Đồng Chí Lê Đức Thọ Với Hòa đàm Paris - Thành ủy TPHCM

Từ chiến trường bước vào bàn hội nghị

Tháng 5/1968, khi đang đảm nhiệm vị trí Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam, Lê Đức Thọ đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh cho gọi gấp về Hà Nội, để chuẩn bị sang Paris làm cố vấn cao cấp đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam DCCH tại Hội nghị Paris. Trong lá thư viết tay gửi Bộ Chính trị, Hồ Chí Minh ghi rõ: "Anh Sáu (Lê Đức Thọ) nên về ngay (trước tháng 5/1968) để tham gia phái đoàn ta đi gặp đại biểu Mỹ".

Khi ấy, lực lượng kháng chiến Việt Nam có 2 đoàn tham gia hội nghị là đoàn Việt Nam DCCH do Bộ trưởng Ngoại giao Xuân Thủy làm trưởng đoàn và đoàn của Mặt trận Dân tộc Giải phóng (MTDTGP) Miền Nam Việt Nam do Trần Bửu Kiếm làm trưởng đoàn. Ngày 6/6/1969, Chính phủ Cách mạng lâm thời (CMLT) Cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập, bà Nguyễn Thị Bình, Bộ trưởng Ngoại giao, được cử thay thế làm trưởng đoàn thay ông Trần Bửu Kiếm nhận chức Bộ trưởng Phủ Chủ tịch Chính phủ.

Khi bắt đầu hội đàm Paris, một trong những nội dung khó khăn nhất là việc phía Mỹ phải công nhận MTDTGP Miền Nam Việt Nam là một bên đàm phán. Trên bàn hội nghị, dù phía cách mạng Việt Nam trên danh nghĩa có 2 đoàn là Việt Nam DCCH và MTDTGP Miền Nam Việt Nam, song theo bà Nguyễn Thị Bình, “về mặt chính trị, ngoại giao chúng ta đã thiết lập một thế trận “tuy hai mà một, tuy một mà hai”. Và, rõ ràng, người lãnh đạo cao nhất trong đàm phán này ở Hội nghị Paris của cả hai đoàn Việt Nam là Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ. Ông là người lãnh đạo và truyền đạt ý kiến của Trung ương, cũng như đưa ra các quyết định trong đàm phán. Trước khi đoàn đàm phán lên đường, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Đừng để nước Mỹ bẽ bàng, đừng xúc phạm nhân dân Mỹ vì Việt Nam chỉ chiến đấu với giới cầm quyền hiếu chiến của Mỹ, về nguyên tắc quyết không nhượng bộ song về phương pháp thì dĩ bất biến, ứng vạn biến".

Những cuộc đấu trí căng thẳng

Trong hồi ký Gia đình, bạn bè và đất nước, nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình cho biết, năm 1972, để đánh lừa dư luận Mỹ trước bầu cử rằng chính quyền Nixon đang sắp đặt được một giải pháp chính trị cho chiến tranh Việt Nam “tại Paris phía Mỹ đồng ý cùng với Việt Nam DCCH đi vào đàm phán “bí mật”. Cuộc đấu trí lịch sử giữa đồng chí Lê Đức Thọ và Kissinger bắt đầu”.

Trước đó, khi Hội nghị Paris ngày càng tỏ rõ dấu hiệu căng thẳng, ngày 21/2/1970, phái đoàn Việt Nam DCCH gồm Cố vấn Lê Đức Thọ và Bộ trưởng Xuân Thuỷ đã có cuộc tiếp xúc chính thức với phái đoàn Mỹ gồm Kissinger, Richard Smyer - chuyên gia về vấn đề Việt Nam và tướng V. Walters. Sau cuộc tiếp xúc này bắt đầu diễn ra các cuộc đàm phán riêng, bí mật giữa Lê Đức Thọ và Kissinger.

Cho tới năm 1972, với 166 phiên họp, 138 phiên họp bốn bên và 28 phiên họp hai bên, Hội nghị Paris về Việt Nam chưa giải quyết được vấn đề gì nhằm có thể chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam như mục đích đề ra. Nguyên nhân chủ yếu là chính sách theo đuổi chiến tranh và chỉ coi đàm phán là một phương pháp tiến hành chiến tranh khác của Hoa Kỳ. Đối phó với âm mưu của Hoa Kỳ và phía chính quyền Sài Gòn, Cố vấn Lê Đức Thọ và các lãnh đạo đàm phán phía cách mạng Việt Nam đã kết hợp tài tình giữa mặt trận quân sự, ngoại giao và chính trị, kiên quyết giữ vững lập trường căn bản, đòi hỏi quân đội Mỹ phải triệt thoái hoàn toàn, vô điều kiện khỏi miền Nam Việt Nam và chính quyền Nguyễn Văn Thiệu phải bị thay thế bằng chính phủ liên hiệp tán thành hòa bình, độc lập và trung lập, tiến tới thống nhất Việt Nam bằng phương pháp hòa bình.

Ngày 25/1/1972, nhằm “mua” lá phiếu của cử tri Mỹ, Nixon đã đơn phương công bố nội dung các cuộc đàm phán bí mật giữa Kissinger và Lê Đức Thọ. Thế nhưng, trước thái độ kiên quyết của Cố vấn Lê Đức Thọ và các đoàn đàm phán phía cách mạng Việt Nam, qua nhiều làn tiếp xúc bí mật, ngày 1/8/1972, Kissinger đã trao cho phái đoàn Việt Nam DCCH “đề nghị 10 điểm” thể hiện rõ sự xuống thang của Hoa Kỳ với việc chấp nhận giải quyết cùng lúc cả vấn đề chính trị và quân sự. Tới ngày 17/8/1972, tại Sài Gòn, Kissinger đã trình bày dự thảo đề nghị 10 điểm của Mỹ đối với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, trong đó có các giải pháp mấu chốt cho vấn đề miền Nam Việt Nam cơ bản thống nhất với đề nghị 10 điểm ngày 1/8/1972 của phái đoàn Việt Nam DCCH…

Cố vấn Lê Đức Thọ và cố vấn đặc biệt của Tổng thống Mỹ, TS. Henry Kissinger, chúc mừng nhau sau lễ ký tắt Hiệp định Paris. (Ảnh tư liệu) Cố vấn Lê Đức Thọ và cố vấn đặc biệt của Tổng thống Mỹ, TS. Henry Kissinger, chúc mừng nhau sau lễ ký tắt Hiệp định Paris. (Ảnh tư liệu)

Đó thật sự là cuộc đấu trí đầy căng thẳng bởi Cố vấn đoàn đàm phán phía Mỹ (và cho cả chính quyền Sài Gòn) là Henry Kissinger, một người được xem là bộ óc thông thái của nước Mỹ. Tuy nhiên, sau này, đã có lúc Kissinger phải thốt lên: Tôi có thể làm tốt hơn nếu như đối diện trên bàn đàm phán không phải là ông Lê Đức Thọ, đàm phán với ông Thọ quả là cân não!

Thể hiện bản lĩnh và trí tuệ tài tình của một nhà ngoại giao

Cuộc đàm phán ở Paris thật sự là cuộc đấu trí giữa Việt Nam DCCH và Mỹ. Rất nhiều lần người Mỹ đã lật lọng và không dễ dàng chấp nhận thua cuộc cũng như không muốn “bỏ rơi” chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Vì vậy, phía Mỹ nhiều lần trì hoãn hoặc đưa ra những đòi hỏi phi lý. Để gây áp lực và buộc Việt Nam DCCH phải chấp nhận ký kết hiệp định với những điều khoản có lợi cho phía Mỹ và chế độ Sài Gòn, Tổng thống Mỹ Nixon đã ra lệnh bắn phá miền Bắc Việt Nam vào cuối năm 1972. Thất bại thảm hại trên bầu trời Hà Nội đã buộc phía Mỹ phải xuống thang và đề nghị Việt Nam DCCH ngồi vào bàn đàm phán.

Trở lại Paris, trong cuộc họp với phía Mỹ ngày 8/1/1973, Cố vấn Lê Đức Thọ đã nghiêm khắc lên án phía Mỹ gây ra đợt ném bom hủy diệt trong mùa Noel năm 1972… Sau gần một tháng nối lại đàm phán, đến ngày 27/1/1973, bốn ngoại trưởng của bốn bên, gồm Việt Nam DCCH, Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa đã ký chính thức Hiệp định Paris, kết thúc cuộc đàm phán lịch sử kéo dài 5 năm với nhiều phiên họp gay cấn.

Trong Hội thảo “Lê Đức Thọ với cách mạng Việt Nam và quê hương Nam Định” do Tỉnh ủy Nam Định, Ban Tổ chức Trung ương, Ban Tuyên giáo Trung ương và Học viện Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh đồng tổ chức nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của đồng chí Lê Đức Thọ (năm 2011), nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên đánh giá về Lê Đức Thọ: "Ông ấy khổng lồ ở chỗ đối phương đối thoại với ông là Kissinger - một nhân vật rất lớn của Mỹ thời đó (…) Kissinger rất ngạo mạn, tưởng có thể đè bẹp được ta. Nhưng Kissinger đã không thể làm được vì Lê Đức Thọ đại diện cho chính nghĩa. Điều làm nên thành công của Lê Đức Thọ là ông đã nhuần nhuyễn, có trí tuệ để thực hiện điều mình cần và mục tiêu đề ra. Chẳng hạn vấn đề Mỹ phải rút quân khỏi miền Nam Việt Nam. Kissinger đòi nếu Mỹ rút thì miền Bắc Việt Nam cũng phải rút quân khỏi miền Nam. Ông Lê Đức Thọ cho rằng Mỹ đánh đồng như thế là không được. Với trí tuệ của mình, ông đã tìm ra giải pháp như sau: vấn đề quân đội Việt Nam ở lãnh thổ Việt Nam thì do các bên Việt Nam giải quyết với nhau. Còn việc Mỹ phải rút quân là bắt buộc. Trí tuệ của ông là tìm ra được một giải pháp mà giải pháp đó lại đúng với lợi ích của ta… Cái khó trong ngoại giao đối với nhà đàm phán là lúc nào thì “nhu”, lúc nào thì “cương’’, thậm chí lúc nào thì nặng lời với đối phương. Ông Lê Đức Thọ đã thành công trong việc ứng xử linh hoạt này, khiến Kissinger phải nể phục…’’.

Với việc ký kết Hiệp định Paris, năm 1973, đồng chí Lê Đức Thọ được trao tặng giải Nobel năm 1973 cùng với Henry Kissinger nhưng ông từ chối nhận giải với lý do hòa bình vẫn chưa thực sự lập lại trên đất nước Việt Nam. Trả lời phỏng vấn phóng viên hãng tin UPI (Mỹ) năm 1985, ông đã giải thích: “Mỹ tiến hành xâm lược đất nước tôi 20 năm. Người chống Mỹ và làm cho Mỹ thất bại, giành độc lập đưa hòa bình cho đất nước và cho cả khu vực này là chúng tôi. Người làm hòa bình là chúng tôi chứ không phải Mỹ (…) Coi chúng tôi cũng như Mỹ. Điều đó là sai lầm và tôi không thể chấp nhận như vậy. Vì vậy tôi đã không nhận Giải thưởng Nobel!”.

Từ khóa » Hòa đàm Paris