Đình Bia Bà | Tạp Chí điện Tử Thế Giới Di Sản

“Cầu duyên thì đến chùa Hà,

Cầu tài, cầu lộc thì đi Bia Bà”

Tổng quan về đình Bia Bà

Bia Bà được đặt ở đền Đức Thánh Bà trong đình La Khê. Người dân ở đây thường quen gọi di tích này với tên gọi đình Bia Bà. Sự linh thiêng của ngôi đình cổ được truyền tụng nhau qua một số câu chuyện trong dân gian. Theo truyền thuyết địa phương, một người phụ nữ đi làm đồng khi ngang qua khu Bia Bà đã nhường lại suất ăn của mình cho bà cụ ăn xin. Về sau, người phụ nữ đó ăn nên làm ra và giàu có. Một câu chuyện khác kể rằng, sau khi bị lạc đơn vị, một anh bộ đội đã gặp một bà cụ trên cánh đồng Vang và được nhận một lời khuyên: “Nếu con đi tiếp thì sẽ gặp cướp. Thế nên, con hãy vào trong nhà mẹ mà ngủ. Sáng mai nhớ phải đi về hướng Đông”. Theo chân cụ, anh bước vào một ngôi nhà gianh giữa cánh đồng nhưng sáng sau tỉnh dậy lại thấy mình ngủ trên cái bệ gạch. Nhớ lời chỉ dẫn từ hôm trước của bà cụ, anh đi theo hướng Đông và gặp lại được đơn vị của mình.

Toàn cảnh khuôn viên đình Bia Bà ở La Khê.

Sự huyền bí và linh thiêng của Thánh Bà được lưu truyền trong các truyền thuyết địa phương khiến cho Bia Bà ngày càng nổi tiếng. Theo người dân La Khê, Thánh Bà không làm hại ai bao giờ, nhưng đã nổi giận khi địa phương cho người phá Bia Bà bởi sự phức tạp đem tới từ những du khách đến đây ngày càng đông. Tuy nhiên, ngay buổi ra quân phá di tích tâm linh này, rắn mào ở đâu bò ra rất nhiều khiến đội quân phá bia hoảng sợ không dám ra tay… Trên thực tế, dù những câu chuyện nói trên có thật hay không thì người dân La Khê vẫn luôn tin rằng, Bia Bà rất linh thiêng. Nhiều người ở các địa phương khác cũng hành hương tới đây để chiêm bái ngôi đình cổ và mong muốn những điều ấp ủ sẽ thành hiện thực khi họ cất tiếng khẩn cầu tại đây.  

Theo truyền thuyết, đình La Khê thờ Hắc Diện Đại Vương và Thiên Tiên Bảo Hoa Công chúa (gọi là Nhị vị Đại vương). Đây là hai thành hoàng đã giúp dân trừ ác và có nước để cày cấy, chăn nuôi và nhờ vậy, vùng đất La Khê đã trở nên trù phú. Đền Bia Bà trong khuôn viên đình La Khê, thờ bà Trần Thị Hiền (1511 - 1538) - Đệ nhị Cung phi Triều Mạc Thái Tông (1530 - 1540). Bà sinh tại làng La Ninh, huyện Từ Liêm, trấn Sơn Tây, nay là thôn La Khê, xã Văn Khê. Là Đệ nhị cung của Vua Mạc Thái Tông với tư chất thông minh, lại nết na thùy mị và có nhan sắc hơn người nhưng Bà vẫn hay lam hay làm. Năm 1538, khi Bà qua đời ở tuổi 28, Triều đình nhà Mạc đã cử nhiều viên quan giữ trọng trách trong Triều mang lễ vật về điếu viếng rất trọng thể và tiễn Bà đến nơi an nghỉ tại cánh đồng Đa Bang trong làng La Khê. Bia Bà về sau được đưa về phần bên phải sân đình La Khê. Có lẽ bởi điều này, người dân địa phương thường gọi đình La Khê là đình Bia Bà.

Đình Bia Bà - Điểm hành hương của những người cầu tài lộc

Mặt chính diện của đình Bia Bà quay về hướng Nam, phía trước là giếng nước rộng. Tổng diện tích khuôn viên của đình Bia Bà khoảng 8000m2. Theo người dân địa phương, đình Bia Bà được cho là xây dựng vào đầu thế kỷ XVII và được tu bổ lớn trong thế kỷ XVIII. Tấm Bia Bà được dựng trong đền, nằm bên phải sân đình. Nhiều hạng mục công trình của đình lần lượt được tu bổ: Nhà Đại bái - năm 1997; Hậu cung, điện thờ (Chính điện thờ Thánh Bà, Hữu điện thờ Đệ nhất Công chúa và Tả điện thờ Đệ nhị Công chúa) tu sửa năm 2002. Khu Di tích đình Bia Bà có Bia Bà (thờ bà Trần Thị Hiền - Đệ nhị Cung phi Triều Mạc Thái Tông) và Bia Thánh Sư (thờ 10 vị người Trung Hoa đời Minh sang dạy dân làm nghề lụa). Trong ngôi đình cổ còn lưu giữ được 28 sắc phong của các triều đại quân chủ Việt Nam.

Mặt chính diện của đình Bia Bà quay về hướng Nam, phía trước là giếng nước rộng. Tổng diện tích khuôn viên của đình Bia Bà khoảng 8000m2.

Bia Bà đầu tiên được dựng lên tại cánh đồng Đa Bang (còn gọi là cánh đồng Hoàng hậu) trong 3 thế kỷ trước. Nội dung của văn bia ghi chép về sự tích Thánh bà Trần Thị Hiền. Khởi điểm, Bia Bà chỉ là một cái bệ đặt tấm bia và có bát hương. Mặc dù xung quanh cây cối rậm rạp nhưng người địa phương vẫn đến chiêm bái đều đặn nên ngày sóc ngày vọng, bát hương luôn ấm áp. 

Đã có hai lần bia bị đổ (năm 1913 và khoảng đầu những năm 80 của thế kỷ XX). Ngay khi bia đổ năm 1913, vì sợ “nước chảy đã mòn”, một người dân La Khê đã sao chép và lưu lại nội dung bài văn bia trong cuốn sổ Thánh tích của làng. Về sau, bia được đưa về để ở sân đình làng La Khê. Từ đó khách thập phương đến chiêm bái mỗi ngày một đông. Thể theo nguyện vọng của nhân dân, Ban Quản lý Di tích La Khê đã tiến hành dựng nhà để bia ở ngay trong khuôn viên của đình La Khê và xây dựng thành ngôi miếu khang trang hài hòa với tổng thể kiến trúc và cảnh quan của cụm di tích.  

Phần đầu văn bia viết về tiểu sử của Đệ nhị cung Trần Thị Hiền, có đoạn: “Làng La Ninh, huyện Từ Liêm là quê hương của Bà phi. Ông nội của bà húy là Thiện, được phong là Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu, Thái bảo; bà nội họ Nguyễn huý là Trù, được phong là Liệt phu nhân. Thân phụ của bà họ Trần, húy là Chân, do có công lao được phong là Thiết Sơn bá, rồi Dũng Quận công; thân mẫu họ Trần, húy là Tú, được phong là Huy nhân”. Nội dung tiếp theo của Bia Bà ca ngợi công đức và thể hiện sự tiếc thương của Nhà vua đối với Đệ nhị Cung phi Trần Thị Hiền với lời lẽ bi ai thống thiết: “Ôi ! Đức tính điềm tĩnh thận trọng thư thái nhàn nhã của bà phi đã giúp bà cần kiệm thu xếp ổn thỏa mọi việc trong nhà cho dù những người được tán thán trong Kinh Thi, Kinh Dịch cũng không hơn thế được. Đáng lẽ Bà phải được hưởng phúc khánh nhiều vô cùng, song không hiểu sao sớm đã quy tiên, thật đáng thương thay. Bà phi có nhiều đức hạnh cao đẹp như vậy, sao chẳng đem khắc vào bia đá để lưu truyền bất hủ ư?”. Cũng như các vị vua khác, chắc chắn Mạc Thái Tông có đủ “tam cung lục viện”, nhưng với những gì ông thể hiện với bà Trần Thị Hiền cho thấy, Nhà vua đã giành tình cảm lớn và sâu đậm cho người vợ đầu tiên của mình. 

Đình Bia Bà nổi tiếng linh thiêng. Vào những ngày đầu năm mới hay mùng Một - ngày Rằm hàng tháng luôn tấp nập người đi lễ.

Đình Bia Bà nổi tiếng linh thiêng. Vào những ngày đầu năm mới hay mùng Một - ngày Rằm hàng tháng luôn tấp nập người đi lễ. Từ cổng vào có gần chục chiếc lán gắn biển “viết sớ thuê” và có những người phụ nữ già làm nghề khấn thuê. Trong những ngày đầu năm mới, khách thập phương đến đây chiêm bái rất đông. Mâm lễ dâng lên được soạn tùy tâm từng người nhưng chủ yếu là các lễ chay như hương, hoa tươi, bánh, quả chín, trầu cau và một ít tiền lẻ. Họ cầu xin Thánh Bà sức khỏe, bình an, may mắn, cầu tài cầu lộc, thăng quan tiến chức, thi cử đỗ đạt, mua nhà rồi lại bán được nhà, trúng hợp đồng làm ăn… và chủ yếu cầu xin trong việc làm ăn. Ai gieo được một đồng xấp đồng ngửa đều rất phấn khởi. 

Nhiều người ta tin rằng, những lời nguyện cầu ở đền Bia Bà thật sự linh ứng. Theo người dân La Khê, Thánh Bà khi xưa là người chỉn chu, lo lắng, quản lý mọi việc trong cung để Nhà vua yên tâm chinh chiến khắp nơi. Xuất phát từ đây, trong dân gian đã nảy sinh tín ngưỡng cầu lộc Thánh Bà, mong được thuận lợi trong việc làm ăn buôn bán. Hàng năm, nhiều chủ doanh nghiệp, cửa hàng buôn bán làm ăn phát đạt đã quay lại đình phát tâm công đức báo đáp.

Thực - hư về sự linh ứng của lời cầu nguyện tại đình Bia Bà song lời đồn cứ duy trì theo thời gian khiến cho Bia Bà trở nên linh thiêng, được giới làm ăn tìm đến nhiều hơn. Từ khi Bia Bà được đưa về sân đình La Khê, lượng người đến lễ cầu lộc ngày càng đông. Vào các dịp Rằm tháng Bảy, trước Tết Nguyên đán và nhất là sau Tết, mọi người đến lễ và chiêm bái đình Bia Bà rất đông với mong muốn có một năm mới “vạn sự như ý”.

Đến với La Khê, du khách không chỉ được chiêm bái những di tích lịch sử - văn hóa của địa phương mà còn có những trải nghiệm thú vị trong cuộc hành hương về quá khứ. Sự thâm nghiêm cổ kính của đình Bia Bà và sự linh ứng của lời nguyện cầu phát tài phát lộc đã thu hút nhiều người đến đây. Năm 1998, đình Bia Bà - La Khê đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật.

Lê Sơn Tùng

Từ khóa » đình Bia Bà ở đâu