Đôi Nét Về Cộng đồng Các Dân Tộc Việt Nam

Cộng đồng các dân tộc Việt Nam mặc dù khác nhau về ngôn ngữ, phân vùng địa lý, phong tục tập quán, kinh tế... nhưng vẫn có sự thống nhất, chung nhau đức tính, phẩm chất của người Việt; đồng thời yêu thương, gắn bó mật thiết với nhau trong suốt quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

  • Thăm làng gốm Hương Canh Vĩnh Phúc hơn 300 tuổi đẹp bình dị
  • Dạo quang làng cốm Mễ Trì khám phá nghề di sản hàng trăm năm
  • Nét đẹp văn hóa tại các làng nghề truyền thống ở Sóc Trăng
test Mục lục bài viết
  • Khái niệm "dân tộc thiểu số"
  • Phân chia các dân tộc Việt Nam theo ngôn ngữ
  • Địa bàn sinh sống của các dân tộc Việt Nam
  • Một vài đặc trưng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam

Khái niệm "dân tộc thiểu số"

Việt Nam là một quốc gia dân tộc thống nhất với 54 dân tộc. Trong đó không có sự đồng nhất giữa khái niệm "người dân tộc" và "người bản địa". Trên lãnh thổ Việt Nam, số lượng người Kinh chiếm đa số (khoảng 87% dân số); chính phủ quy định "dân tộc thiểu số" là những người không thuộc dân tộc kinh (dân tộc Việt), điều này thể hiện chủ trương "thống nhất trong đa dạng".Trong đó, người Hoa (dân tộc Hán) do có nhiều đặc điểm văn hóa tương đồng với văn hóa Việt Nam, góp phần không nhỏ trong sự phát triển nền kinh tế đất nước, họ không được xếp vào danh sách các dân tộc thiểu số Việt Nam.

Mỗi dân tộc lại mang những bản sắc văn hóa khác nhau, thể hiện thông qua hoạt động kinh tế, văn hóa của các tộc người. Song tựu chung đều có lòng yêu nước sâu sắc, tính cần cù, chịu khó, sáng tạo trong lao động sản xuất, sống hòa hợp với thiên nhiên, làng xóm và nhân hậu, vị tha với những người xung quanh.

Diễu hành cộng đồng các dân tộc Việt NamCuộc diễu hành của đại diện các dân tộc Việt Nam. Ảnh: VOV

Phân chia các dân tộc Việt Nam theo ngôn ngữ

54 dân tộc Việt Nam được xếp theo 3 ngữ hệ và 8 nhóm ngôn ngữ bao gồm: Việt – Mường, Tày - Thái, Mông - Dao, Ka Đai, Tạng Miến, Nam Đảo, Hán.

- Nhóm Việt - Mường có 4 dân tộc: Kinh, Mường, Thổ, Chứt. Họ sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước và đánh cá, các nghề thủ công truyền thống phát triển ở trình độ cao. Về đời sống tâm linh có tục thờ cùng ông bà tổ tiên.

- Nhóm ngôn ngữ Tày - Thái có 8 dân tộc: Tày, Thái, Nùng, Giáy, Lào, Lự, Sán Chay, Bố Y. Các tộc người nhóm ngôn ngữ Tày Thái nói ngôn ngữ Nam Á, ở nhà sàn, cấy lúa nước kết hợp với làm nương rẫy. Các nghề thủ công cũng khá phát triển với nghề rèn, dệt. Thêm vào đó, mỗi tộc người lại có những bản sắc riêng, được biểu hiện thông qua trang phục, nhà cửa, tập quán ăn uống, phong tục, lối sống và nếp sống tộc người.

- Nhóm ngôn ngữ Mông - Dao có 3 dân tộc: Mông, Dao, Pà Thẻn

- Nhóm ngôn ngữ Ka Đai có 4 dân tộc: La Chí, La Ha, Cờ Lao, Pu Péo

- Nhóm ngôn ngữ Tạng Miến có 6 dân tộc: Lô Lô, Phù Lá, Hà Nhì, La Hủ, Cống, Si La.

Đồng bào thuộc các nhóm ngôn ngữ này đều giỏi canh tác ngô, lúa nếp, lúa tẻ và các loại rau, đậu trên nương rẫy và ruộng bậc thang, đồng thời phát triển các nghề thủ công như rèn, dệt vải, đan lát.

- Nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me có 21 dân tộc: Ba Na, Brâu, Bru - Vân Kiều, Chơ Ro, Co, Cơ Ho, Cơ Tu, Giẻ Triêng, H’rê, Kháng, Khơ Me, Khơ Mú, Mảng, Xinh Mun, Mnông, Ơ Đu, Mạ, Rơ Măm, Tà ôi, Xơ Đăng, Xtiêng. Đời sống kinh tế chủ yếu canh tác nương rẫy theo phương pháp chọc lỗ tra hạt. Kiến trúc nhà rông, nhà dài Tây Nguyên, chùa của dân tộc Khơ Me; nghề thủ công đan lát và lễ hội văn hoá cộng đồng là những nét văn hoá độc đáo của cư dân Môn - Khơ Me.

- Nhóm ngôn ngữ Nam Đảo có 5 dân tộc: Chăm, Gia Rai, Ê Đê, Raglai, Chu Ru. Văn hoá nhóm người này mang đậm nét mẫu hệ.

- Nhóm ngôn ngữ Hán có 3 dân tộc: Hoa, Ngái, Sán Dìu. Văn hoá Hán mang đậm nét phụ hệ.

Đôi nét về cộng đồng các dân tộc Việt Nam - trang phục của người KinhNhững mẫu trang phục truyền thống của người Kinh

Địa bàn sinh sống của các dân tộc Việt Nam

- Với phần trăm dân số lớn, người Kinh sinh sống trên khắp các vùng lãnh thổ nhưng chủ yếu ở vùng đồng bằng, các hải đảo và tại các khu đô thị. Còn lại của nhóm Việt - Mường như Mường, Thổ, Chứt sống tại vùng trung du và miền núi các tỉnh từ Phú Thọ đến Bắc Quảng Bình. Trong đó người Mường chủ yếu sống trên các vùng đồi núi phía Tây đồng bằng sông Hồng và sông Mã, tập trung đông nhất ở Hòa Bình và Thanh Hóa. Người Thổ sinh sống chủ yếu ở phía Nam Thanh Hóa, miền Tây Nghệ An và người Chứt cư trú chủ yếu tại khu vực phía Bắc Quảng Bình và 1 vài xã phía Tây Nam Hà Tĩnh.

- Nhóm Tày - Thái Đồng bào cư trú tập trung ở các tỉnh vùng Đông Bắc và Tây Bắc Việt Nam như: Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Sơn La, Lai Châu, Yên Bái.... Cụ thể: Người Thái định cư ở bờ phải sông Hồng (Sơn La, Lai Châu, Điện Biên). Người Tày sống ở bờ trái sông Hồng (Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên), người Nùng sống ở Lạng Sơn, Cao Bằng.

Đôi nét về cộng đồng các dân tộc Việt Nam - các cô gái Lô LôNgười Lô Lô sống ở Hà Giang
>>Xem thêm: Độc đáo nét đẹp văn hóa các dân tộc ở Lai Châu

- Nhóm ngôn ngữ Tạng Miến: Các tộc người thuộc 3 nhóm này cư trú tập trung đông ở các tỉnh: Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang, Sơn La, Lào Cai, Lai Châu. Làng bản của họ được xây dựng trên các triền núi cao hay lưng chừng núi. Một số các tộc người như La Chí, Cống, Si La và một vài nhóm Dao dựng làng ven các con sông, con suối. Tuỳ theo thế đất, đồng bào dựng nhà sàn, nhà đất, nhà nửa sàn nửa đất.

- Nhóm Môn Khơ Me Đồng bào cư trú rải rác ở khu vực Tây Bắc, miền Trung - Tây Nguyên và Nam Bộ.

+ Các nhóm dân tộc nói các ngôn ngữ thuộc các ngữ chi phía Bắc của ngữ hệ Nam Á, gồm ngữ chi Khơ Mú (Khơ Mú, Ơ Đu, Xinh Mun), ngữ chi Palaung (Kháng), và ngữ chi Mảng (Mảng), sinh sống chủ yếu ở các tỉnh Tây Bắc (Sơn La, Điện Biên, Lai Châu và Yên Bái) và vùng cực Tây Nghệ An. Họ sống xen kẽ với người Thái, Hmong, Dao và những sắc tộc khác.

+ Các dân tộc nói các ngôn ngữ thuộc ngữ chi Katu của ngữ hệ Nam Á như Bru-Vân Kiều, Cơ Tu, Tà Ôi sinh sống tại vùng miền núi các tỉnh Trung Trung Bộ từ Quảng Bình cho tới Quảng Nam, nằm về phía Nam địa bàn cư trú của nhóm Việt-Mường.

+ Các dân tộc nói các ngôn ngữ thuộc ngữ chi Bahnar của ngữ hệ Nam Á thì sinh sống tại Tây Nguyên và vùng miền núi, trung du các tỉnh Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ, về phía Nam của nhóm Katu. Địa bàn sinh sống của các dân tộc thuộc nhóm này đôi khi xen kẻ với các dân tộc thuộc nhóm Nam Đảo.

+ Nhánh cực Nam của ngữ hệ Nam Á tại Việt Nam là người Khmer sinh sống ở Nam Bộ, nằm về phía Tây Nam của nhóm Bahnar.

- Nhóm ngôn ngữ Nam Đảo Đồng bào cư trú rải rác dọc theo dãy Trường Sơn, người Chăm sinh sống ở ven biển miền Trung và một bộ phận người Chăm Islam sinh sống tại Nam Bộ.

- Nhóm ngôn ngữ Hán Đồng bào cư trú trên cả ba miền Bắc, Trung, Nam.

Hiện nay do hệ quả của các làn sóng di cư mới, nhiều người Kinh đã lên sinh sống tại các tỉnh miền núi, đa phần là ở Tây Nguyên. Nhiều dân tộc thiểu số cũng từ các tỉnh phía Bắc di cư vào các tỉnh Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Nam Trung Bộ.

Đôi nét về cộng đồng các dân tộc Việt Nam - các dân tộc Tây NguyênSinh hoạt cộng đồng tại Tây Nguyên
>>Xem thêm: Review Làng văn hóa các dân tộc Việt Nam check-in dọc miền đất nước

Một vài đặc trưng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam

- Tính cố kết dân tộc, hòa hợp dân tộc trong một cộng đồng thống nhất, dân chủ, bình đẳng đã trở thành truyền thống của dân tộc Việt Nam.

- Sống chung trên một lãnh thổ, cùng chung vận mệnh lịch sử, truyền thống, tiền đồ và cuộc sống phụ thuộc vào ngành nông nghiệp lúa nước; các cộng đồng dân tộc đã sớm xây dựng được tình đoàn kết bền chặt, luôn quan tâm giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau từ cuộc đấu tranh chống quân xâm lược, chế ngự thiên tai.

- Hình thái cư trú xen kẽ giữa các dân tộc ở Việt Nam ngày càng gia tăng. Các dân tộc không có lãnh thổ riêng, không có nền kinh tế riêng.

- Do điều kiện tự nhiên, xã hội và hậu quả của các chế độ áp bức bóc lột trong lịch sử nên trình độ phát triển kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc còn chênh lệch, khác biệt.

- Các dân tộc thiểu số tuy chỉ chiếm 13% dân số cả nước nhưng lại cư trú trên địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, giao lưu quốc tế đó là vùng biên giới, vùng núi cao, hải đảo.

- Song song với nền văn hóa cộng đồng, bản sắc riêng của mỗi dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam cũng phát triển mạnh mẽ, góp phần làm phong phú thêm nền văn hóa của dân tộc.

Đôi nét về cộng đồng các dân tộc Việt Nam - lễ Kate người ChămLễ hội Katê đặc sắc của đồng bào người Chăm ở Ninh Thuận. Ảnh: vnexpress

Lưu ý: Một số cộng đồng dân tộc thiểu số có nhiều tên gọi, và những tên gọi này trùng nhau. Ví dụ:

- Dân tộc Mán còn là tên gọi khác của các dân tộc sau: Sán Chay, Dao, H’Mông, Pu Péo, Sán Dìu (Mán quần cộc, Mán váy xẻ)

- Dân tộc Xá là tên gọi chung cho các dân tộc thiểu số tại Tây Bắc trừ người Thái và người Mường

- Dân tộc Brila có thể là: Giẻ Triêng hoặc Xơ Đăng.

- Người ta đôi khi cũng dùng "dân tộc Thổ" để chỉ dân tộc Tày.

Cộng đồng các dân tộc Việt Nam như hiện nay là nhờ trải qua một quá trình hình thành và phát triển lâu dài trong lịch sử. Và văn hóa Việt Nam là sự tổng hòa các giá trị văn hóa của 54 dân tộc anh em trên cùng lãnh thổ.

Linh Tu (tổng hợp) - luhanhvietnam.com.vn

Nguồn tham khảo: Tạp chí điện tử Thế Giới Di Sản, wikipedia

Từ khóa » đặc điểm Chung Của 54 Dân Tộc Anh Em