Đôi Bờ Hiền Lương- Sông Bến Hải Với Khát Vọng Thống Nhất đất Nước

Sông Bến Hải bắt nguồn từ núi Động Chân thuộc dãy Trường Sơn và chảy dọc theo vĩ tuyến 17 từ Tây sang Đông rồi đổ ra cửa Biển Cửa Tùng. Sông Bến Hải có tổng chiều dài gần 100 km, nơi rộng nhất khoảng 200m, nơi hẹp nhất khoảng 20 -30m, là ranh giới giữa hai huyện Vĩnh Linh và Gio Linh của tỉnh Quảng Trị. Cầu Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải là cây cầu nối liền thôn Hiền Lương (xã vĩnh Thành, huyện Vĩnh Linh) ở bờ Bắc và thôn Xuân Hoà (xã Trung Hải, huyện Gio Linh) ở bờ Nam.

Năm 1954, sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền. Cầu Hiền Lương, sông Bến Hải đã trở thành ranh giới tạm thời chia đất nước ta thành 2 vùng tập trung quân sự. Quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hoà rút quân về miền Bắc, quân đội Liên hiệp Pháp rút quân về miền Nam. Việc phân chia này không có ý nghĩa về mặt chính trị hay lãnh thổ và chỉ có giá trị trong 2 năm, từ năm 1954 đến năm 1956, sau đó Việt Nam sẽ tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất đất nước. Nhưng với âm mưu chia cắt đất nước ta, năm 1956, Ngô Đình Diệm-Tổng thống của Việt Nam cộng hòa với sự hậu thuẫn của Mỹ đã không thực hiện tổng tuyển cử thống nhất đất nước như Hiệp định Giơnevơ quy định. Từ đây, cây cầu Hiền Lương đã trở thành chứng tích lịch sử trong hơn 20 năm chia cắt hai miền Nam-Bắc. Cây cầu cũng chứng kiến nhiều sự kiện đấu tranh ngoan cường, anh dũng và trở thành một biểu tượng to lớn cho khát vọng thống nhất non sông, sum họp, đoàn tụ của biết bao gia đình và toàn dân Việt Nam.

Cầu Hiền Lương: “cuộc chiến đấu cờ”: Theo quy định của Hiệp định Giơ-ne-vơ, mỗi bên có 2 đồn cảnh sát: đồn Hiền Lương Cửa Tùng ở bờ Bắc, đồn Xuân Hoà và Cát Sơn ở bờ Nam. Trong các cuộc chiến diễn ra tại Hiền Lương có lẽ “Chọi Cờ” là cuộc chiến gay gắt và quyết liệt nhất diễn ra trong suốt 14 năm ròng. Từ khi giới tuyến được phân định, chiều cao của cột cờ không ngừng được nâng lên, bởi cờ của ta không thể thấp hơn cờ của ngụy. Khi lá cờ đỏ sao vàng được kéo lên cao vút, đồng bào hai bờ Bắc Nam vui sướng reo mừng. Mỹ- Ngụy hoàn toàn bất ngờ trước sự kiện này. Chúng vội vàng tăng cao cột cờ của chúng lên thành 35 mét. Không để cột cờ ta thấp hơn cờ địch, năm 1962 chính phủ điều Tổng Công ty lắp máy Việt Nam gia công một cột cờ rồi chuyển vào dựng ở Hiền Lương, cột cờ cao 38,6 mét, kéo lên lá cờ 134 m2, nặng 15 kg. Cách đỉnh cột cờ 10 mét có một ca-bin để chiến sĩ ta đứng thu và treo cờ. Đây là cột cờ cao nhất giới tuyến.

Đến năm 1965, Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ra miền Bắc. Từ đây, quân và dân Bắc giới tuyến bước vào một cuộc chiến đấu mới. Ngày 2/8/1967, địch tập trung nhiều tốp máy bay thay nhau ném bom một ngày liền, làm cho cầu Hiền Lương bị sập, cột cờ ta bị gãy. Ngay trong đêm đó, ta đã tập trung dựng lại một cột cờ khác với một cột điện nối thêm cây gỗ. Cứ sau mỗi trận đánh, cột cờ bị gãy đỗ, lá cờ bị bom xé rách, quân và dân bờ Bắc lại dựng lên, nhiều cán bộ, chiến sĩ của ta đã dũng cảm hy sinh để bảo vệ lá cờ như trái tim của Tổ quốc. Có những câu chuyện đã trở thành huyền thoại về những bà mẹ vá cờ bên bờ Hiền Lương kể lại cho các thế hệ mai sau.

Cầu Hiền Lương: “cuộc chiến màu sơn”: Cầu Hiền Lương không chỉ là cuộc chiến đấu cờ, mà còn là cuộc chiến màu sơn. Cầu Hiền Lương được dựng từ năm 1928, sau nhiều lần sữa chữa, đến năm 1952, thực dân Pháp cho xây lại cầu với chiều dài 178m, rộng 4m; cầu có 7 nhịp, trụ được đổ bê tông cốt thép, dầm cầu bằng thép, còn mặt cầu được lát bằng ván gỗ thông. Đường ranh phân chia Nam – Bắc là một vạch sơn trắng rộng 1cm làm ranh giới hai miền. Hàng ngày công an và cảnh sát hai miền gác, đổi phiên qua về theo chế độ liên hợp. Để tạo nên hình ảnh chia cắt đất nước ta, Mỹ- Chính quyền Sài Gòn chủ động sơn màu xanh nửa cầu phía Nam. Nhưng với ý nguyện “thống nhất non sông”, chúng vừa sơn xong đầu hôm, thì trong đêm, công an ta sơn nửa phần cầu bờ Bắc bằng màu xanh cho hòa một màu. Thời gian sau chúng lại cho người ra sơn lại phần cầu phía Nam bằng màu nâu. Cứ thế, cầu Hiền Lương luôn thay đổi màu sắc. Hễ địch sơn một màu khác đi để tạo ra hai màu đối lập, thì lập tức ta sơn lại thành một màu chung. Đấu tranh màu sơn trên cầu Hiền Lương là một hình thức đấu tranh chính trị nhằm nói lên khát vọng thống nhất đất nước của quân và dân ta.

Cầu Hiền Lương: “cuộc chiến âm thanh”: Bên ven bờ Hiền Lương trong những năm tháng chia cắt, ngoài đấu cờ, đấu màu sơn, đó còn là cuộc chiến âm thanh-đấu loa giữa ta và địch. Sau Hiệp đinh Genève, nhằm giáo dục, động viên nhân dân đấu tranh thống nhất đất nước, ta đã cho xây dựng một hệ thống loa phóng thanh, phân bố thành 5 cụm suốt chiều dài 1.500 mét ở bờ Bắc. Mỗi cụm 24 loa loại 25 W hướng về bờ Nam. Mỗi ngày, hệ thống loa của ta phát đi chương trình của Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài truyền thanh Vĩnh Linh, chương trình ca nhạc, ngâm thơ, kịch, dân ca. Tức tối trước sự việc này, mấy tuần sau, Mỹ- Diệm liền gắn ở bờ Nam những cụm loa do Tây Đức, Úc sản xuất có công suất lớn, phát inh ỏi, lấn át cả loa phát của ta. Để “đấu khẩu”, Mỹ- Diệm đã tung ra Bến Hải những tên tâm lý chiến nguy hiểm. Mỗi ngày chúng nói từ 14 đến 15 tiếng đồng hồ, một hai giờ sáng đã mở hết công suất loa. Đầu năm 1960, một giàn loa Mỹ với công suất lớn được đưa đến bờ Nam. Chính quyền Việt Nam cộng hoà cho rằng, với hệ thống loa này sẽ vang xa đến Quảng Bình, dân bờ Bắc sẽ nghe rõ tiếng nói của chánh nghĩa quốc gia. Không chịu thua, phía bờ Bắc đã tăng thêm hệ thống loa gồm một chiếc loa có đường kính vành loa 1,7m, 4 loa loại 250W. Các cụm loa được đặt trên trụ bê tông cốt thép kiên cố, riêng chiếc loa 500W được đặt trên xe lưu động. Đến năm 1965, khi Mỹ ném bom miền Bắc, hệ thống loa của hai bờ ngừng hoạt động.

Cuộc kháng chiến 21 năm bên bờ Hiền Lương là cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đầy hy sinh gian khổ của quân và dân ta. Đất nước thống nhất hòa bình, người mất, người còn; Nhưng công lao của quân và dân khu vực giới tuyến được sử sách khắc ghi. Để cho đến hôm nay, khi đến với mảnh đất này, ta vẫn như còn thấy hiện ra trước mắt một quá khứ hào hùng và vô cùng sống động. Tháng 12 năm 1986, khu di tích đôi bờ Hiền Lương được xếp hạng cấp Quốc gia. Đến năm 2001, cầu Hiền Lương được phục chế lại nguyên bản theo thiết kế của chiếc cầu cũ, dài 182,97m, gồm 7 nhịp, mặt lát gỗ lim có đánh số thứ tự từng tấm ván. Năm 2014, cầu Hiền Lương được phục chế lại nguyên hai màu sơn xanh, vàng như đã từng tồn tại trong lịch sử.

Chiến tranh đã lùi xa, đất nước hoà bình, thống nhất, hiện nay khu di tích đôi bờ Hiền Lương vẫn còn lưu giữ những hình ảnh, kỷ vật và còn đó, những di tích lịch sử gắn với một thời đất nước bị chia cắt: Cầu Hiền Lương, cột cờ ở bờ Bắc, Nhà Liên hợp, Đồn công an giới tuyến, cụm tượng đài “khát vọng thống nhất”, Nhà trưng bày “Vĩ tuyến 17 và khát vọng thống nhất” ở bờ Nam.Hơn nửa thập kỷ đi qua, “vùng đất lửa” năm xưa đã thay da đổi thịt. Vùng đất khói bom nghịt trời năm xưa nay đã nhường chỗ cho những cánh đồng bạt ngàn lúa, hồ tiêu, rừng cao su xanh ngút ngàn. Ghé thăm Đôi bờ Hiền Lương –Bến Hải là dịp để mỗi người dân Việt Nam ôn lại những ký ức hào hùng, bi tráng, mỗi một chúng ta tôn vinh và tri ân sâu sắc đối với sự hy sinh to lớn của các thế hệ cha ông vì độc lập tự do của Tổ quốc. Những di tích lịch sử ở đôi bờ Hiền Lương –Bến Hải là di sản của khát vọng thống nhất đất nước của dân tộc Việt Nam.

Phạm Xuân Ngọc – Trường Chính trị Lê Duẩn

Từ khóa » Di Tích Cầu Hiền Lương Sông Bến Hải