Đọc Hiểu Vĩnh Biệt Cửu Trùng đài - Trường THPT Thành Phố Sóc Trăng

Bài mẫu Đọc hiểu Vĩnh biệt cửu trùng đài sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích giúp các em học sinh hiểu rõ hơn về giá trị nội dung, quan điểm nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn Huy Tưởng khi xây dựng tình huống truyện. Một vài điểm nổi bật về hình tượng, sự xung đột gay gắt trong nội tâm nhân vật cũng được chia sẻ ở đây.

Văn mẫu đọc hiểu Vĩnh biệt cửu trùng đài lớp 11

Đọc hiểu Vĩnh biệt cửu trùng đài

I- KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

1.Nguyễn Huy Tưởng (1912 – 1960) người làng Dục Tú, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay là xã Dục Tú, huyện Đông Anh, Hà Nội). Ông xuất thân trong một gia đình nhà nho, sớm tham gia cách mạng. Năm 1943, Nguyễn Huy Tưởng tham gia Hội Văn hoá cứu quốc, rồi đến tháng 8 – 1945 là đại biểu Văn hoá cứu quốc đi dự Quốc dân Đại hội ở Tân Trào.

Nguyễn Huy Tưởng là nhà văn có thiên hướng khai thác đề tài lịch sử và có đóng góp nổi bật nhất ở thể loại tiểu thuyết và kịch. Bình sinh, ông luôn khao khát viết được những tác phẩm có quy mô lớn, dựng lên được những bức tranh, những hình tượng hoành tráng về lịch sử bi hùng của dân tộc; khao khát nói lên được những vấn đề có tầm triết lí sâu sắc về con người, cuộc sống và nghệ thuật. Văn phong của ông vừa giản dị, trong sáng, vừa đôn hậu, thâm trầm, sâu sắc.

2.Vũ Như Tô là vở bi kịch lịch sử năm hồi viết về một sự kiện xảy ra ở Thăng Long khoảng năm 1516-1517, dưới triều Lê Tương Dực. Tác phẩm được Nguyễn Huy Tưởng viết xong vào mùa hè năm 1941, đề tựa tháng 6 – 1942.

Từ một sự kiện lịch sử xảy ra ở thế kỉ XVI, nhà văn đã hư cấu, sáng tạo nên kịch Vũ Như Tô, đặt ra những vấn đề sâu sắc về cuộc sống và nghệ thuật. Đoạn trích Vĩnh biệt cửu Trùng Đài là hồi thứ năm, hồi cuối cùng của kịch Vũ NhưTô.

II- HƯỚNG DẪN ĐỌC – HlỂU VĂN BẢN

1.Các mâu thuẫn cơ bản của kịch Vũ Như Tô trong hồi V:

-Mâu thuẫn thứ nhất: Mâu thuẫn giữa nhân dân lao động khốn khổ lầm than với bọn hôn quân bạo chúa và phe cánh của chúng đang sống xa hoa, truỵ lạc. Mâu thuẫn nàỵ đã có từ trước, đến khi Lê Tương Dực bắt Vũ Như Tô xây dựng Cửu Trùng Đài thì càng trở lên căng thẳng.

Để xây dựng cửu Trùng Đài, triều đình ra lệnh tăng sưu thuế, bắt thêm thợ giỏi, tróc nã, hành hạ những người chống đối. Thợ phải làm việc cật lực mà vẫn đói khát và bị ăn chặn. Dân căm phẫn vua làm cho dân cùng, nước kiệt; thợ thuyền thì oán Vũ Như Tô vì nhiều người chết vì tai nạn, vì ông cho chém những kẻ chạy trốn.

Trịnh Duy sản can ngăn Lê Tương Dực, báo sẽ có loạn và đòi đuổi bọn cung nữ, giết Vũ Như Tô. Nhưng Lê Tương Dực chẳng những không nghe mà còn sai đánh đòn Trịnh Duy sản (hồi ni). Thế rồi, kế theo đó là tin lụt lội, mất mùa, tin “dân đói kém nổi lên tứ tung” truyền đến Thăng Long. Vũ Như Tô bị đá đè bị thương vẫn hăng hái dốc thợ xây dựng Cửu Trùng Đài. Thợ định nổi loạn. Lợi dụng tình hình rối ren và mâu thuẫn ấy, Trịnh Duy Sản – kẻ cầm đầu phe cánh đối nghịch trong triều đình – đã dấy binh nổi loạn, lôi kéo thợ thuyền làm phản, giết Tương Dực, Vũ Như Tô, Đan Thiềm và thiêu huỷ Cửu Trùng Đài (hồi 4 và 5).

Như vậy, mâu thuẫn này đến hồi thứ năm đã trở thành cao trào, lên tới đỉnh điểm ở hồi cuối cùng và được giải quyết: hôn quân Lê Tương Dực bị Trịnh Duy Sản giết, Nguyễn Vũ tự sát, Kim Phượng và đám cung nữ bị những kẻ nổi loạn nhục mạ, bắt bớ.

-Mâu thuẫn thứ hai: Mâu thuẫn giữa quan niệm nghệ thuật cao siêu, thuần tuý của muôn đời (Cửu Trùng Đài) và lợi ích trực tiếp, thiết thực của nhân dân.

Mâu thuẫn này có nguồn gốc từ nguyên nhân sâu xa: Người nghệ sĩ thiên tài đầy hoài bão và tâm huyết cũng không thể thi thố tài năng của mình để đem lại cái đẹp cho đời, niềm tự hào cho dân tộc trong một chế độ xã hội thối nát, trong một đất nước mà nhân dân còn phải sống triền miên trong đói khổ lầm than. Vũ Như Tô là một kiến trúc sư tài năng, có khả năng “tranh tinh xảo với hoá công” để xây dựng cho đất nước một toà lâu đài vĩ đại, để cho “dân ta nghìn thu còn hãnh diện”. Nhưng hoàn cảnh đất nước không tạo điều kiện cho Vũ Như Tô thực hiện khát vọng sáng tạo vĩ đại, chân chính đó.

Không có cách nào khác, Vũ Như Tô đã nghe theo lời khuyên của Đan Thiềm mượn uy quyền và tiền bạc của tên vua hôn quân là Lê Tương Dực để thực hiện hoài bão lớn lao của mình xây dựng cho đất nước một công trình nguy nga, vĩ đại. Trớ trêu thay, chính niềm khao khát được cống hiến, được sáng tạo chân thành đã đẩy Vũ Như Tô vào tình trạng đối nghịch với lợi ích trực tiếp và thiết thực của nhân dân. Từ yêu nhân dân, muốn cống hiến tài năng của mình để đem lại niềm tự hào và vinh quang cho đất nước, Vũ Như Tô lại bị nhân dân, nhất là những người thợ coi ông như kẻ thù. Đó chính là nguồn gốc sâu xa của tấn bi kịch không lối thoát của thiên tài Vũ Như Tô.

Hai mâu thuẫn nêu trên là hai mâu thuẫn cơ bản của vở kịch và được biểu hiện ở hồi V. Hai mâu thuẫn này có quan hệ mật thiết và tác động lẫn nhau.

2.a) Tính cách và diễn biến tâm trạng Vũ Như Tô:

-Vũ Như Tô là một kiến trúc sư thiên tài, là hiện thân cho niềm khát khao, say mê sáng tạo cái đẹp. Tài năng của nhân vật này chủ yếu được thể hiện ở những hồi trước của vở kịch và chủ yếu qua lời nhân vật khác nhận xét về ông. Vũ Như Tô là một thiên tài “ngàn năm chưa dễ có một”, “chỉ vẩy bút là chim, hoa đã hiện lên trên mảnh lụa thần tình biến hoá như cảnh hoá công”, có thể “sai khiến gạch đá như viên tướng cầm quân, có thể dựng lâu đài cao cả, nóc vờn mây mà không hể tính sai một viên gạch nhỏ”.

-Vũ Như Tô là một nghệ sĩ có nhân cách lớn, có hoài bão lớn, có lí tưởng nghệ thuật cao cả. Là một nghệ sĩ chân chính, gắn bó với nhân dân, nên mặc dù bị Lê Tương Dực doạ giết, Vũ Như Tô vẫn ngang nhiên chửi mắng tên vua hôn quân và kiên quyết từ chối việc xây dựng Cửu Trùng Đài. Ông cũng không phải là người hám lợi (khi được vua ban thưởng vàng, lụa, ông đem chia hết cho thợ). Lí tưởng nghệ thuật của Vũ Như Tô chân chính, nhưng là lí tưởng nghệ thuật cao siêu, thuần tuý của muôn đời, thoát li khỏi hoàn cảnh lịch sử – xã hội của đất nước, xa rời đời sống hiện thực của nhân dân lao động. Vì quá say sưa với mơ ước xây dựng một kiệt tác cho đất nước, một công trình để đời với ngàn thu mà Vũ Như Tô không nhận ra một thực tế tàn nhẫn: cửu Trùng Đài xây bằng mồ hôi, nước mắt và xương máu của nhân dân.

-Hồi thứ V của vở kịch không nói nhiều đến tài năng của Vũ Như Tô mà tập trung làm nổi bật tâm trạng bi kịch đầy căng thẳng của ông khi phải tìm kiếm câu trả lời: Xây Cửu Trùng Đài là đúng hay sai? Là có công hay có tội? Nhưng Vũ Như Tô đã không trả lời thoả đáng những câu hỏi đó. Khát vọng nghệ thuật, niềm đam mê sáng tạo của ông có phần chính đáng là xuất phát từ thiên chức của người nghệ sĩ, từ động cơ chân chính muốn khẳng định tài năng của mình, muốn tô điểm cho đất nước và làm đẹp cho đời nhưng đã đặt lầm chỗ, lầm thời, xa rời thực tế nên đã phải trả giá bằng sinh mệnh của bản thân và của cả công trình nghệ thuật (Ngữ văn 11, tập 1, SGV).

-Vũ Như Tô là một nhân vật bi kịch. Những say mê, khát vọng trong ông mâu thuẫn với hiện thực, suy nghĩ và hành động của ông có những bước sai lầm. Ông không nghĩ việc mình xây Cửu Trùng Đài cho đất nước lại bị xem là tội ác. Đến khi cuộc nổi loạn nổ ra, Đan Thiềm hốt hoảng báo cho Vũ Như Tô nguy cơ sẽ bị giết nếu không trốn, nhưng ông vẫn không chịu đi vì vẫn tin việc làm của mình là “chính đại quang minh”, vẫn hi vọng sẽ thuyết phục được An Hoà Hầu, một trong những kẻ cầm đầu phe nổi loạn. Song sự thực tàn nhẫn không diễn ra như ảo tưởng của Vũ Như Tô. Khi ông và Đan Thiềm bị bắt, Cửu Trùng Đài bị đập phá, thiêu huỷ thì ông mới bừng tỉnh, xiết bao đau đớn, kinh hoàng ngửa mặt lên trời mà kêu lên: “Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng Đài!”. Trong tiếng kêu ấy, Mộng lớn, Đan Thiềm, cửu Trùng Đài dồn dập vang lên hoà nhập vào nhau thành nỗi đau bi tráng. Đó cũng chính là âm hưởng chủ đạo của đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài.

b.Tính cách và diễn biến tâm trạng Đan Thiềm:

Nếu như Vũ Như Tô là người nghệ sĩ đam mê sáng tạo cái đẹp thì Đan Thiềm là người đam mê cái tài, ở đây là tài sáng tạo ra cái đẹp. “Bệnh Đan Thiềm” theo quan niệm của Vũ Như Tô là “bệnh” mê đắm tài hoa siêu việt của người sáng tạo nghệ thuật, sáng tạo ra cái đẹp. Vì có tấm lòng liên tài nên lúc Vũ Như Tô mới bị bắt, ông nhờ Đan Thiềm “mách đường chạy trốn”, nàng đã khuyên ổng ở lại, thuyết phục ông nhân cơ hội này, mượn uy quyền và tiền bạc của Lê Tương Dực để thực hiện hoài bão xây dựng cho đất nước một công trình nghệ thuật đồ sộ, vĩnh cửu. Vì đam mê tài năng mà nàng luôn khích lệ Vũ Như Tô xây dựng Cửu Trùng Đài, sẵn sàng quên mình để bảo vệ cái tài ấy. Với nét tính cách ấy, Đan Thiềm xứng đáng là người tri âm, tri kỉ của Vũ Như Tô.

Nhưng nếu Vũ Như Tô đam mê sáng tạo đến mức không hề chú ý, không hề biết đến hoàn cảnh vây quanh mình, thì Đan Thiềm lại luôn tỉnh táo, sáng suốt trong mọi trường hợp. Biết chắc ước vọng xây đài lớn không thành, tâm trí nàng giờ đây chỉ còn tập trung vào việc bảo vệ an toàn tính mệnh cho Vũ Như Tô. Đan Thiềm khẩn khoản khuyên Vũ Như Tô đi trốn, năm lần bảy lượt thúc giục ông “đi trốn”. Nàng chắp tay lạy van xin: “Tôi xin ông, ông nghe tôi trốn đi” nhưng không sao làm cho ông tỉnh ngộ. Vũ Như Tô vẫn bướng bỉnh chống lại số phận. Đến khi quân nổi loạn kéo vào, gươm giáo sáng loè, biết Yũ Như Tô “có trốn cũng không được nữa” thì nàng đã khóc. Nàng nói với Ngô Hạch, sẵn sàng đổi mạng sống của mình để cứu Vũ Như Tô: “Tướng quân nghe tôi. Bao nhiêu tội tôi xin nhận hết. Nhưng xin tướng quân tha cho ông cả. Ông ấy là một người tài”. Biết không sao cứu nổi Vũ Như Tô, Đan Thiềm đau đớn buông lời vĩnh biệt người tri âm, tri kỉ: “Ông Cả! Đài lớn tan tành! Ông Cả ơi! Xin cùng ông vĩnh biệt”.

Diễn biến tâm trạng của Vũ Như Tô và Đan Thiềm trong đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài cho thấy sâu sắc hơn bi kịch của chính các nhân vật này, đồng thời cũng làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm.

3.Trong hai mâu thuẫn đã phân tích ở trên, mâu thuẫn giữa nhân dân khốn khổ lầm than với bọn hôn quân bạo chúa cùng phe cánh của chúng đã được giải quyết dứt khoát theo quan điểm của nhân dân. Bạo chúa Lê Tương Dực bị giết; Nguyễn Vũ – đại thần của y – tự sát; đám cung nữ bị những kẻ nổi loạn nhục mạ, bắt bớ.

Thế nhưng mâu thuẫn thứ hai giữa quan điểm nghệ thuật cao siêu, thuần tuý của muôn đời với lợi ích thiết thực của quần chúng nhân dân chưa được tác giả giải quyết một cách dứt khoát. Điều đó được thể hiện ở chỗ Vũ Như Tô cho đến lúc chết vẫn không nhận ra sai lầm của mình, vẫn đinh ninh là mình vô tội. Vũ Như Tô không đứng về phía hôn quân Lê Tương Dực nhưng lại muốn mượn uy quyền và tiền bạc của hắn để thực hiện hoài bão nghệ thuật của mình, trong thực tế, đã vô tình gây thêm nỗi khổ cho nhân dân. Vũ Như Tô có tội hay có công? Vũ Như Tô đúng hay những người giết Vũ Như Tô đúng? Đó là những câu hỏi day dứt mà chính tác giả cũng không thể giải quyết một cách rạch ròi, dứt khoát được. Chính tác giả đã bày tỏ nỗi băn khoăn của mình qua lời đề từ: “Đài Cửu Trùng không thành, nên mừng hay nên tiếc?”, chẳng biết “Như Tô phải hay những người giết Như Tô phải? Ta chẳng biết. Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm”. Cách nêu vấn đề của tác giả như vậy là hợp lí. Bởi lẽ, chân lí chỉ thuộc về Vũ Như Tô một nửa, còn nửa kia lại thuộc về quần chúng nhân dân.

4.Bi kịch là một thể của loại hình kịch (đối lập với thể hài kịch). Ngoài các đặc điểm chung của loại hình kịch, bi kịch còn mang những đặc điểm riêng của thể. Những đặc điểm riêng này chủ yếu được thể hiện qua mâu thuẫn, xung đột và nhân vật.

Xung đột kịch được tạo dựng từ những mâu thuẫn “không thể giải quyết” được; mọi cách khắc phục mâu thuẫn đều dẫn đến “sự diệt vong những giá trị quan trọng”.

Nhân vật chính của bi kịch thường là những anh hùng (như Hăm-lét chẳng hạn). Nhân vật bi kịch là những con người có những say mê, khát vọng lớn lao (trong trường hợp này là Vũ Như Tô); đồng thời đôi khi còn có cả những sai lầm trong hành động và suy nghĩ. Kết thúc bi thảm của số phận nhân vật bi kịch thường có ý nghĩa thức tỉnh, khơi gợi tình cảm nhân văn của con người.

Tất cả những đặc trưng của thể loại bi kịch trên đây đều được thể hiện một cách đầy đủ trong Vũ Như Tô. Riêng ở đoạn trích Vĩnh biệt cửu Trùng Đài, việc giải quyết xung đột kịch được nhẩn mạnh nhất. Khi các mâu thuẫn đã hình thành từ những hồi trước, đến đây mâu thuẫn được đẩy lên cao và được giải quyết. Khi mâu thuẫn được đẩy lên đến tột đỉnh thì đó cũng là lúc tính cách và bi kịch của nhân vật (nhất là Vũ Như Tô và Đan Thiềm) cũng được thể hiện rõ nhất, nổi bật nhất.

Đoạn trích này đã thể hiện rất rõ đặc sắc nghệ thuật kịch Nguyễn Huy Tưởng: ngôn ngữ kịch điêu luyện, có tính tổng hợp cao; qua ngôn ngữ và hành động kịch, tâm trạng và tính cách của nhân vật được diễn tả một cách sâu sắc, xung đột kịch được đẩy lên đến cao trào.

III- HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP

Trong lời đề tựa kịch Vũ NhưTô, Nguyễn Huy Tưởng viết:

“Than ôi! Như Tô phải hay những người giết Như Tô phải? Ta chẳng biết. Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm”.

Đây là phần cuối của lời đề tựa vở kịch Vũ Như Tô do chính Nguyễn Huy Tưởng viết ngày 6 tháng 2 năm 1942, sau khoảng một năm viết xong tác phẩm.

Tựa là phần nằm ngoài văn bản của một tác phẩm, được viết ở đầu sách hoặc sau tiêu đề của mỗi chương trong cuốn sách nhằm hướng người đọc vào ý đồ nghệ thuật của tác giả hoặc tư tưởng của tác phẩm. Qua lời đề tựa trên, Nguyễn Huy Tưởng đã chân thành bộc lộ những băn khoăn của mình: Lẽ phải thuộc vê Vũ Như Tô hay những kẻ giết Vũ Như Tô? Và ông thú nhận “Ta chẳng biết”, tức là không thể đưa ra một lời giải đáp thoả đáng. Qua vở kịch, có thể thấy chân lí không hoàn toàn thuộc về phía nào: việc mất Cửu Trùng Đài vừa nên mừng, vừa hên tiếc. Đồng thời, nhà văn khẳng định: “Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm”, tức là vì cảm phục “tài trời”, vì nhạy cảm với bi kịch của những tài năng siêu việt mà thôi.

Đăng bởi: Trường THPT Sóc Trăng

Chuyên mục: Văn mẫu lớp 11

Từ khóa » Tìm Hiểu Văn Bản Vĩnh Biệt Cửu Trùng đài