Diện Và Hàng Thừa Kế Theo Quy định Của Bộ Luật Dân Sự 2015

Diện và hàng thừa kế là tiêu chí để xác định việc phân chia di sản của người chết. Vậy diện và hàng thừa kế được pháp luật dân sự quy định thế nào? Diện và hàng thừa kế được xác định dựa vào nội dung nào?

Diện thừa kế

Diện những người thừa kế là phạm vi những người có quyền hưởng di sản thừa kế của người chết theo quy định của pháp luật. Diện những người thừa kế được xác định dựa trên 3 mối quan hệ với người để lại di sản: quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng .

– Quan hệ hôn nhân xuất phát từ việc kết hôn (giữa vợ và chồng).

– Quan hệ huyết thống là quan hệ do sự kiện sinh ra cùng một gốc “ông tổ” (như giữa cụ và ông, bà; giữa ông bà và cha mẹ; giữa cha mẹ đẻ với con; giữa anh chị em cùng cha mẹ, cùng mẹ khác cha, cùng cha khác mẹ).

– Quan hệ nuôi dưỡng là quan hệ dựa trên cơ sò nuôi con nuối, được pháp luật thừa nhận giữa cha, mẹ nuổi và con nuôi.

Diện những người thừa kế được xếp thành ba hàng thừa kế. Thừa kế được phân chia theo nguyên tắc sau: Di sản thừa kế chỉ được chia cho một hàng thừa kế theo thứ tự ưu tiên : 1, 2, 3. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau; những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

Xem thêm: Phân chia di sản thừa kế theo quy định của pháp luật dân sự

Quy định chung về người để lại di sản thừa kế và người thừa kế

Hàng thừa kế

Điều 651 Bộ luật dân sự 2015 (BLDS) quy định Người thừa kế theo pháp luật, theo đó, 

Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

Hàng thừa kế thứ nhất

Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.

Người thừa kế là vợ (chồng)

Cơ sở để vợ, chồng được thừa kế tài sản của nhau là quan hệ vợ chồng. Quan hệ vợ chồng được xác lập thông qua việc kết hôn. Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 (Luật HNGĐ) quy định về đăng ký kết hôn như sau:

– Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật HNGĐ và pháp luật về hộ tịch. Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định này thì không có giá trị pháp lý.

– Vợ chồng đã ly hôn muốn xác lập lại quan hệ vợ chồng thì phải đăng ký kết hôn.

Điều 655 BLDS quy định về Việc thừa kế trong trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung; vợ, chồng đang xin ly hôn hoặc đã kết hôn với người khác như sau:

– Trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại mà sau đó một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản.

– Trường hợp vợ chồng xin li hôn mà chưa được tòa án cho li hôn bằng bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật, nếu một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản.

– Người đang là vợ hoặc chồng của một người tại thời điểm người đó chết thì dù sau đó đã kết hôn với người khác vẫn được thừa kế di sản.

Trong thực tế xảy ra những trường hợp vợ, chồng có mâu thuẫn, không muốn li hôn mà muốn sống riêng nên chia tài sản chung. Sau đó một người chết, về mặt pháp lí thì họ vẫn là vợ chồng, do đó người còn sống vẫn được thừa kế di sản của người đã chết.

Khi người chồng hoặc vợ chết thì người vợ hoặc người chồng là người thừa kế hàng thứ nhất. Nếu họ không khước từ thừa kế thì đương nhiên có quyền sở hữu đối với phần tài sản mình được thừa kế.

Trong thực tế, do các điều kiện khách quan mà pháp luật nước ta còn thừa nhận hôn nhân thực tế của người chết.

Xem thêm: Đưa tài sản riêng vào tài sản chung của vợ chồng không?

Tuyên bố mất tích và tuyên bố chết theo quy định của pháp luật

Người thừa kế là cha, mẹ, con

Cha, mẹ là người thừa kế hàng thứ nhất của con đẻ và con đẻ là người thừa kế hàng thứ nhất của cha, mẹ đẻ mình. Khái niệm con đẻ bao gồm cả con trong giá thú và ngoài giá thú, cho nên con ngoài giá thú cũng là người thừa kế hàng thứ nhất của cha mẹ mình.

Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế tài sản của nhau và còn được thừa kế tài sản theo quy định về thừa kế thế vị và theo quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ.

Về phía gia đình cha nuôi, mẹ nuôi, con nuôi chỉ có quan hệ thừa kế với cha nuôi, mẹ nuôi mà không có quan hệ thừa kế với cha mẹ và con đẻ của người nuôi con nuôi. Cha mẹ đẻ của người nuôi con nuôi cũng không được thừa kế của người con nuôi đó.

Trường hợp cha nuôi, mẹ nuôi kết hôn với người khác thì người con nuôi không đương nhiên trở thành con nuôi của người đó cho nên họ không phải là người thừa kế của nhau theo pháp luật.

Người đã làm con nuôi người khác vẫn có quan hệ thừa kế với cha, mẹ đẻ, ông nội, ông ngoại, bà nội, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột, bác, cô, dì, chú, cậu ruột như người không làm con nuoi của người khác.

Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế tài sản của nhau và còn được thừa kế thế vị và thừa kế theo quy định về Quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ tại Điều 653 BLDS.

Xem thêm: Tài sản không có người thừa kế xử lý thế nào?

Hàng thừa kế thứ hai

Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại.

Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là những người thừa kế hàng thứ hai của cháu nội, cháu ngoại. Ngược lại, pháp luật dự liệu các trường hợp người chết không còn các con hoặc có con nhưng con không có quyền thừa kế, từ chối nhận di sản thì cháu sẽ được thừa kế của ông, bà.

Anh ruột, chị ruột, em ruột là người thừa kế hàng thứ hai của nhau. Anh ruột, chị ruột, em ruột là anh chị em cùng mẹ hoặc cùng cha. Một người mẹ có bao nhiêu con đẻ thì bấy nhiêu người con đó là anh, chị, em ruột của nhau, không phụ thuộc vào việc các người con cùng cha hay khác cha, là con trong giá thú hay ngoài giá thú.

Con riêng của vợ và con riêng của chồng không phải là anh chị em ruột của nhau

Con nuôi của một người không đương nhiên trở thành anh, chị, em của con đẻ người đó. Do đó, con nuôi và con đẻ của một người không phải là người thừa kế hàng thứ hai của nhau vì họ không phải là anh, chị, em ruột.

Người làm con nuôi của người khác vẫn là người thừa kế hàng thứ hai của anh chị em ruột của mình. Người có anh, chị, em ruột làm con nuôi của người khác vẫn là người thừa kế hàng thứ hai của người đã làm con nuôi của người khác đó.

Hàng thừa kế thứ ba

Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

Cụ nội của một người là người sinh ra ông nội hoặc bà nội của người đó. Cụ ngoại của một người là người sinh ra ông ngoại hoặc bà ngoại của người đó.

Trường hợp cụ nội, cụ ngoại chết không có người thừa kế là con và cháu hoặc có người thừa kế nhưng họ đều từ chối nhận di sản hoặc không có quyền hưởng di sản thì chắt sẽ được hưởng di sản của cụ.

Những người là bác ruột, chú ruột, cô tuột, cậu ruột, dì ruột được hiểu như sau:

– Bác ruột là anh ruột hoặc chị ruột của cha đẻ hoặc mẹ đẻ của cháu. Chú ruột, cô ruột là em ruột của cha đẻ của cháu. Cậu ruột, dì ruột là em ruột của mẹ đẻ của cháu.

– Trường hợp người chết là bác ruột, chú ruột, cô tuột, cậu ruột, dì ruột mà không có người thừa kế hàng thứ nhất và thứ hai hoặc có nhưng họ đều không nhận di sản hay không có quyền nhận di sản thì cháu ruột sẽ được hưởng di sản. Ngược lại, nếu cháu ruột chết mà không có người thừa kế hàng thứ nhất và thứ hai hoặc có nhưng họ không nhận di sản hay không có quyền nhận di sản thì bác ruột, chú ruột, cô tuột, cậu ruột, dì ruột của người chết được hưởng di sản

Trên đây là nội dung Diện và hàng thừa kế theo quy định của Bộ luật dân sự 2015 Lawkey gửi đến bạn đọc. Nếu có thắc mắc, vui lòng liên hệ Lawkey.

Xem thêm: Tài sản không có người thừa kế xử lý thế nào?

Từ khóa » Hàng Thừa Kế Theo Bộ Luật Dân Sự 2015