhiều chủng tộc người cùng sinh sống), mặc dù các gen xác định màu da là như nhau. Sự khác nhau là ở số lượng lớn các biến thể được tạo bởi các sai khác ở các gen khác nhau.

Nói tóm lại, người ta đã có nhiều cố gắng để tính toán khả năng di truyền, qua đó dự báo mức độ tái mắc bệnh, tật di truyền đa nhân tố, song việc tính toán rất phức tạp, các cách tính hiện nay phải chấp nhận những giá trị ước lượng, độ chính xác không cao, chỉ áp dụng được cho từng trường hợp cụ thể, không thể ngoại suy rộng ra

cho các trường hợp khác. Vì vậy, nhìn chung chúng ta vẫn phải áp dụng các biện pháp điều tra, dựa vào các con số kinh nghiệm để dự đoán khả năng di truyền các tính trạng, bệnh, tật di truyền đa nhân tố.

2. ĐẶC ĐIỂM CỦA DI TRUYỀN ĐA NHÂN TỐ

- Tính trạng, bệnh, tật di truyền đa nhân tố là tính trạng, bệnh có tính chất định lượng, có thể đo, đếm được. Ví dụ di truyền sản lượng sữa biểu hiện của số lượng sữa tiết ra mỗi ngày ta có thể đo là mấy lít, chiều cao, biểu hiện của nó có thể đo được là bao nhiêu cm, độ thông minh có thể đo lường bằng chỉ số IQ...

- Tính trạng, bệnh do nhiều gen thuộc các locus khác nhau quyết định. Mỗi gen có thể có 2 alen, cũng có thể có nhiều alen (dãy đa alen) chi phối. Do sự tham gia của dãy đa alen, sự biểu hiện của bệnh, tính trạng càng trở nên đa dạng.

- Sự biểu hiện ra kiểu hình của tính trạng, bệnh di truyền đa nhân tố có độ biến thiên rất lớn do ảnh hưởng của các nhân tố môi trường. Ví dụ cân nặng ngoài vai trò do các gen quy định còn phụ thuộc vào chế độ ăn.

- Trong quần thể, sự phân phối các mức độ biểu hiện (từ nặng đến nhẹ, từ mức độ cao đến mức độ thấp) của tính trạng hoặc bệnh có sự biến thiên liên tục, nếu quần thể đồng nhất thì sự biến thiên có đường phân phối chuẩn. Ở đây giá trị trung bình trong quần thể có tần số cao nhất, sau đó giảm dần về các phía, ví dụ huyết áp tâm thu trong quần thể giá trị 120 (trung bình) có tần số cao nhất.

- Khác với bệnh di truyền đơn gen chỉ có 2 dạng “bệnh hoặc không bệnh”, với các bệnh di truyền đa nhân tố sự biểu hiện thành lượng phản ánh ở chỗ có kiểu hình từ mức độ nhẹ tới mức độ nặng. Khi một cá thể mang một tổ hợp đa gen mà sự tích gộp của các gen bệnh này vượt qua "ngưỡng bệnh” thì có biểu hiện bệnh (hình 8.4). Sự tác động tích gộp của các gen dẫn đến biểu hiện bệnh gọi là “hiệu quả ngưỡng bệnh”.

Hình 8.4 sơ đồ ngưỡng bệnh trong quần thể

"Hiệu quả ngưỡng bệnh" của cùng một bệnh có thể khác nhau ở 2 giới nam và nữ tạo nên tần số bệnh khác nhau giữa nam và nữ

Thí dụ bệnh hẹp môn vị bẩm sinh có tần số gặp ở nam cao hơn ở nữ 5 lần do hiệu quả ngưỡng bệnh của nam là thấp hơn ở nữ. Ngược lại bệnh cao huyết áp lại gặp nhiều ở nữ hơn nam, hiệu quả ngưỡng bệnh của nữ ở đây lại thấp hơn nam.

Ngưỡng bệnh được thể hiện ở các sơ đồ trên cho thấy, trong quần thể, các cá thể bị bệnh chiếm một tỷ lệ thấp nằm ở cực xa, bên phải của đường cong phân phối chuẩn. Về nguyên tắc, họ hàng bậc 1 với người có bệnh có thể có 1/2 số lượng gen giống với bệnh nhân, nên đường cong phân phối biểu hiện của kiểu hình những người họ hàng này cũng dịch về phía bên phải (về phía những người bệnh) một khoảng cách bằng 1/2 nửa biên độ của đồ thị Gauss (X). Do sự chuyển dịch này, quần thể những người họ hàng bậc 1 của các bệnh nhân có một phần lớn hơn ở cực phải vượt qua ngưỡng bệnh. Như vậy, tỷ lệ có thể biểu hiện bệnh ở đây cao hơn. Tương tự như trên, ở họ hàng bậc 2, biểu đồ biểu diễn phân phối tần số kiểu hiện sẽ dịch chuyển về phía "những người bệnh" 1/4 X, họ hàng bậc 3 đường biểu diễn di chuyển 1/8 X (hình 8.5, 8.6, 8.7).

- Bệnh tật di truyền đa nhân tố chiếm tỷ lệ lớn trong số các bệnh di truyền. Tính chung 25% các tật, bệnh di truyền được chi phối bởi quy luật di truyền đa nhân tố. Trong các bệnh tim mạch có tính chất di truyền khoảng 5% có nguyên nhân do bất thường NST, 3% là bệnh do đột biến đơn gen. Phần chủ yếu còn lại là những bệnh tim mạch như các bất thường ở tim, van tim, mạch vành, cao huyết áp, thấp tim di truyền theo kiểu đa nhân tố. Vì vậy để tìm hiểu các bệnh di truyền thì nghiên cứu về tính trạng, bệnh, tật di truyền đa nhân tố là một trọng tâm.

- Trong di truyền đa nhân tố, mỗi yếu tố thành viên không quyết định được sự biểu hiện tính trạng. Vì vậy, không thể tính toán khả năng biểu hiện tính trạng của các thế hệ con cháu như trong di truyền đơn gen. Để nghiên cứu các bệnh tật di truyền đa nhân tố người ta dùng hai phương pháp:

+ Điều tra dịch tễ để thống kê tìm ra tần số bệnh và tần số tái mắc ở từng bệnh qua từng mức độ quan hệ huyết thống với bệnh nhân.

+ Phương pháp nghiên cứu con sinh đôi để tính ra độ di truyền H, qua đó biết được vai trò di truyền và môi trường trong việc quy định kiểu hình của một bệnh hoặc tính trạng nào đó.

3. MỘT SỐ BỆNH, TÍNH TRẠNG DI TRUYỀN ĐA GEN Ở NGƯỜI

3.1. Di truyền màu da

Màu da ở người do khoảng 20 đôi gen chi phối. Khi phân tích các mức độ khác nhau của màu da, Davenport, đã đưa ra một bảng phân định các mức khác nhau của màu da theo lượng sắc tố như sau (bảng 8.2).

Theo Davenport, chi phối màu da có hai đôi gen chủ yếu ký hiệu Aa; Bb, các gen trội quyết định da có nhiều sắc tố hơn. Vì vậy, nếu bố mẹ một người da đen và một người kia da trắng thì con sẽ có da ngăm đen, khi những người da ngăm lấy nhau, con của họ sẽ có màu da từ đen đến trắng theo tỷ lệ: 1 da đen, 4 da tối, 6 da ngăm, 4 da sáng, 1 da trắng. Trên thực tế, ta không thấy có một ranh giới tách biệt riêng từng loại mà màu da có tính biến thiên liên tục.

3.2. Di truyền nếp vân da

Nếp vân da được quy định bởi nhiều gen, nó mang tính chất cá thể cao, tuy nhiên vẫn có sự giống nhau tùy theo quan hệ huyết thống. Anh em sinh đôi một hợp tử hầu như là giống nhau, những người có quan hệ họ hàng càng gần thì giống nhau càng nhiều hơn, tính trạng này rất ít chịu ảnh hưởng của môi trường. Mức độ giống nhau về nếp vân da liên quan đến quan hệ huyết thống được thể hiện ở bảng 8.3.

Quan hệ

Mức độ giống nhau về nếp vân da

Thực tế

Lý thuyết

Sinh đôi một hợp tử

0.95

1.00

Sinh đôi hai hợp tử

0.49

0,5

Anh em ruột

0,5

0,5

Bố mẹ - con

0.48

0,5

Vợ - chồng

0.05

G;00

Bảng 8.3 Mức độ giống nhau về nếp vân da và quan hệ giữa các đối tượng

3.3. Di truyền huyết áp tâm thu

Huyết áp tâm thu ở người cũng do nhiều gen chi phối, giả thiết trong đó có 2 gen chi phối chính là Aa và Bb. Huyết áp tâm thu cơ bản của người 100mmHg, nếu có thêm một gen trội thì huyết áp tâm thu lại tăng lên 10 mmHg, ta có sơ đồ sau (hình 8.8).

4. MỘT SỐ TÍNH TRẠNG, TẬT, BỆNH DI TRUYỀN ĐA NHÂN TỐ

4.1. Tính trạng di truyền đa nhân tố

Di truyền trí tuệ

Để đánh giá khả năng trí tuệ ở trẻ em, người ta cho các em làm các phép tính khó dần cho tới khi không làm được, hoặc nhắc lại một số câu sau khi đã nghe một lần, từ đó, tính ra chỉ số trí tuệ IQ (Intelligence Quotient). Chỉ số IQ được tính bằng cách chia tuổi trí tuệ cho tuổi đời rồi nhân kết quả với 100.

Ví dụ một em bé 8 tuổi, giải được những thử nghiệm của lứa tuổi 10 tuổi, chỉ số IQ của em là: 10: 8 x 100 = 125. Nếu trẻ trên chỉ giải được những thử nghiệm của trẻ 6 tuổi thì chỉ số IQ của em đó là: 6: 8 x 100 = 75. Sử dụng phương pháp này, với mỗi lứa tuổi, người ta phải lập ra những tiêu chuẩn trung bình (chuẩn) về trí tuệ để làm cơ sở đánh giá.

Bằng phương pháp xác định chỉ số IQ có thể phân biệt người bình thường và bất thường về mặt trí tuệ. Những người có chỉ số IQ dưới 70 được coi là người trí tuệ phát triển kém. Các nghiên cứu ở châu Âu và Bắc Mỹ cho thấy khoảng 1,5 - 3,0% người có chỉ số IQ < 70. Stanford Binet đã đưa ra mẫu xác định khả năng trí tuệ dựa vào chỉ số IQ như sau (bảng 8.4).

Bảng 8.4. Giá trị của chỉ số IQ ở các mức trí tuệ

Giá tri của chỉ số iQ

Biểu thị

140 hoặc hon

Thiên tài

120-dưới 140

Rất thông minh

110-dưới 120

Thông minh

90 - dưới 110

Trung bình

80 - dưới 90

Hơi kém

70 - dưới 80

Kém

50 - dưới 70

Dốt

25 - dưới 50

Đần

0 - dưới 25

Ngu

Đa số những hội chứng do rối loạn các NST khác nhau đều làm giảm ít nhiều trí tuệ. Những nhận xét đó chứng tỏ phát triển của trí tuệ chịu ảnh hưởng của nhiều gen và rất có thể được kiểm soát bởi nhiều gen trong các NST khác nhau.

Trí tuệ của mỗi người vừa do di truyền, vừa do tác động của môi trường (trình độ văn hóa, giáo dục huấn luyện). Nghiên cứu một số tính chất ở các cặp sinh đôi và một số gia đình cho thấy yếu tố di truyền có phần quan trọng hơn trong sự hình thành trí tuệ. Những trẻ sinh đôi một hợp tử nuôi riêng ở 2 nơi có trí tuệ thông minh giống nhau hơn là những đứa trẻ sinh đôi hai hợp tử nuôi cùng với nhau trong cùng một điều kiện.

4.2. Một số bệnh, tật di truyền đa nhân tố thường gặp

4.2.1. Tật vô sọ và nứt đốt sống

Trong quá trình phát triển phôi, phần trước của ống thần kinh sẽ phát triển thành não bộ, phía sau tạo thành tủy sống. Phía dưới ống thần kinh có dây sống. Quá trình phát triển, dây sống phát triển lan lên phía trên, phía trước dây sống tạo thành sọ não, phía sau tạo thành cột sống ôm kín tủy sống. Nếu phía trước hộp sọ không được tạo thành sẽ dẫn đến thai vô sọ, phía sau cột sống không ôm kín tủy sống sẽ dẫn đến nứt đốt sống.

Nứt đốt sống là tình trạng xương đốt sống nào đó phát triển không đầy đủ để bảo vệ tủy sống, tủy sống không được xương sống phủ kín. Nếu nhiều đốt sống cùng bị nứt thì người ta gọi là cột sống chẻ đôi. Do nhiều đốt sống phát triển không đầy đủ để bảo vệ tủy sống, tủy sống không được xương sống bao phủ. Bất thường này thường gặp ở đốt sống lưng 12 trở xuống. Một số trường hợp nứt đốt sống có kèm theo não úng thủy.

Thai vô sọ là những trường hợp không có da, xương che phủ màng não. Sự thiếu hụt này có thể ở phần trán hay ở giữa não, bất thường sọ thường dẫn đến thai chết lưu hoặc chỉ sống được một thời gian ngắn sau sinh. Thai vô sọ và nứt đốt sống có thể có các mức độ biểu hiện khác nhau của cùng một loại dị tật.

Tỷ lệ bị bệnh từ 1 đến hơn 10%o tùy thuộc từng vùng và từng nhóm người. Một số tác giả cho rằng các nhóm người có điều kiện kinh tế xã hội thấp, tỷ lệ dị tật này cao hơn. Đặc biệt chế độ dinh dưỡng của mẹ kém, trong nước uống tỷ lệ kẽm thấp là yếu tố dễ dẫn đến sinh con bị bệnh. Khắc phục bằng chế độ dinh dưỡng cho các bà mẹ có nguy cơ cao, có thể làm giảm sự xuất hiện các dị tật của ống thần kinh. Những bà mẹ đã sinh một trẻ dị tật cần được dùng một số vitamin nhóm B và acid folic trước khi có thai lần sau. Tỷ lệ tái mắc tùy thuộc vào số người đã bị mắc tật: nếu chỉ có 1 người mắc tật thì tỷ lệ tái mắc ở họ hàng bậc 1 của bệnh nhân là 2 - 6%, nếu 2 người mắc tật thì nguy cơ tái mắc là 10 - 20%. Càng có nhiều người mắc thì nguy cơ tái mắc càng tăng. Tỷ lệ tái

mắc ở họ hàng bậc 2 là 0,5 - 1%. Sự xuất hiện của dị tật thường liên quan đến lần sinh đầu hoặc trẻ sinh ra ở người mẹ khi tuổi đã ngoài 40.

4.2.2. Tật sứt môi và nứt khấu cái

Tật sứt môi và nứt khẩu cái có thể xuất hiện cùng nhau, cũng có khi riêng rẽ. Sứt môi là trường hợp môi trên có một khe hở hoàn toàn hoặc không hoàn toàn. Môi có thể bị sứt ở một bên hoặc cả hai bên. Chỗ bị sứt có thể rộng đến tận xương hàm trên.

Nứt khẩu cái là trường hợp vòm miệng có một khe hở thông với mũi, phần nứt có thể chỉ là phần mềm hoặc nứt cả phần cứng của hàm. Trẻ bị sứt môi và nứt khẩu cái thường có khuyết tật của răng vùng bị sứt môi và cánh mũi bên bị sứt và hay bị viêm tai giữa nhắc đi nhắc lại.

Tỷ lệ mắc tật ở nam cao hơn nữ, 1/3 là sứt môi đơn thuần, 2/3 là vừa sứt môi, vừa nứt khẩu cái. Sứt môi hay ở bên trái hơn ở bên phải. Tỷ lệ mắc tật ở các nơi khác nhau có khác nhau từ 0,4 đến 1,7%o trẻ sơ sinh.

Tật này có thể do các cơ chế di truyền sau chi phối:

- Phần lớn sứt môi và nứt khẩu cái có cơ chế di truyền đa nhân tố, tật có tính chất gia đình, tỷ lệ tương hợp cao, ở các trẻ sinh đôi một hợp tử tỷ lệ tương hợp là 40% trong khi sinh đôi 2 hợp tử tỷ lệ tương hợp là 7%.

- Một số ít các trường hợp dị tật loại này có kết hợp với nhiều bất thường NST khác nhau nhất là với thể ba nhiễm NST nhóm D, cũng có thể với thể ba nhiễm NST 18, mất đoạn NST 18 hoặc NST số 4.

- Một số đột biến gen cũng có biểu hiện sứt môi và nứt khẩu cái đi kèm.

Theo cơ chế di truyền đa nhân tố, khả năng tái xuất hiện một trẻ dị tật loại này ở họ hàng bậc 2 (khoảng 0,7 %), thấp hơn nhiều so với họ hàng bậc 1 là khoảng 4% (trong đó tái mắc ở trẻ nam là 6,3%, ở trẻ gái là 2,3%).

Đây là điểm cần lưu ý khi cho lời khuyên di truyền. Tật càng nặng thì nguy cơ tái mắc ở anh chị em ruột càng tăng. Nếu tật nặng thì tỷ lệ tái mắc với sứt môi một bên là 2,7%, với sứt môi hai bên là 5,4%. Nếu bố mẹ không bị tật có một con bị tật thì tỷ lệ tái mắc là 4%, nếu có hai con bị tật thì tỷ lệ tái mắc là 10%. Nếu cả bố và mẹ bị tật thì tỷ lệ mắc ở con là 14%. Nếu bố hoặc mẹ bị tật và một con bị tật thì tỷ lệ tái mắc là 10%. Một số tác nhân trong thời kỳ thai nghén có thể là nguyên nhân gây tăng dị tật này như các thuốc chống nôn, mẹ bị chảy máu, nhiễm độc huyết ở mẹ, mẹ bị nhiễm toxoplasma. Tuy nhiên, người ta cũng chưa kết luận một cách chắc chắn tác hại của các yếu tố trên. Với thuốc chống động kinh (đặc biệt diphenylhydantoin), thì người ta đã biết có khả năng gây tăng tần số sứt môi, 2% những người dùng thuốc trên có khả năng sinh con sứt môi.

Để phòng bệnh người ta có thể cho phụ nữ có thai dùng acid folic 4mg/ngày từ khi bắt đầu có thai, dùng trong 3 tháng. Thời điểm có thể phẫu thuật khắc phục là lúc trẻ được 4 - 5 tháng tuổi, với trẻ nứt khẩu cái là 18 tháng.

4.2.3. Tật bàn chân vẹo

Đây là bệnh do tổn thương cơ bàn chân, có thể có biến dạng ở một hoặc cả hai bàn chân. Tần số này gặp ở nam cao hơn nữ với tỷ lệ 2 nam: 1 nữ. Tần số chung trong quần thể vào khoảng 0,1% đến 0,15%. Tần số tật này ở họ hàng bậc 1 của bệnh nhân là 2 - 6%, ở họ hàng bậc 2 và bậc 3 lần lượt là 0,6 và 0,2 %. Mẹ hoặc chị gái bị tật thì khả năng tái mắc bệnh cao hơn so với bố hoặc anh trai bị tật. Bệnh có thể xuất hiện ở đứa trẻ mà bố mẹ nó là bình thường về lâm sàng, vì vậy, người ta gọi bệnh di truyền này là giả di truyền lặn.

Việc phát hiện trẻ bị bàn chân vẹo sớm là rất cần thiết vì việc chỉnh hình cần được làm ngay sau khi sinh bằng cách bó bột hoặc dùng băng chun. Nếu bó bột hoặc dùng băng chun không hiệu quả thì có thể phẫu thuật chỉnh hình.

Tật bàn chân vẹo có thể có một số dị tật khác kèm theo như thoát vị bẹn, trật khớp háng bẩm sinh, biến dạng chi...

4.2.4. Tật hẹp môn vị

Tật hẹp môn vị do cơ môn vị phì đại thành một u cơ trơn hình bầu dục. Ồng môn vị chít hẹp làm cản trở sự di chuyển của thức ăn từ dạ dày xuống ruột. Dạ dày giãn to, lớp cơ càng gần môn vị càng dày lên do dạ dày tăng co bóp để đưa thức ăn qua ống môn vị bị hẹp. Bệnh thường biểu hiện khi trẻ 2 đến 8 tuần tuổi. Thông thường 2, 3 tuần lễ sau sinh, trẻ vẫn ăn uống bình thường, thời gian này gọi là thời gian trống, khoảng thời gian trống có thể dài hơn đến 4, 5 tuần sau đẻ. Sau đó, nôn nặng xẩy ra đột ngột, nôn thành vòi, sữa trong chất nôn bị đông vón vì đã bị tác động của dịch vị dạ dày. Trẻ luôn bị đói nên bú mạnh. Do nôn nhiều dẫn đến mất nước và mất cân bằng điện giải, đồng thời thức ăn không được hấp thu nên trẻ bị thiếu dinh dưỡng. Các triệu chứng khác thường đi kèm là giảm cân, nhu động ruột kém, táo bón, phân nhầy.

Tần số bệnh ở Bắc Mỹ và châu Âu khoảng 3%ơ. Bệnh gặp ở nam nhiều hơn nữ 4 - 5 lần. Với “hiệu quả ngưỡng bệnh” này, các tác giả cho rằng: ở nam chỉ cần ít gen gây bệnh đã có khả năng biểu hiện bệnh, và vì vậy việc di truyền bệnh cũng phụ thuộc vào giới. Nếu người mắc tật hẹp môn vị là nữ thì nguy cơ sinh con trai mắc tật này là 1/5 còn nguy cơ sinh con gái mắc tật chỉ là 1/14. Nếu người mắc tật là nam thì nguy cơ sinh con trai mắc tật là 1/20, nguy cơ sinh con gái mắc tật là 1/40.

Như vậy, nếu bố bị bệnh (số lượng gen bệnh có thể ít hơn ở người nữ mắc bệnh) khả năng di truyền bệnh cho con thấp hơn mẹ bị bệnh, trong đó khả năng di truyền bệnh cho con gái cũng thấp hơn so với cho con trai.

Nếu mẹ bị bệnh thì ngược lại; khả năng các con bị bệnh sẽ cao hơn hẳn, trong đó, khả năng mắc bệnh ở con trai cũng cao hơn con gái. Cũng với cách giải thích trên, nếu bố mẹ không bị bệnh, trong gia đình có một anh trai bị bệnh thì khả năng tái hiện bệnh ở những người em sau trong gia đình cũng thấp hơn so với người chị gái bị bệnh, trong đó khả năng tái hiện bệnh ở em trai là cao hơn so với em gái. "Hiệu quả ngưỡng bệnh" trong trường hợp hẹp môn vị là điều rất cần lưu ý khi tính toán khả năng tái mắc bệnh cho một trẻ tương lai khi cho lời khuyên di truyền.

4.2.5. Tật thoát vị rốn

Thoát vị rốn là sự sa lồi của một phần hoặc toàn bộ phủ tạng qua nền dây chằng rốn, qua màng của túi thoát vị có thể thấy được hình quai ruột, ở phía đỉnh túi có dây rốn. Phần dưới lồng ngực kém phát triển. Tiên lượng sống phụ thuộc vào kích thước khối thoát vị, túi càng to thì khả năng sống càng giảm. 50 - 78% thoát vị rốn có kèm theo các dị tật khác làm cho tình trạng càng nặng hơn. Trong một số trường hợp có tăng AFP ở máu mẹ, lượng AFP và acetylcholinesterase tăng cao trong nước ối.

Tỷ lệ mắc tật khoảng 1/6000 đến 1/10000 trẻ sơ sinh. Tật hay gặp ở người Mỹ gốc Phi hơn ở người da trắng. Trẻ đẻ non và thấp cân hay gặp tật này, tỷ lệ gặp ở nam và nữ tương đương nhau.

Ở những cặp vợ chồng đã sinh 1 con bị tật này, nguy cơ tái mắc là hơn 3%.

4.2.6. Tật thoát vị cơ hoành bẩm sinh

Thoát vị cơ hoành bẩm sinh là tình trạng không có cơ hoành hoặc có một lỗ thủng trên cơ hoành, lỗ có thể ở bên trái hoặc bên phải nhưng thông thường hay có ở bên trái. Các thành phần trong ổ bụng như dạ dày, ruột, gan, lách có thể đi qua lỗ thủng để chui vào khoang lồng ngực, sự phát triển của lồng ngực ở một bên hoặc cả hai bị giảm.

Tỷ lệ mắc tật là 1/2500 lần sinh.

4.2.7. Các bệnh tim mạch

Các bệnh tim mạch gồm nhiều bệnh tật của tim, các mạch máu lớn do sự ngừng hoặc kém phát triển các thành phần của tim, mạch trong các giai đoạn phát triển phôi, chúng có thể biểu hiện riêng rẽ hay phối hợp với nhau.

Mỗi tật bệnh tim, mạch có một cơ chế riêng.

Tỷ lệ mắc bệnh tim bẩm sinh từ 0,5% đến 6% trẻ sơ sinh (trung bình 1% đến 2%) tùy theo từng vùng. Tỷ lệ tử vong của những người mắc tật tim mạch cao, chiếm khoảng 5 - 10% trong đó chủ yếu là tử vong trong 2 năm đầu.

Về cơ chế di truyền, người ta thấy các dị tật ở tim mạch chỉ có khoảng 5% có nguyên nhân do bất thường NST, 3% là bệnh do đột biến đơn gen. Phần chủ yếu còn lại là những bệnh tim mạch như các bất thường ở tim, van tim, mạch vành, cao huyết áp, thấp tim di truyền theo kiểu đa nhân tố.

Về nguyên nhân gây ra dị tật: nhiều tác nhân có thể dẫn tới các tật của tim mạch, các tác nhân môi trường gồm có các tác động nhiễm khuẩn, nhiễm độc và nhiễm xạ. Các tác động này có thể ảnh hưởng tới bố mẹ trước khi có thai. Đặc biệt tác động vào người mẹ trong 10 tuần lễ đầu của quá trình thai nghén, giai đoạn thai 3 đến 5 tuần chịu tác động mạnh nhất. Trong các loại tác nhân gây tật ở tim người ta nhắc đến các tác nhân chủ yếu ở mẹ là:

- Nhiễm khuẩn: mẹ bị cúm, sởi, sốt phát ban, nhiễm rubella, nhiễm toxoplasma, mắc các bệnh viêm nhiễm khác...

- Nhiễm hóa chất độc, bị tác động của một số thuốc, nhiễm phóng xạ, một số tia...

Một số bệnh di truyền cũng có các dị tật ở tim mạch như bệnh Down, bị hội chứng thể ba nhiễm 13, thể ba nhiễm 18...

Trong gia đình đã có người bị các tật của tim mạch, khả năng tái mắc bệnh cũng cao. Tỷ lệ tái mắc ở thế hệ sau của các bệnh tim mạch di truyền đa nhân tố chịu ảnh hưởng của mẹ nhiều hơn bố, nó cũng phụ thuộc vào số lượng anh chị em trong gia đình có bệnh: càng nhiều người anh em của trẻ chuẩn bị ra đời bị mắc bệnh thì khả năng xuất hiện lại bệnh ở trẻ này càng lớn (bảng 8.5).

Bảng 8,5, Khả năng tái mắc một số tật, bệnh về tim mạch

Người đã hị hẹp động mạch chủ

Nguy cơ tái mắc (%)

Bố

3

Mẹ

13-18

1 anh (chị)

2

2 anh (chị)

G

Người đã bị mắc tật hẹp động mạch phổi

Nguy cơ tái mắc (%)

Bố

2

Mẹ

4-GS

1 anh (chị)

2

2 anh (chị)

6

Người đã bị mắc tứ chứng Fallot

Nguy cơ tái mắc (%)

Bố

1,5

Mẹ

2,5

1 anh (chị)

2,5

2 anh (chị)

8

Các bệnh tim, mạch bẩm sinh có xu hướng để càng lâu càng nặng, tiên lượng bệnh còn phụ thuộc vào loại dị tật, vào khả năng phát hiện và tùy thuộc vào khả năng phẫu thuật để sửa chữa các dị tật: ở các nước phát triển việc phát hiện và phẫu thuật sớm đã hạn chế được những biến đổi xấu, ở các nước đang phát triển do trình độ và trang thiết bị nên việc chẩn đoán sớm và phẫu thuật còn nhiều khó khăn.

Về phòng bệnh: nguyên tắc chung để phòng xuất hiện các tật tim mạch là tránh tiếp xúc với các tác nhân môi trường độc hại, nếu có người trong gia đình, họ hàng đã bị bệnh thì cần đến các cơ sở tư vấn di truyền để được tư vấn cách phòng tránh sinh con bị tật. Khi có thai, các thai nhi cần được chẩn đoán trước sinh để có hướng xử trí ngay trong thời kỳ bào thai, trẻ em được sinh ra trong các gia đình này cần đến sớm cơ sở thăm khám nhi khoa về dị tật để được chẩn đoán sớm, có hướng điều trị sớm nếu có dị tật.

4.2.8. Tật da vẩy nến

Tật da vẩy nến là tật có xuất hiện các ban đỏ điển hình ở da, các mảng vẩy nến có màu ánh bạc phân bố đối xứng ở đầu, khủyu tay, khớp gối, có thể bị toàn thân, bong vẩy da. Những vùng da bị tổn thương sẽ xuất hiện vẩy nến, tổn thương có thể có mủ. Móng tay có thể bị bong, bị lõm và loạn dưỡng. Tật thường biểu hiện mạn tính với những đợt trầm trọng xen kẽ những giai đoạn thuyên giảm. Tổn thương vi thể bao gồm hiện tượng á sừng và tăng sản biểu bì kết hợp với viêm nhẹ, acid uric huyết thanh thường tăng.

Có thể gặp các biến chứng như tróc da có ban đỏ ở toàn thân, giảm albumin huyết, hạ nhiệt, vẩy nến có mủ toàn thân. Tật da vẩy nến thường phối hợp với viêm đa khớp dạng thấp.

Tần số mắc tật khác nhau tùy chủng tộc: khoảng 1% ở chủng tộc người Capcasian thuộc châu Âu, tỷ lệ thấp ở người da đen và da đỏ châu Mỹ.

Nguy cơ tái mắc: nếu chỉ có bố hoặc mẹ bị tật thì tỷ lệ tái mắc ở con là 16%, nếu cả hai bố, mẹ đều mắc tật thì tỷ lệ tái mắc ở con là 50%.

4.2.9. Bệnh động kinh

Ngay từ thời Hippocrates động kinh được ghi nhận có tính chất gia đình. Cơ chế bệnh sinh có thể do tổn thương não, do chấn thương, do dột biến đơn gen, nhưng phần lớn được di truyền theo cơ chế đa nhân tố. Các trường hợp bị bệnh động kinh hầu như đều có tiền sử gia đình đã có người bị động kinh. Tỷ lệ tương hợp ở sinh đôi một hợp tử rất cao: 90%, ở sinh đôi hai hợp tử là 15%. Nếu gia đình có bố hoặc mẹ và một người anh chị bị bệnh, thì khả năng có bệnh ở trẻ tiếp theo là 15%. Nếu cặp vợ chồng có kiểu hình bình thường, có một con bị bệnh thì tỷ lệ tái mắc ở trẻ tiếp theo là 3%. Để cho lời khuyên di truyền người ta còn dựa vào thể lâm sàng và kết quả điện não của bố, của mẹ và các trẻ đã có trong gia đình để ước lượng một tỷ lệ chính xác hơn.

4.2.10. Chậm trí tuệ

Di truyền trí tuệ là di truyền đa nhân tố, vì vậy trong quần thể tự nhiên có những người xuất chúng và những người chậm trí tuệ theo quy luật tự nhiên.

Ở những người xuất chúng, họ nhận được nhiều gen có ưu thế tốt, lại có sự tác động của các yếu tố môi trường giúp các gen phát huy tốt khả năng của nó. Ngược lại, những người chậm trí tuệ tự nhiên, do tập trung các gen không tốt, yếu tố môi trường lại không thuận lợi sẽ có biểu hiện chậm trí tuệ. Số chậm trí tuệ tự nhiên này không nhiều. Số chậm trí tuệ mà chúng ta gặp trong thực tế còn do các bất thường về gen, NST, do chấn thương ở não hoặc do các tác nhân bên ngoài như chấn thương lúc sinh, chấn thương phôi thai hay di chứng của viêm não. Các nguyên nhân trên có thể là độc lập, cũng có trường hợp chậm trí tuệ do nhiều nguyên nhân phối hợp. Do có thêm các nguyên nhân phối hợp ngoài tần số chậm trí tuệ tự nhiên, đường cong phân phối biểu hiện trí tuệ có xu hướng chênh lên ở bên trái (chênh lên ở phần chậm trí tuệ).

Khi cho lời khuyên di truyền với gia đình có người chậm trí tuệ, ta phải tìm hiểu loại chậm trí tuệ ấy là gì, kết hợp thăm khám lâm sàng và làm thêm một số xét nghiệm NST, xét nghiệm sinh hóa. Nếu loại trừ đột biến đơn gen, bất thường NST hay do tác nhân bên ngoài thì số còn lại là di truyền đa nhân tố. Trong đột biến đơn gen cần

lưu ý có một loại đột biến đơn gen liên kết NST X (nằm trên đoạn dễ đứt ở đoạn xa của nhánh dài NST X, hội chứng Martin - Bell), nếu do gen đột biến này thì khả năng bị bệnh ở trẻ trai cao hơn trẻ gái. Tần số nguy cơ tái mắc chậm trí tuệ theo quy luật di truyền đa nhân tố được thống kê trong bảng 8.6.

Bảng 8.6. Khả năng tái mắc tật chậm trí tuệ

Số người chậm trí tuệ trong gia đình

Khả năng mắc bệnh ở trẻ tiếp theo (%)

Bố mẹ

Anh,chị

0

0

1

1

D

11

2

D

40

0

1

6

1

1

20

2

1

42

4.2.11. Loét dạ dày - tá tràng

Tính chất gia đình của bệnh loét dạ dày - tá tràng đã được đề cập từ rất lâu. Phần lớn các tác giả cho loét dạ dày - tá tràng là bệnh di truyền đa nhân tố, một số ít tác giả cho là di truyền nhiều gen. Loét dạ dày và loét tá tràng là hai bệnh độc lập nhưng là hai bệnh rất gần nhau và có chung cơ chế bệnh sinh nên người ta thường gọi chung là bệnh "loét dạ dày - tá tràng". Bệnh có 2 thể với cơ chế bệnh sinh khác nhau: thể không tăng tiết dịch tiêu hóa, thể thứ 2 có tăng tiết pepsinogen và tăng tiết dịch acid (HCl). Tuy nhiên, vai trò môi trường khá lớn trong việc phát sinh bệnh. Ngày nay người ta thấy vai trò rất quan trọng gây loét dạ dày - tá tràng là vi khuẩn. Vì vậy, bên cạnh việc tìm hiểu cơ chế di truyền thì phòng bệnh là một việc rất nên được quan tâm, nhất là ở các đối tượng có nguy cơ cao, việc tính toán khả năng mắc bệnh cũng vì vậy mà khó đưa ra con số chính xác và không thật có giá trị cao.

Ngoài ra còn có những tật bệnh khác nữa cũng di truyền đa gen và di truyền đa nhân tố như sai khớp háng bẩm sinh, bệnh rung giật Hirschsprung, tâm thần phân liệt, vẹo cột sống, loạn thần trầm cảm...

5. BẰNG CHỨNG VỀ VAI TRÒ DI TRUYỀN VÀ VAI TRÒ MÔI TRƯỜNG TRONG DI TRUYỀN ĐA NHÂN TỐ

5.1. Vai trò di truyền trong việc quyết định kiểu hình của các tính trạng, tật, bệnh di truyền đa nhân tố

Ở các chủng tộc người khác nhau, tỷ lệ của bệnh, tật di truyền đa nhân tố có giá trị khác nhau. Khi nghiên cứu tật bàn chân vẹo ở Hawaii, các tác giả nhận thấy tỷ lệ tật này ở người Polynesian cao hơn người Caucasian 6 lần, cao hơn người Trung Quốc cùng sống ở đây 3 lần. Điều này cho thấy, cùng một hoàn cảnh địa lý, nhưng các chủng tộc người khác nhau (có nguồn gen khác nhau) có tỷ lệ mắc bệnh khác nhau. Như vậy, sự xuất hiện của tật này có vai trò của di truyền.

Khi thống kê ở mọi quần thể, chúng ta đều thấy tỷ lệ bệnh, tật di truyền đa nhân tố cao trong họ hàng của người có tật bệnh. Tần số tái xuất hiện bệnh tật ở những người họ hàng càng gần với các bệnh nhân, tỷ lệ tái mắc càng cao. Ví dụ, tật sứt môi, nứt khẩu cái có tần số tái mắc ở những bậc họ hàng với người bệnh như trong bảng 8.7.

Bảng 8.7. Tần số tái mắc tật sứt môi, nứt khẩu cái ở các thế hệ

Quan hệ

% tái mắc

So với quần thể tỷ lệ tái mắc cao gấp

Họ hàng bậc 1

4.1

X 40 lần

Họ hàng bậc 2

08

X 8 lần

Họ hàng bậc 3

0 3

X 3 lần

Có độ di truyền cao: vai trò của di truyền trong việc quyết định sự hình thành tính trạng, bệnh, tật di truyền đa nhân tố còn được thể hiện rõ khi nghiên cứu ở các cặp sinh đôi. Người ta thấy các tính trạng, bệnh, tật di truyền đa nhân tố ở các cặp sinh đôi một hợp tử có độ tương hợp cao hơn nhiều so với ở các cặp sinh đôi 2 hợp tử. Như vậy, nếu tính độ di truyền thì các tính trạng, bệnh, tật di truyền đa nhân tố có độ di truyền cao (bảng 8.8).

Bảng 8.8 . Tỷ lệ (%) tương hợp về bệnh, tật di truyền đa nhân tố ở các cặp sinh đôi

Tên hệnh

Sinh đôi 1 hợp tử

Sinh đôi 2 hợp tử

Sứt môi và nứt khẩu cái

40

4

Bàn chân vẹo

30

2

Trật khớp háng bẩm sinh

33

3

Tâm thần phân liệt

60

10

Đái tháo đường phụ thuộc insulin

50

10

Các bệnh, tật di truyền đa nhân tố hầu hết có độ di truyền cao.

Bảng 8.9 thống kê một số bệnh di truyền đa nhân tố, có so sánh với các bệnh do môi trường như sởi.

5.2. Bằng chứng về vai trò môi trường trong việc quyết định kiểu hình của các tính trạng, tật, bệnh di truyền đa nhân tố

Nếu các tính trạng, tật, bệnh di truyền đa nhân tố hoàn toàn do di truyền quyết định, thì tỷ lệ tương hợp về bệnh ở những cặp sinh đôi một hợp tử phải là 100%. Tuy nhiên, khi thống kê độ tương hợp với các tính trạng, bệnh, tật di truyền đa nhân tố ở các trẻ sinh đôi một hợp tử, tỷ lệ tương hợp bao giờ cũng nhỏ hơn 100%, chứng tỏ đã có vai trò của môi trường trong việc hình thành kiểu hình của tính trạng, tật, bệnh di truyền đa nhân tố.

6. DỰ báo nguy Cơ tái hiện bệnh ở thế hệ sau

Để dự báo nguy cơ tái mắc tật, bệnh di truyền ở thế hệ sau, chúng ta cần chú ý 5 nguyên tắc sau:

6.1. Tính nguy cơ tái mắc dựa vào nguy cơ kinh nghiệm

Các tính trạng, tật, bệnh di truyền khác nhau có số lượng gen quy định khác nhau, vai trò của các nhân tố môi trường với từng loại tính trạng, tật, bệnh cũng khác nhau. Vì vậy, không thể có một công thức tính nguy cơ tái mắc chung cho các tính trạng, tật, bệnh di truyền đa nhân tố. Để giải quyết những khó khăn trên, người ta thống kê ở quần thể. Ví dụ khi thống kê ở nhiều gia đình có người bị sứt môi - nứt khẩu cái người ta thấy họ hàng bậc 1 của bệnh nhân có tỷ lệ tái mắc là 4,1%, họ hàng bậc 2 là 0,8%. Những con số này gọi là nguy cơ kinh nghiệm dùng để dự báo nguy cơ cho các trường hợp cụ thể.

6.2. Nguy cơ tái mắc ở các thế hệ càng xa với bệnh nhân thì càng giảm

Vì những người họ hàng càng xa bệnh nhân sẽ có kiểu gen càng ít giống với bệnh nhân nên nguy cơ tái mắc càng ít. Trong nhiều trường hợp các con số thống kê kinh nghiệm không cho chúng ta biết đầy đủ các khả năng tái mắc ở các thế hệ thì chúng ta có thể dùng nguyên tắc này để dự báo một cách tương đối. Ví dụ trong con số thống kê kinh nghiệm của bệnh động kinh chỉ có hai trường hợp được đề cập: bố hoặc mẹ và một người con bị bệnh thì tỷ lệ tái mắc là 15%, nếu bố mẹ bình thường, chỉ có một con bị bệnh thì tỷ lệ tái mắc là 3%. Ở đây các con số thống kê chỉ cho ta biết tỷ lệ dự đoán ở họ hàng bậc 1. Nếu một gia đình muốn biết khả năng tái mắc ở họ hàng bậc 2 thì chúng ta biết tỷ lệ tái mắc sẽ nhỏ hơn 3%.

6.3. Nguy cơ tái mắc tăng lên theo số người mắc trong gia đình

Cũng với bệnh sứt môi - nứt khẩu cái, nếu có một người trong gia đình bị bệnh thì nguy cơ tái mắc ở họ hàng bậc 1 là 4,1%, nhưng nếu có 2 người trong một gia đình cùng có biểu hiện bệnh thì tỷ lệ tái mắc là 10%. Nguyên tắc này chúng ta cũng có thể dùng để dự báo tỷ lệ tái mắc khi không có thông tin thống kê đầy đủ: ví dụ bệnh động kinh họ hàng bậc 1 có 2 người bị bệnh thì tỷ lệ tái mắc là 15%, nếu một gia đình nào đó mà họ hàng bậc 1 đã có 3 người mắc bệnh thì tỷ lệ tái mắc sẽ rất cao, cao hơn 15%.

6.4. Nguy cơ tái mắc tăng theo độ trầm trọng của bệnh, tật

Ở bệnh sứt môi - nứt khẩu cái con số tính chung tỷ lệ tái mắc ở họ hàng bậc 1 là khoảng 4%, tuy nhiên nếu trẻ chỉ bị sứt môi một bên, không có nứt khẩu cái thì tỷ lệ tái mắc ở họ hàng bậc 1 chỉ khoảng 2,5%, nếu trẻ bị sứt môi cả hai bên và bị nứt khẩu cái thì tỷ lệ tái mắc là 6%. Có thể ở những người bệnh nặng, số lượng các gen bệnh nhiều hơn, vì vậy, ở họ hàng của bệnh nhân, số lượng gen cần đạt tới ngưỡng để biểu hiện thành bệnh cũng có tỷ lệ cao hơn những trường hợp bệnh nhẹ.

6.5. Khi có sự khác biệt về tỷ lệ biểu hiện bệnh giữa nam và nữ thì giới có tỷ lệ bệnh cao ngưỡng bệnh sẽ thấp

Tỷ lệ biểu hiện bệnh nhiều khi có liên quan đến giới, ở những giới có ngưỡng bệnh thấp (chỉ cần ít gen bệnh hoặc tác động của môi trường không nhiều đã có thể biểu hiện bệnh), khả năng xuất hiện bệnh sẽ dễ hơn, tỷ lệ bệnh sẽ cao hơn. Giới có ngưỡng bệnh thấp (ít gen bệnh đã biểu hiện bệnh), số lượng gen bệnh truyền cho thế hệ sau cũng ít. Ví dụ như bệnh hẹp môn vị (đã trình bày ở trên).

TỰ lượng giá

1. Phân biệt khái niệm di truyền đa gen và di truyền đa nhân tố.

2. Trình bày đặc điểm của di truyền đa nhân tố.

3. Trình bày di truyền trí tuệ, phân tích vai trò của di truyền và môi trường trong việc quyết định trí tuệ.

4. Trình bày tật thai vô sọ và nứt đốt sống, phân tích ảnh hưởng của môi trường tới sự tái xuất hiện của tật này ở thế hệ sau.

5. Trình bày tật sứt môi và nứt khẩu cái, phân tích đặc điểm ngưỡng liên quan đến sự tái xuất hiện tật này.

6. Trình bày tật hẹp môn vị, phân tích yếu tố ngưỡng trong tật hẹp môn vị.

7. Trình bày bệnh loét dạ dày tá tràng, phân tích vai trò của di truyền và môi trường trong loét dạ dày tá tràng.

8. Trình bày các nguyên tắc dự báo nguy cơ tái xuất hiện bệnh tật di truyền đa nhân tố.

Từ khóa » Các Bệnh Di Truyền đa Nhân Tố