DỊCH THUẬT (PHẦN 3): TỤC TỬ BẤT NGỮ 續子不語 (VIÊN MAI 袁枚)
Có thể bạn quan tâm
僵屍拒賊 CƯƠNG THI CỰ TẶC (CƯƠNG THI CHỐNG TRỘM)
杭州洋市街石牌樓販魚人,每五鼓出艮山門販魚,見樹林內燈光隱隱,有美女子獨坐紡績。每日如此,並無別人,疑為鬼,亦不懼。一日,有白鬚叟語之曰:「君慕此女,欲以為妻乎?我有法,依教則事可圖。明早須持一飯糰闖入彼室,誘彼開口,則以飯塞其口,負之而歸,勿令見天光,便與人無異矣。」如其教,果得此女。閉樓中,伉儷甚篤。年餘生子,亦能飲食,天陰則下樓執炊。積廿餘年,娶媳生孫,家亦小康,開茶肆。一日,天大熱,目光如火,其媳聞姑下樓,至梯無聲。視之,有血水一攤,變作僵屍。其夫心知其故,亦不甚痛苦,但買棺收殮,每夜於棺中出入。嘗有賊入前門,有人擋之;入後門,又有人擋之,皆僵屍為之護衛也。

Phiên âm: Hàng châu Dương thị nhai Thạch Bi lâu phiến ngư nhân, mỗi ngũ cổ xuất Lương Sơn Môn phiến ngư, kiến thụ lâm nội đăng quang ẩn ẩn, hữu mỹ nữ tử độc toạ phưởng tích. Mỗi nhật như thử, tịnh vô biệt nhân, nghi vi quỷ, diệc bất cụ. Nhất nhật, hữu bạch tu tẩu ngứ chi viết: “Quân mộ thử nữ, dục dĩ vi thê hồ? Ngã hữu pháp, y giáo tắc sự khả đồ. Minh tảo tu trì nhất phạn đoàn sấm nhập bỉ thất, dụ bỉ khai khẩu, tắc dĩ phạn tắc kỳ khẩu, phụ chi nhi quy, vật lệnh kiến thiên quang, tiện dữ nhân vô dị hỹ”. Như kỳ giáo, quả đắc thử nữ, bế lâu trung, kháng lệ thậm đốc. Niên dư sinh tử, diệc năng ẩm thực, thiên âm tắc hạ lâu chấp xuy. Tích nhập dư niên, thú tức sinh tôn, gia diệc tiểu khang, khai trà tứ. Nhất nhật, thiên đại nhiệt, mục quang như hoả, kỳ tức văn cô hạ lâu, chí thê vô thanh. Thị chi, hữu huyết thủy nhất than, biến tác cương thi. Kỳ phu tâm tri kỳ cố, diệc bất thậm thống khổ, đãn mãi quan thu liễm, mỗi dạ ư quan trung xuất nhập. Thường hữu tặc nhập tiền môn, hữu nhân đáng chi; nhập hậu môn, hựu hữu nhân đáng chi, giai cương thi vị cho hộ vệ dã.
Dịch nghĩa: Tại lầu Thạch Bi, trên con đường thuộc phố Dương, Hàng Châu có một người bán cá, năm canh mỗi ngày ra khỏi Lương Sơn Môn bán cá, thấy trong rừng rậm, đèn sáng leo lét, có một mỹ nữ một mình ngồi xe sợi. Mỗi ngày đều như thế, lại chẳng có người nào khác, nghi là quỷ song cũng chẳng sợ.
Một ngày nọ, có một ông lão râu tóc bạc phơ nói với người bán cá rằng: “Ngài mến người nữ nầy, muốn lấy làm vợ chăng? Ta có cách, cứ theo lời mà làm thì việc có thể thành. Sáng sớm hôm sau cần cần một nắm cơm xông vào căn thất nàng ta, dụ nàng ta mở miệng (sau đó) lập tức lấy nắm cơm nhét vào trong miệng, cõng nàng ta rồi mang trở về, chỉ cần đừng để nàng ta thấy ánh sáng mặt trời, như thế so với người bình thường chẳng có gì khác biệt vậy”. Người đánh cá làm như lời dạy, quả nhiên lấy được người nữ tử ấy. Hắn mang nàng ta vào trong lầu đóng cửa lại, kết duyên chồng vợ vô cùng thắm thiết. Hơn một năm thì nàng ta sinh con, cũng có thể ăn uống được (như người thường), trời tối thì xuống lầu thổi cơm. Hơn hai mươi năm sau, đứa con (của họ) cưới vợ sinh ra cháu chắt (trong nhà), gia đình cũng thuộc dạng thường thường bậc trung và có mở một quán trà.
Một ngày nọ, trời nóng hừng hực, ánh mắt (người vợ kẻ bán cá) quắc sáng như lửa, người con dâu nghe tiếng mẹ chồng xuống lầu, đến bực thang thì bặt tiếng. Cô đi tới xem, thấy có một vũng màu lênh láng trên đất, còn mẹ chồng thì biến thành cương thi. Tâm người chồng (tức người bán cá) dẫu biết việc đó song cũng không quá đau khổ, chỉ mua một cỗ quan tài tẩm liệm, cứ mỗi đêm lại từ trong linh cữu bước ra bước vào. Từng có một tên trộm vào nhà từ cửa trước, nhưng lại bị người chặn lại. Trộm lại vào từ cửa sau, vẫn bị người chặn lại, (người ấy chính là người vợ cương thi của kẻ bán cá) đều do cương thi vì thương chồng mà bảo vệ (gia thất) vậy.
鵬糞 BẰNG PHẨN (PHÂN CHIM BẰNG)
康熙壬子春,瓊州近海人家忽見黑雲蔽天而至,腥穢異常,有老人云:「此鵬鳥過也,慮其下糞傷人,須急避之。」一村盡逃。俄而天黑如夜,大雨傾盆。次早往視,則民間屋舍盡為鵬糞壓倒。從內掘出糞,皆作魚蝦腥。遺毛一根,可覆民間十數間屋,毛孔中可騎馬穿走,毛色墨,如海燕狀。

Phiên âm: Khang Hi Nhâm Tí xuân, Quỳnh châu cận hải nhân gia hốt kiến hắc vân tế thiên nhi chí, tinh uế dị thường, hữu lão nhân vân: “Thử bằng điểu quá dã, lự kỳ hạ phẩn thương nhân, tu cấp tị chi”. Nhất thôn tận đào. Nga nhi thiên hắc như dạ, đại vũ khuynh bồn. Thứ tảo vãng thị, tắc dân gian ốc xá tận vi bằng phẩn áp đảo. Tòng nội quật xuất phẩn, giai tác ngư hà tinh. Quý mao nhất căn, khả phúc dân gian thập sổ gian ốc, mao khổng trung khả kị mã xuyên tẩu, mao sắc mặc, như hải yến trạng.
Dịch nghĩa: Mùa xuân năm Nhâm Tí niên hiệu Khang Hi, người dân vùng cận biển ở châu Quỳnh đột nhiên thấy mây đen kéo tới che hết bầu trời, phát mùi tanh uế dị thường, có một vị lão nhân nói: “Đó là chim bằng bay ngang qua đó, e rằng nó sẽ thả phân xuống làm hại người, cần mau tránh đi”. Cả thôn trốn hết. Trong chốc lát, trời đen như ban đêm, mưa lớn làm đổ cả chậu. Đến khi trời sáng nhìn qua ngó lại, bỗng chốc nhà cửa ốc xá khắp nơi đâu đâu cũng đều bị phân chim bằng đè lên. Phân được đào ra từ bên trong đều có mùi tanh của tôm cá. Còn sót lại một sợi lông, có thể che hơn mười gian nhà trong thôn, có thể cưỡi ngựa đi xuyên vào trong lỗ lông, lông có sắc đen, như giống chim hải yến.
彭祖舉柩 BÀNH TỔ CỬ CỮU (BÀNH TỔ DI QUAN)
商彭祖卒於夏六月三日,其舉柩日,社兒等六十人皆凍死,就葬於西山下,其六十人墓,至今猶在,號曰「社兒墩」。又墓前有薤林,春不種而生,秋不收而枯。或人妄加耕鋤墓旁,則雷雨大作。

Phiên âm: Thương Bành Tổ tốt ư hạ lục nguyệt tam nhật, kỳ cử cữu nhật, Xã Nhi đẳng lục thập nhân giai đống tử, tựu táng ư Tây Sơn hạ, kỳ lục thập nhân mộ, chí kim do tại, hiệu viết “Xã nhi quách”. Hựu mộ tiền hữu giới lâm, xuân bất chúng nhi sinh, thu bất thu nhi khô. Hoặc nhân vọng như canh sừ mộ bàng, tắc lôi vũ đại tác.
Dịch nghĩa: Bành Tổ đời nhà Thương chết vào ngày ba mùa hạ tháng sáu, vào ngày di quan của ông, sáu mươi người Xã Nhi (danh xưng những người khiêng quan tài ông) đều bị chết cóng, nhân dân bèn chôn họ dưới chân núi Tây Sơn, mộ của sáu mươi người ấy đến nay vẫn còn, gọi là “Xã Nhi quách”. Lại ở trước mộ có rừng rau kiệu, mùa xuân không trồng mà nở, mùa thu không thu mà khô. Nếu có kẻ nào tùy tiện cuốc bừa lên mộ hay xung quanh, mưa sấm đùng đùng ắt sẽ kéo đến.
佛奴穿母脅生 (PHẬT NÔ XUYÊN MẪU HIẾP SINH – PHẬT NÔ LUỒN QUA BE SƯỜN CỦA MẸ MÀ SINH RA)
錫山尤少師時享之子平貞娶王氏,產一女,從左脅下出,名曰佛奴。慧性異常,五歲舉止如成人。至秋,漸不食,形體日小。一日,母脅復開,女便躍入,母即痛死,以僧家法焚之,築小塔於赤石嶺葬焉。平貞念妻女,不兩月亦死。餘素聞䱜魚率小魚而遊,倘受人驚,則仍奔入母腹中,不料人亦如之。
Phiên âm: Tích sơn Vưu Thiếu Sư Thời Hưởng chi tử Bình Trinh thú Vương thị, sản nhất nữ, tòng tả hiếp hạ xuất, danh viết Phật Nô. Tuệ tính dị thường, ngũ tuế cử chỉ như thành nhân. Chí thu, tiệm bất thực, hình thể nhật tiểu. Nhất nhật, mẫu hiếp phục khai, nữ tiện dược nhập, mẫu tức thống tử, dĩ tăng gia pháp phần chi, trúc tiểu tháp ư Xích Thạch lĩnh táng yên. Bình Trinh niệm thê nữ, bất lưỡng nguyệt diệc tử. Dư tố văn thước ngư suất tiểu ngư nhi du, thảng thụ nhân kinh, tắc nhưng bôn nhập hải phúc trung, bất liệu nhân diệc như thử.
Dịch nghĩa: Bình Trinh, con của quan Thiếu Sư họ Vưu, tên Thời Hưởng ở Tích Sơn cưới Vương thị, sinh ra một người con gái, ở dưới be sườn bên trái, đặt tên là Phật Nô. Tuệ tính dị thường, năm tuổi mà cử chỉ như người trưởng thành. Đến mùa thu, dần bỏ ăn, hình thể ngày một bé lại. Một ngày nọ, be sườn người mẹ lại mở ra, người con gái nhân đó liền nhảy vào, người mẹ tức thì đau đến nỗi mất mạng, (người nhà) nhân đó dùng pháp phật môn mà hoả táng bà, xây một toà tháp nho nhỏ ở trên đỉnh Xích Thạch và mai táng ở đó. Bình Trinh hoài nhớ vợ con, chưa đầy hai tháng cũng qua đời nốt. Ta vốn thường nghe cá thước dẫn theo cá con bơi lội, nếu bị người làm cho kinh hãi, ắt sẽ chạy vào trong bụng của mẹ (mà trốn), không ngờ ngay cả con người cũng có chuyện như vậy.
人變樹 NHÂN BIẾN THỤ (NGƯỜI BIẾN THÀNH CÂY)
外國兀魯特及回部民從不肯自盡,云自盡者必變樹,樹易招斬伐,故不願也。秦中明府蔣雲驤云。

Phiên âm: Ngoại quốc Ngột Lỗ Đặc cập Hồi Bộ dân tòng bất khẳng tự tận, vân tự tận giả tất biến thụ, thụ dị chiêu trảm phạt, cố bất nguyện dã. Tần Trung Minh phủ Tưởng Vân Tương vân.
Dịch nghĩa: Nước Ngột Lỗ Đặc (Chỉ Mông Cổ) và người dân Hồi Bộ (Chỉ bộ phận người theo đạo Hồi) từ trước tới nay không chịu tự tử, nói rằng người tự tử ắt biến thành cây, mà cây thì dễ mời người đến chặt phá, cho nên không chịu vậy. Tưởng Vân Tưởng trong phủ Tần Trung Minh nói vậy.
黑牡丹 HẮC MẪU ĐƠN (MẪU ĐƠN ĐEN)
福建惠安縣有青山大王廟,廟之階下所種皆黑牡丹。花開時數百,朵朵皆向大王神像而開。移動神像,花亦轉面向之。

Phiên âm: Phúc Kiến Huệ An huyện hữu Thanh Sơn đại vương miếu, miếu chi bệ hạ sở chúng giai hắc mẫu đơn. Hoa khai thời sổ bách, đoá đoá giai hướng đại vương thần tượng nhi khai. Di động thần tượng, hoa diệc chuyển diện hướng chi.
Dịch nghĩa: Huyện Huệ An, tỉnh Phúc Kiến có miếu Đại vương Thanh Sơn, thứ trồng dưới bậc thềm dưới của miếu đều là mẫu đơn đen. Lúc hoa nở thì nở chừng vài trăm đoá, đoá nào đoá nấy đều hướng về thần tượng của đại vương mà nở. Nếu di chuyển thần tượng đến chỗ nào thì hoa cũng chuyển hướng hướng đến chỗ đó.
禪師吞蛋 THIỀN SƯ THÔN ĐẢN (THIỀN SƯ NUỐT TRỨNG)
得心禪師行腳至一村乞食,村中人皆澆薄,尤多惡少年,語師曰:「村中施酒肉,不施蔬筍,果然餓三日,當備齋供。」至三日,請師赴齋,依舊酒肉雜陳,蓋欲師饑不擇食,以取鼓掌捧腹之快。師連取雞蛋數個吞之,說偈曰:「混沌乾坤一口包,也無皮血也無毛。老僧帶爾西天去,免受人間宰一刀。」眾人相顧若失,遂供養村中。

Phiên âm: Đắc Tâm thiền sư hành cước chí nhất thôn khất thực, thôn trung nhân giai kiêu bạc, vưu đa ác thiếu niên, ngứ sư viết: “Thôn trung thí tửu nhục, bất thí sơ duẩn, quả nhiên ngạ tam nhật, đương bị trai cúng”. Chí tam nhật, thỉnh sư phó trai, y cựu tửu nhục tạp trần, cái dục sư cơ bất trạch thực, dĩ thủ cổ chưởng phủng phúc chi khoái. Sư liên thủ kê đản sổ cá thôn chi, thuyết kệ viết: “Hỗn độn càn khôn nhất khẩu bao, dã vô bì huyết dã vô mao. Lão tăng đái nhĩ Tây Thiên khứ, miễn thụ nhân gian tể nhất đao”. Chúng nhân tương cố nhược thất, toại cung dượng thôn trung.
Dịch nghĩa: Thiền sư Đắc Tâm vân du đến một thôn nọ khất thực, người trong thôn ai nấy đều khinh miệt ngài, rất nhiều thiếu niên ác tâm, nói với sư rằng: “Trong thôn chỉ bố thí rượu thịt, không bố thí rau măng, nếu ngài chịu đói ba ngày, thì (chúng tôi) sẽ chuẩn bị thiết trai cúng ngài”. Đến ngày thứ ba, họ thỉnh sư đến thực trai, vẫn bày biện rượu thịt như cũ, đại để muốn sư đói (vì) không chọn được thức ăn, mong thoả cái sự thích chí ôm bụng vô tay (nhạo báng) của mình. Sư liền lấy mấy cái trứng gà rồi nuốt, nói bài kệ rằng: “Càn khôn hỗn độn đựng trong mồm, Chẳng da chẳng máu cũng chẳng lông. Lão tăng mang ngươi đến cõi phật, Thoát cảnh người giết, bị đao vung”. Bọn người nhìn nhau ý như vừa mất thứ gì đó (hoát nhiên đại ngộ), bèn mời sư vào trong thôn cúng dường.
動靜石 ĐỘNG TĨNH THẠCH (ĐÁ ĐỘNG TĨNH)
南雁宕有動靜石三座,大如七架梁之屋,一動一靜,上下相壓。遊者臥石上,以腳撐之,雖七八歲童子,能使離開尺許,轟然有聲。倘用手推,雖輿夫十餘人,不能動其毫末。此皆天地間物理,有不可解者。

Phiên âm: Nam Nhạn đãng hữu Động Tĩnh thạch tam toạ, đại như Thất giá lương chi ốc, nhất động nhất tĩnh, thượng hạ tương áp. Du giả ngoạ thạch thượng, dĩ cước sanh chi, tuy thất bát tuế đồng tử, năng sử li khai xích hử, oanh nhiên hữu thanh. Thảng dụng thủ thôi, tuy dư phu thập dư nhân, bất năng động kì mao mạt. Thử giai thiên địa gian vật lí, hữu bất khả giải giả.
Dịch nghĩa: Mỏ hang ở Nam Nhạn có ba toà đá tên gọi đá Động Tĩnh, lớn như nhà có cầu thất giá (bảy cây chống), một động một tĩnh, trên dưới đè lên nhau. Người du ngoạn nằm trên đá, dùng chân đẩy đá đi, dẫu một đứa trẻ bảy tám tuổi, cũng có thể di chuyển được mấy thước, có tiếng ầm ầm. Nếu dùng tay để đẩy thì dù có hơn mươi người phu xe cũng chẳng thể lay động được mảy may tí gì. Đây đều là cái lý của vật trong cõi thiên địa nhưng có chỗ không thể lí giải được.
玉女峰 NGỌC NỮ PHONG (NÚI NGỌC NỮ)
雁宕有石如女子獨立,長五丈餘,頭有髻形。杜鵑花開,紅滿一頭,恰無一朵拂其面上者。袍色微紅,裙色慘綠,若天然染就狀,界畫分明。衣褶之痕,宛然若織。

Phiên âm: Nhạn đãng hữu thạch như nữ tử độc lập, trường ngũ trượng dư, đầu hữu kế hình. Đỗ quyên hoa khai, mãn hồng nhất đầu, kháp vô nhất đoá phất kì diện thượng dã. Bào sắc vi hồng, quần sắc thảm lục, nhược thiên nhiên nhiễm tựu trạng, giới hoạch phân minh. Y điệp chi ngân, uyển nhiên nhược chức.
Dịch nghĩa: Hang Nhạn có tảng đá hình dạng như người con gái đứng một mình, dài hơn năm thước, trên đầu có hình búi tóc. Lúc hoa đỗ quyên nở, đỏ khắp một đầu, vừa hay chẳng mảy thứ gì động đậy phơn phớt trên mặt. Sắc áo hồng nhạt, màu quần xanh đậm, ví như thiên nhiên nhuộm nên hình trạng nầy, giới hoạch rõ ràng. Vết nếp gấp áo, y nhiên như may như vá.
鵬過 BẰNG QUÁ (CHIM BẰNG BAY QUA)
康熙六十年,餘才七歲,初上學堂。七月三日,才吃午飯,忽然天黑如夜,未數刻而天漸明,紅日照耀,空中無片雲。或云:「此大鵬鳥飛過也。」莊週所云「翼若垂天之雲」,竟非虛語。
Phiên âm: Khang Hi lục thập niên, dư tài thất tuế, sơ thượng học đường. Thất nguyệt tam nhật, tài cật ngọ phạn, hốt nhiên thiên hắc như dạ, vị sổ khắc nhi thiên tiệm minh, hồng nhật chiếu diệu, không trung vô phiến vân. Hoặc vân: “Thử đại bằng điểu phi quá dã”. Trang Chu sở vân: “Dực nhược thùy thiên chi vân”, cánh phi hư ngữ.
Dịch nghĩa: Năm sáu mươi niên hiệu Khang Hi, ta mới bảy tuổi, mới lên học đường. Ngày 3 tháng 7, mới ăn cơm trưa, đột nhiên trời đen như ban đêm, chưa đến vài khắc mà trời đã dần sáng trở lại, mặt trời đỏ ửng chiếu rọi, trên không không một phiến mây. Có kẻ nói: “Đây là do chim bằng lớn bay qua đó”. Trang Chu có nói: “Cánh (chim bằng) như mây che hết bầu trời”, thực chẳng nói ngoa.
琴變 CẦM BIẾN
金陵吳觀星工琴,嘗為餘言:琴是先王雅樂,不過口頭語耳,未之信也。年五十時,為趙都統所逼,命彈《寄生草》,旁有伶人唱淫冶小調以和之。忽然風雷一聲,七弦俱斷,仰視青天,並無雲彩,都統舉家失色。從此遇公卿彈琴,必焚香淨手,非古調不彈矣。

Phiên âm: Kim Lăng Ngô Quan Tinh công cầm, thường vi dư ngôn: Cầm thị tiên vương nhã lạc, bất quá khẩu đầu ngữ nhĩ, vị chi tín dã. Niên ngũ thập thời, vi Triệu Đô Thống sở bức, mệnh đàn “kí sinh thảo”, bàng hữu linh nhân xướng dâm dã tiểu điệu dĩ hoạ chi. Hốt nhiên phong lôi nhất thanh, thất huyền câu đoạn, nghênh thị thanh thiên, tịnh vô vân thái, Đô Thống cử gia thất sắc. Tòng thử ngộ công khanh đàn cầm, tất phần hương tịnh thủ, phi cổ điệu bất đàn hỹ.
Dịch nghĩa: Nghệ sĩ đánh đàn Ngô Quan Tinh ở Kim Lăng từng nói với ta rằng: Đàn là thú vui tao nhã của tiên vương, chẳng qua chỉ là lời ngoài miệng mà thôi, chưa thể tin được. Năm Ngô Quan Tinh 50 tuổi, bị Triệu Đô Thống bức ép, ra lệnh đàn bài “Kí sinh thảo” (Cỏ sống nhờ), bên cạnh có tên đào hát, xướng một tiểu khúc có hướng dâm dật lẳng lơ để hoạ lại. Đột nhiên gió sấm đánh lên một tiếng, bảy dây cùng đứt, ngước nhìn trời xanh, chẳng một ráng mây, cả nhà Đô Thống thất sắc. Từ đó trở đi hễ gặp bậc công khanh đánh đàn, ắt phải thắp hương rửa tay và không phải điệu cổ thì không đàn.
女化男 NỮ HOÁ NAM
乾隆四十六年,長沙西城之長安坊,地名青石井。有把總安姓者,一女五歲,與張守備家為養媳,其姑遇之嚴,少有忤,輒鞭笞交下,不勝其苦。十三歲,逃歸父家。張向安索女,安以女未及笄,不願鬻養姑家,且留家,俟有吉期,備禮遣嫁。張無奈,聽之。及女年十七,婿亦長大,張擇期以告,安亦備奩具擬嫁女。女知斯近,而畏姑嚴,終夜哭泣,向天叩禱求速死,不願出閣。母見女如此,頗憐之,曰:「汝徒哭泣求死無益,若籲天能變得男身,便可免嫁。」是夕,女夢一老人手持三丸,如彈大,二紅一白,納其口而去。比寤後,覺小腹極熱,喉痛異常。不一炊頃,陽出於戶,竟成偉男,項下結喉突起。驚疑以告母,驗之不謬。安夫婦無子,只此女,一旦成男,喜甚,往告張。以事屬怪誕,疑安捏飾賴婚,控於縣。時邑令山西黨公兆熊拘女到案驗之,貌猶是女,而陰頭鮮紅,確係男子,勢難行嫁。命安將奩盜貼張,為代聘一女,以予其子。當堂令安女放腳剃髮,脫珥著靴,改男裝而去。

Phiên âm: Càn Long tứ thập lục niên, Trường Sa Tây thành chi Trường An phường, địa danh Thanh Thạch tỉnh. Hữu Bả tổng An tính giả, nhất nữ ngũ tuế, dữ Trương Thủ bị gia vi dưỡng tức, kỳ cô ngộ chi nghiêm, thiểu hữu ngỗ, triếp tiên si giao hạ, bất thăng kỳ khổ. Thập tam tuế, đào quy phụ gia. Trương hướng An sách nữ, An dĩ nữ vị cập kê, bất nguyện dục dưỡng cô gia, thả lưu gia, sĩ hữu cát kì, bị lễ khiển giá. Trương vô nại, thính chi. Cập nữ niên thập thất, tế diệc trưởng đại, trương trạch kì dĩ cát, An diệc bị liêm cụ nghĩ giá nữ. Nữ tri tư cận, nhi úy cô nghiêm, chung dạ khốc khấp, hướng thiên khấu đảo cầu tốc tử, bất nguyện xuất các. Mẫu kiến nữ như thử, phả liên chi, viết: “Nhữ đồ khốc khấp cầu tử vô ích, nhược dụ thiên năng biến đắc nam thân, tiện khả miễn giá”. Thị tịch, nữ mộng nhất lão nhân thủ trì tam hoàn, như đạn đại, nhị hồng nhất bạch, nạp kỳ khẩu nhi khứ. Bí ngụ hậu, giác tiểu phúc cực nhiệt, hầu thống dị thường. Bất nhất xuy khoảnh, dương xuất ư hộ, cánh thành vĩ nam, hạng hạ kết hầu đột khởi. Kinh nghi dĩ cáo mẫu, nghiệm chi bất mậu. An phu phụ vô tử, chỉ thử nữ, nhất đán thành nam, hỉ thậm, vãng cáo Trương. Dĩ sự chúc quái đản, nghi An niết sức lại hôn, khống ư huyện. Thời Ấp lệnh Sơn Tây Đảng Công Triệu Hùng câu nữ đáo án nghiệm chi, mạo do thị nữ, nhi âm đầu tiên hồng, xác hệ nam tử, thế nan hành giá. Mệnh An tương liêm đạo thiếp trương, vi đại sính nhất nữ, dĩ dư kỳ tử. Đương đường lệnh An nữ phóng cước thế phát, thoát nhị trước ngoa, cải nam trang nhi khứ.
Dịch nghĩa: Năm Càn Ling thứ 46, phường Trường An, thành phía Tây của Trường Sa có một địa danh là làng Thanh Thạch. Có người Bả tổng (tên một chức quan đời Thanh) họ An, có một người con gái năm tuổi, được gia đình dự sẵn nuôi làm con dâu cho nhà Trương Thủ, người mẹ chồng nhà bên đối đãi nghiêm khắc với đứa con gái, thuở nhỏ nếu có điều ngỗ nghịch, liền bị vụt roi tới tấp, khổ cực khôn xiết. 13 tuổi, cô trốn về nhà cha. Trương (dốc sức) tìm người con gái ở nhà An, An vì con gái chưa đến tuổi cập kê nên không chịu cho đi dục dưỡng nhà mẹ chồng, hơn nữa muốn lưu lại trong nhà, chờ đến ngày lành, chuẩn bị hôn lễ mới cho đi xuất giá. Trương không còn cách nào khác, bèn nghe theo.
Đến khi người con gái được 17 tuổi, rễ cũng đã trưởng thành, Trương chọn ngày lành để báo, An cũng chuẩn bị sẵn tráp (đưa dâu) đồ đạc, định liệu mà gả con đi. Người con gái biết ngày cưới gần kề, song sợ sự uy nghiêm của mẹ chồng, suốt đêm khóc lóc, ngẩng đầu lên trời cầu mong chóng chết chứ không chịu ra khỏi nhà. Người mẹ thấy con gái như thế, có phần thương cảm, bèn nói: “Ngươi chỉ biết khóc lóc cầu chết như thế luống cũng vô ích, nếu như thỉnh cầu được trời xanh biến ngươi thành thân nam, mới có thể tránh được cảnh xuất giá“. Đêm ấy, người con gái mộng thấy một vị lão nhân tay giữ ba viên đan, như hòn bi lớn, hai màu đỏ một màu trắng, nhét vào trong miệng cô rồi bỏ đi. Sau khi tỉnh giấc, nhận thấy bụng dưới cực nóng, cổ họng đau đến lạ thường. Chưa đến một chốc, dương vật ra khỏi âm hộ, cuối cùng trở thành nam nhân tú vĩ, dưới cổ yết hầu mọc lên. Vừa kinh vừa sợ liền nói với mẹ, nghiệm thấy chẳng sai. Vợ chồng An không có con trai, chỉ có đứa con gái này, trong một ngày bỗng hoá thành nam, vui mừng khôn xiết, bèn đến nói với Trương. Vì chuyện thật quái đản, nên Trương nghi ngờ An bịa đặt chối hôn, tố cáo lên huyện.
Lúc ấy Huyện lệnh Sơn Tây là Đảng Công Triệu Hùng cho bắt người con gái đến án đường kiểm tra, dung mạo vẫn như con gái nhưng lại có dương vật đỏ ửng, chắc chắn là nam tử, tình thế này khó mà xuất giá. Lệnh cho An mang tráp đợ người cho Trương, thay thế tìm đón một người con gái khác, để gá cho người con trai của Trương. Công đường lệnh cho người con gái của An tháo bó chân cắt tóc, cởi hoa tai mang giày ủng, cải nam trang rồi cho đi.
Nguyễn Thanh Lộc dịch
Nguồn dịch: http://www.my2852.com/gdwx/xs/bj/xzby/index.htm
Chia sẻ:
- X
Related
Từ khóa » Tử Bất Ngữ Viên Mai
-
Tử Bất Ngữ - Viên Mai - Sách Khai Tâm
-
Tử Bất Ngữ | Tiki
-
DỊCH THUẬT (PHẦN 2) TỤC TỬ BẤT NGỮ 續子不語 (VIÊN MAI 袁枚)
-
Download Sách Tử Bất Ngữ - ub
-
Truyện Tử Bất Ngữ - FAHASA.COM
-
TỬ BẤT NGỮ - Báo Phụ Nữ
-
Tử Bất Ngữ - Nguyễn Văn Cừ
-
Tục Tử Bất Ngữ-Viên Mai | Chương 10 | Truyện Convert Chưa Xác Minh
-
Đọc Tử Bất Ngữ Online - DocMienPhi.Com
-
Tải Về Tử Bất Ngữ Viên Mai Miễn Phí Trong Pdf - Sách
-
Tử Bất Ngữ - Tiểu Thuyết Của Viên Mai - GIẢM 20%
-
Minh Khai Book Store - Tử Bất Ngữ (Tiểu Thuyết Quái Dị)
-
Giới Thiệu Sách - Tử Bất Ngữ - Viên Mai | THƯ VIỆN EBOOK (TVE-4U)