Full Text Of "Chu Dịch Thiệu Vĩ Hoa ,tập 2" - Internet Archive

Skip to main content

Ask the publishers to restore access to 500,000+ books.

Hamburger icon An icon used to represent a menu that can be toggled by interacting with this icon. Internet Archive logo A line drawing of the Internet Archive headquarters building façade. Web icon An illustration of a computer application window Wayback Machine Texts icon An illustration of an open book. Texts Video icon An illustration of two cells of a film strip. Video Audio icon An illustration of an audio speaker. Audio Software icon An illustration of a 3.5" floppy disk. Software Images icon An illustration of two photographs. Images Donate icon An illustration of a heart shape Donate Ellipses icon An illustration of text ellipses. More Donate icon An illustration of a heart shape "Donate to the archive" User icon An illustration of a person's head and chest. Sign up | Log in Upload icon An illustration of a horizontal line over an up pointing arrow. Upload Search icon An illustration of a magnifying glass. Search icon An illustration of a magnifying glass.

Internet Archive Audio

Live Music Archive Librivox Free Audio

Featured

  • All Audio
  • Grateful Dead
  • Netlabels
  • Old Time Radio
  • 78 RPMs and Cylinder Recordings

Top

  • Audio Books & Poetry
  • Computers, Technology and Science
  • Music, Arts & Culture
  • News & Public Affairs
  • Spirituality & Religion
  • Podcasts
  • Radio News Archive

Images

Metropolitan Museum Cleveland Museum of Art

Featured

  • All Images
  • Flickr Commons
  • Occupy Wall Street Flickr
  • Cover Art
  • USGS Maps

Top

  • NASA Images
  • Solar System Collection
  • Ames Research Center

Software

Internet Arcade Console Living Room

Featured

  • All Software
  • Old School Emulation
  • MS-DOS Games
  • Historical Software
  • Classic PC Games
  • Software Library

Top

  • Kodi Archive and Support File
  • Vintage Software
  • APK
  • MS-DOS
  • CD-ROM Software
  • CD-ROM Software Library
  • Software Sites
  • Tucows Software Library
  • Shareware CD-ROMs
  • Software Capsules Compilation
  • CD-ROM Images
  • ZX Spectrum
  • DOOM Level CD

Texts

Open Library American Libraries

Featured

  • All Texts
  • Smithsonian Libraries
  • FEDLINK (US)
  • Genealogy
  • Lincoln Collection

Top

  • American Libraries
  • Canadian Libraries
  • Universal Library
  • Project Gutenberg
  • Children's Library
  • Biodiversity Heritage Library
  • Books by Language
  • Additional Collections

Video

TV News Understanding 9/11

Featured

  • All Video
  • Prelinger Archives
  • Democracy Now!
  • Occupy Wall Street
  • TV NSA Clip Library

Top

  • Animation & Cartoons
  • Arts & Music
  • Computers & Technology
  • Cultural & Academic Films
  • Ephemeral Films
  • Movies
  • News & Public Affairs
  • Spirituality & Religion
  • Sports Videos
  • Television
  • Videogame Videos
  • Vlogs
  • Youth Media

Search the history of over 916 billion web pages on the Internet.

Search the Wayback Machine Search icon An illustration of a magnifying glass.

Mobile Apps

  • Wayback Machine (iOS)
  • Wayback Machine (Android)

Browser Extensions

  • Chrome
  • Firefox
  • Safari
  • Edge

Archive-It Subscription

  • Explore the Collections
  • Learn More
  • Build Collections

Save Page Now

Capture a web page as it appears now for use as a trusted citation in the future.

Please enter a valid web address

  • About
  • Blog
  • Projects
  • Help
  • Donate
  • Contact
  • Jobs
  • Volunteer
  • People
  • Sign up for free
  • Log in
Search metadata Search text contents Search TV news captions Search radio transcripts Search archived web sites Advanced Search
  • About
  • Blog
  • Projects
  • Help
  • Donate Donate icon An illustration of a heart shape
  • Contact
  • Jobs
  • Volunteer
  • People
Full text of "Chu Dịch Thiệu Vĩ Hoa ,tập 2"

See other formats

<T>kầÉt 1 PHƯƠNG PHÁP Dự ĐOÁN THEO TƯƠNG QUẺ Chương 1 KIẾN THỨC Cơ BẢN I. CHU DỊCH VÓI Dự DOÓN 1. Vài nét vể Chu dịch VO trụ ỉà một hệ thống lớn cùa vạn vật. Vì mối liên quan lẫn nhau giữa các vật, nên thế giới tự nhiên có tính quy luật rất mạnh mẽ. Tính quy luật này đã được người xưa chú ý và khảo sát, khám phá qua thời gian đài, dà tổng kết ra những trạng thái biểu hiện vĩ mô và vi mô ở những trường hợp và thời điểm khác nhau, đồng thời từ màu sắc, vị trí, không gian, sự chuyển động, phương hướng của các vật và mùi vị cùa chúng và quá trình chuyển biến cùa chúng, nên đã quy nạp thành cái gọi là "tượng". "Kinh dịch 1 ’ là bộ sách khoa học tự nhiên rất lâu từ cuối thời Tây Chu của Trung Quốc. Nó dùng hình thức phệ chiêm dể viết thành sách, thông qua tượng quẻ và từ hào để nói rõ sự cát hung của con người và sự việc. Những ìời dự đoán của phệ chiêm chính là thực tiễn xả hội, thực tiễn sản xuất và những kinh nghiệm tích lũy được thỏng qua quan sát các hiện tượng trong tự nhiên của thời bấy giờ. Kinh dịch thành sách vào thời kỳ thịnh vượng cùa chế độ xã hội nô lệ, và xã hội thời đó tương đối ổn định, cho nên các mặt như thiên văn, lịch pháp, nông nghiệp, thù công nghiệp dều phát triển mạnh mẽ. Ví dụ về thiên văn và cách làm lịch trong giáp cốt văn của thời nhà Thương đã dùng can chi để ghi ngày, dùng khắc lậu để ghi giờ hoặc đã biết tính tháng nhuận, hoặc phát hiện nhật thực. Vì sản xuất được phát triển nên trình độ khoa học cũng phát triển theo. Điều đó đã cung cấp điều kiện khách quan để hình thành những mầm mông tư duy khoa học của Kinh dịch. Kinh dịch là sách kinh điển của các nho gia, nên gọi là kinh. Đó là bộ sách đứng đầu của năm kinh. Kinh dịch còn gọi là bản kinh, nó là tác phẩm thống nhất thiên văn, địa lý, nhạc luật, binh pháp, luật làm thơ, thuật toán, tôn giáo vào làm một. Nó còn là tác phẩm lấy số lý tượng chiêm để dự đoán các bí mật bao la trong vũ trụ. 365 Dịch truyện ià tác phẩm cuối cùng xán lạn nhất của Kinh dịch. Nó*chú giải và phát huy đầy đủ nhất bộ sách của Kinh dịch. Dịch truyện gồm "Thoán, tượng, hệ từ, thuyết quái và tự quái, tạp quái”, tất cả gồm 10 thiên hợp thành. Dịch truyện ra đời vào giữa thời kỳ từ Xuán Thu đến Chiến quốc. Nó là tuyển tập triết học, khoa học xã hội, khoa học tự nhiên trước thời Xuân Thu. Dịch truyện đã phát huy đầy đủ tư duy khoa học và triết học thời bấy giờ của Kinh dịch. Sự phát triển quan trọng này của dịch truyện lại một lần nữa làm cho Kinh dịch được thăng hoa. Kinh dịch và dịch truyện chiếu rọi vào nhau đã làm nên sự phôi thai cơ bản của triết học và khoa học tự nhiên của Trung Quốc. Hàng nghìn năm nay, bộ sách Chu dịch dã đóng một vai trò t -0 lớn trong sự thúc đẩy phát triển văn hóa, khoa học kỹ thuật của Trung Quốc. Ba dòng học phái lổn của tư tưởng vàn hóa Trung Quốc là : nho gia, đạo gia, mặc gia đều lấy Chu dịch làm cản cứ lý luận cơ bản. Từ xưa đếq nay sô' người nghiên cứu Kinh dịch rất nhiều. Từ thời nhà Tần đến cận dại đã có hơn 3 nghìn bộ sách chú giải về Chu dịch, diều dó hình thành hệ thống dịch học sử của Trung Quốc. Với ânh hưdng chưa từng cố của Chu dịch đô'i với khoa học và văn hóa của Trung Quốc, nó là bộ sách đứng đầu trong tất cả các sách kinh điển. 2. Chu dỊch và dự đoán học Dự đoán học là môn khoa học dự đoán tương lai, là sự suy đoán xu thế phát triển hoặc kết cục tương lai của sự vật, bao gồm : cả tương lai gần, tương lai vừa và tương lai xa. Chu dịch là bộ sách dự đoán chuyên môn sớm nhất trên thế giới. Chiêm bốc là một trong bôn bộ phận : tượng, số, lý, chiêm hợp thành chu dịch, chiêm bôc thực chât là đoán. Quẻ và hào từ của Kinh dịch chính là lời từ của phệ chiêm. Chu dịch là môn học vấn lấy chiêm bốc làm hình thức thể hiện, tức là chiêm bốc là nội dung không thể xem nhẹ của Chư dịch. Bản thân quẻ và hào từ của chu dịch chính là kho chứa đựng tin tức, tức là những tin tức dược quy nạp từ trong thực tiễn xã hội và thực tiễn sản xuất. Chiêm bốc có vai trò nối thông các loại tin tức, giúp dỡ con người thích ứng với sự biến đổi của hoàn cảnh đế hướng đến cái tốt, tránh cái xấu; thông qua dự đoán chiêm bốc giúp ta có sự chuẩn bị về mặt tâm lý. Sở dĩ Chu dịch được gọi là bộ sách bậc thầy của dự đoán học là vì trong đó chứa đựng những nguyên lý dự đoán rất bí ảo và có rất nhiều ví dụ thực chứa đựng giá trị dự đoăn rất cao. Nhiều thời đại dùng chiêm bôc bát quái để dự đoán chính xác các hiện tượng thời tiết, phong thủy và cát hung họa phúc, bệnh tật, sự việc. Qua dó có thê thây được "Chu dịch dự đoán"' có thể ứng dụng rộng rải cho mọi ngành, mọi lĩnh vực. Phương pháp dự đoán của "Chu dịch" rất rộng. Ngoài những phương pháp như 'dự đoán theo tượng quẻ", “dự đoán theo sáu hào" đà có trong sách, còn có "Kỳ môn độn giáp", "Lục nhân thần toán", "Tứ trụ tử bình", "Thiết bản 366 thần số", v.v... dều là những trường phái khác nhau của Chiêm phệ. Tóm lại "Chu dịch" chứa đựng những nguyên lý và phương pháp dự-đoán rất da dạng. Qua sự phát huy và sáng tạo của dân gian, nó tiềm tàng rất nhiều thuật dự đoán đáng dược quan tâm khai thác và khám phá. Cuốn "Chu dịch dự đoán học" là tác phẩm tiêu biểu cho sự nghiên cứu ứng dụng "Chu dịch" mấy năm gần đây đã bước sang một giai đoạn phát triển mới. Đã một thời gian dài, việc nghiên cứu "Chu dịch" của Trung Quốc chỉ đóng khung trong dịch lý và cũng rơi vào tình trạng đóng kín, làm cho mọi người rất khó hiểu. Do đỏ dự doán theo bát quái của Chu dịch bị xem là mê tín cấm kỵ, phương pháp Chiêm phệ trong dân gian rất khó khăn phân biện thật, giả, làm cho hòn ngọc sáng "Chu dịch" bị chìm vào bóng tối. Tác giả Thiệu Vĩ Hoa dã giám dột phá vòng cấm, tuyên truyền cho khoa học ứng dụng của Chư dịch. Dự đoán học là thành tựu nghiên cứu nhiều năm và là sự tống kết kinh nghiệm được thực tiễn kiểm chứng của Thiệu Vĩ Hoa. Nó được xã hội coi trọng nghiên cứu ứng dụng và kết hợp với các biện pháp dự đoán của khoa học hiện đại, nó đã khai phá ra một lình vực rộng lớn cho sự kết hợp giữa phát triển khoa học dự đoán cổ điển với các tiến bộ của khoa học dự đoán hiện dại. Ngoài ra, ống còn mạnh dạn khám phá, phát triển ứng dụng dự doán theo "Chu dịch", ông đã phát minh ra Thẻ dự đoán thông tin của "Chu dịch" {gọi là "thẻ dự đoán theo sáu hào"). Xem "Chu dịch dự đoán học" và quẻ dự đoán cuộc đời, dự đoán động đất {trong cuốn "Các ví dụ và cách giải dự đoán theo Chu dịch"), phát hiện quy luật đồng bộ thông tin về vận mệnh cua những người cùng gia đình, v.v... của ông ta thấy rò giá tri học thuật và giá trị ứng dụng rất cao. Vì vậy tác phẩm của ông được rộng rãi độc giả trong và ngoài nước hoan nghênh, đó cũng là điều chứng minh dầy sức thuyết phục. Quyển sách này của tôi, là lấy cuốn sách "Chu dịch dự đoán học" của ông làm gốc để viết những diều cơ sở cần thiết. 3. "Chu dịch" và âm dương, ngũ hành Kinh dịch của Chu dịch tuy trực tiếp nói về âm dương nhưng mầm mống ảm dương của Kinh dịch là thể hiện sự biến hóa của quẻ và tượng hào, tức là thông qua tượng quê để thể hiện. Quan niệm về âm dương đả bao hàm ở trong sự cương nhu và hào của quẻ. Nó lấy "•mam" và đê làm hào âm và hào dương. Sự đối lập, thống nhất, tiêu giảm và tăng trưởng, chuyển hóa của âm dương dều quyết định bởi sự biến hóa của hai ký hiệu cơ bản đó. Trang Tử trong thiên "Thiên hà" có nói : "Dịch lấy âm dương làm dạo". Tức là nói, học thuyết âm dương là hạt nhân tư tưởng của Chu dịch. Trong dịch truyện quan niệm âm dương rất rỏ ràng. Hệ từ của dịch nói : "1 âm, 1 dương gọi là đạo", tức là nói mâu thuần vận động của âm dương là động lực phát triển của sự vật. Quan điềm triết học của Chu dịch cho rằng : mâu thuần vận dộng 367 của âm dương tồn tại trong vạn vật giữa triri đất gồm cả cáo hiệrr xâ hộ” tức là mà rộng ý nghĩa phe' biến của âm dưcmg Tức là nói sự dbUập thống nhất, vân động biến hỏa cùa âm dương quyết định sự ra dai, phát triển và biến hóa của vạn vật. Quan niệm về ngù hành bắt nguồn từ d« nhà Án nhà Thưưng nhtmg trong Chu dịch dã sám có mầm mống chính cùa ngũ hànhlàthùyvà hoa. Người xưa chia vạn z ra thành m loại Ịđn là ậm và «1™. * thủy hòa thổ là những vặt chất co bán dể tạo thành thế gtti.Do dó ngươi ta đã tổng hợp và phân tích kết quả quan sát các hiện tượng trong tự nhiên đem những hiện tượng và sự vật cần nói rõ phân ra một cách đơnL giản hành 5 íoại, đem nhòng sự vạt có thuộc tinh tựơng tự nhau xếp vao một trong 5 loại ngũ hành Trong sách "Hà lạc nguyên lý” nòi •' âm dương, to dương hóa hợp sinh ra ngũ hành, ngũ hành vữa 1 là mầm mong ÍZZÙ hàm trong vạn cdangoảnh CụTthànb thái cực Học thuyết ngũ hành lấy lý luận. âm dương làm hạt nhân Quan hệ sinh khắc, chế hóa giữa các ngũ hành thực chất là sự thê hi«Tn và *ig dụng của lý luận âm dượng Cho nên nói : Chu dịch dự đoán gắn K hành, ngu hành lai gắn chật vdi âm dddng Bát qudi của Chu dịch chmh^la sự vận dụng quy luật ngũ hành, giải thích và nói rô mối quan hẹ và sự biến hóa của các sự vật và hiện tượng. Giữa các ngũ hành tồn tại quy luật tương sddr. ‘ương khắc Tương sinh tương khắc cùngg.<Sí như âm dXng, lạ hai mặt khóngthc tách ríh cua sự vật Không có sinh Ai không có sự ra dơi và phát triển cùa sự vật; không c! khắc to Siông thể duy tri bằng và £ều hơa 1 trong quá trinh phát triển và biến hóa của sự việc. Mối quan hệ trong s ^t c^ khắc 1trong kh ắc có sinh tương phàn tương thành dựa vào nhau ọAy M *úc dẩy và duy cho vạn vật sinh trưỏng, phát triển và biến hóa bình thương. Ngủ hành tương sinh : mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ, thổ sinh kim. kim sinh thủy, thủy sinh mộc. Sách "Mệnh lý thám nguyên" nói : mộc sinh hỏa tính mộc âm áp hỏa phục trong đó xuyên qụã mà sinh ra nên gọi là mộcánh hòa Hôa ^nh tho . ví hỏa nóng nên cả thể dốt cháy mộc, mộc chấy thành tro tức thạnh đít nín ■ nói hòa s hh thổ. Thổ sinh kim, kim ẩn tàng trong đá. vào đất boi đắpthài núi cô ndi X =6 dà z thẩ sinh kim°Kịm sinh thủy vì khi cua thiêu to ôn nhuạn chảy ngầm“kim loại chảy ttónh nưdc nên gọi là kim sinh thày. Thủy sinh mộc VI nước nhuận mà sinh cây nên thủy sinh mộc. Trong quan hệ tương sinh có sinh ra tôi yà tói sinh ra Ví như trong dụ đoán 6 hào theo lý thuyết lục thân : sinh ra tôi là cha, mẹ, tjra là con cár Lấy ly luận của ngũ hành thi thủy sinh mộc. mộc sinh hỏa. Tương sinh cua ngu hành là mối quan lệ tương sinh tuần hoàn liên tục. 368 Ngũ hành tương khấc ĩ mộc khắc thổ, thổ khắc thủy, thủy khắc hỏa, hỏa khắc kim, kim khắc mộc. Sách "Bạch hổ thông nghĩa" nói : "Ngũ hành có thể tương hại lẫn nhau (tức tương khắc), đó là thuộc tính của trời đất. Nhiều thắng : nôn gọi là thủy thắng hỏa, tinh thắng cứng nên gọi là hỏa thắng kim; cương thắng nhu nên kim thắng mộc; kết chác thắng tán rời nên mộc thắng thổ; thực thắng hư nên thổ thắng thủy. Trong quan hệ tương khắc có hai mặt : khắc tôi và tôi khắc. Theo lục thân, cái khắc tôi là quan quỷ, cái tôi khác là thẽ tài, theo ngũ hành cáì khắc mộc là kim, cái mộc khắc là thổ. Quy luật ngũ hành tương khắc là quan hệ tương khắc cách ngôi. Sách Tố Vấn nói : "Ngũ hành đó là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, vừa cao quý, vừa thấp hèn, nó quyêT định sự sống chết và thành bại". Mọi vật trong vũ trụ dều thống nhất ở âm dương ngũ hành. Con người là một vật trong dó, nên cũng theo luật ngũ hành. Khi người ta vừa thoát thai từ mẹ nếu được khí tốt đầy đủ thì than khí sung túc mà thọ; được khí mạnh thì thân thê cường tráng. Ngược lại nếu khó khăn trắc trở thì nghèo hèn hoặc chết yếu. Từ trong ngũ hành sinh khắc có thể thông qua can, chi, của năm, tháng, ngày, giờ, sinh của con người - như một tiểu vũ trụ - nó dã bao hàm âm dương ngu hành khắc nhau, nên từ đó có thể doán biết cát hung, phúc họa của cả dời người. II. HIỂN THỨC vl sfip xếp IỊCH Thông qua tượng quẻ để dự đoán cát hung, họa phúc của sự vật, đó là mục đích của chúng ta. Muốn dạt được mục đích đó, đầu tiên phải học biết cách gieo quẻ. Gieo quẻ chính xác là khâu then chốt để đoán đúng sự việc. Gieo quẻ sai thì tất cả sẽ sai, cho dù bản lĩnh doán quẻ rất cao cường. Ngược 369 lại bản lĩnh đoán quẻ cao cường, là bắt nguồn từ nắm vừng và chính xác các kiến thức cơ sở, từ đó mà đạt được hiệu quả cao, chiếm được uy tín của mọi người. Do đó trước khi học gieo quẻ, phải tìm hiểu và năm vững những kiến thức cơ bán có Hên quan với gieo qué. Học viên tất nhiên phải có lịch vạn niên. Cho dù là đoán tượng quẻ hay đoán theo 6 hào, hoặc dự doán tứ trụ về vặn mệnh đều cần đến lịch vạn niên. Lịch vạn niên còn gọi là lịch âm dương. Lịch âm dương dùng biện pháp tháng nhuận, tức là lấy mặt trăng quay một vòng xưng quanh quả đất làm một tháng, đồng thời phcíi hợp với quả đất quay một vòng quanh mặt trời làm một năm. Hợp cả hai lại thành lịch âm dương. Muốn nói rõ sự ra dời và cách tính toán lập lịch âm dương thì phải nói rất dài. Trong dự đoán chúng ta chí cần biêt ở thời điểm nào các tiết khí giao nhau là đủ. Để bạn đọc nhập môn được nhanh, ở đây chỉ giới thiệu những tri thức cần thiết. 1. Tiếi khí 24 tiết khí của âm dương là để tiện cho việc sắp đặt công việc của nhà nông. Chúng có tên gọi là : lập xuân, vù thủy, kinh trập, xuân phán, thanh minh, cốc vũ, lập hạ, tiểu mãn, mang chủng, hạ chí, tiểu thử, đại thử, lập thu, xử thử, bạch lộ, thu phân, hàn lộ, sương giáng, lập đỏng, tiếu tuyết, đại tuyết, dông chí, tiểu hàn, dại hàn. Chia 24 tiết khí thành 12 tiết khí và 12 trung khí. Những tiết khí trong bảng giới thiệu trên ở scí lẻ gọi là tiết khí, những cái ở scT chẵn là trung khí. Trong lịch vạn niên ta thấy rõ những tháng âm lịch có trung khí thì trung khí rơi vào cuối tháng và tháng sau liền dó không có trung khí. Nói chung trong hai đến ba năm chỉ có một tháng không có trung khí. Âm lịch quy định tháng không có trung khí là tháng nhuận. Phía trước tháng nhuận là tháng gì thì tháng nhuận cũng mang tên tháng đó. Trong dự đoán thì 12 trung khí và tháng nhuận không có tác dụng trực tiếp. Trong dự đoán, dùng 12 tiết khí để phân chia ranh giới lệnh tháng giửa các tháng. Lập xuân là lệnh tháng thứ nhất trong 12 tiết khí của mỗi năm nên đó cũng là ngày đầu tiên của 1 năm. Cho nên I 1 Ó cũng là ngày phân chia ranh giới giữa nàm trước và năm sau. Lệnh tháng là một trong những tiêu chuẩn đê đo lường mức độ vượng suy trong dự đoán theo bát quái hoặc sáu hào. Nó cùng quan trọng như lệnh ngày. Muốn đếm 12 tiết khí được thuận chiều và lưu loát thi ta cần phải học thuộc, nhớ kỹ như sau : Xuân |Ị Kinh Thanh minh Hạ Chủng Thử Thu Lộ Hàn Đồng Đại tuyết Hàn (Lập (Kinh (Thanh (Lặp (Mang (Tiểu (Lập (Bạch (Hàn (Lập (Đại (Tiểu xuân) trập) minh) hạ) chủng) thử) thu) lộ) lộ) đông) tuyết) hàn) 370 2. Thiên can, địa chi 10 thiên can : Giáp, Ất, Bính, Đinh. Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý. 12 địa chi ỉ Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thán, Dậu, Tuất, Hợi. Trong sách 'Ngũ hành đại nghĩa" nói : can chi là do Đại Náo sáng tác ra. Đại Náo ban dầu lấy Giáp, Ât làm tên ngày, gọi là can; lấy Tý, Sửu làm tên tháng gọi là chi. Việc liên quan với trời thì dùng can, việc liên quan với đất thì dùng chi. Có sự khác biệt giữa âm dương nên có tên can, chi vậy. Trong sách “Quần thư khảo dị" nói : Giáp có nghĩa là tách ra. tức là chi vật đó tách ra khỏi vạn vật. Ât có nghĩa là bật ra, tức là chi vật đó vừa sơ sinh, vừa tách ra khói. Bính có nghĩa là tỏ rõ, tức là chi vật đó bắt đầu rõ ràng. Đinh có nghĩa là mạnh, tức chỉ vật dó trướng thành mạnh mẽ. Mậu có nghĩa là rậm, tức chỉ sự vật đã rậm rạp. Kỷ có nghĩa là ghi nhớ, tức chỉ vật đó đã thành hình, phản biệt được với vật khác. Canh có nghĩa là cứng rắn, tức chỉ vật đó đã có cốt lõi. Tán có nghĩa là mới, tức chỉ mọi vật mới sinh đều có kết quả. Nhâm có nghĩa là gánh chịu, tức chỉ đương khí chịu sự nuôi dưỡng vạn vật. Quý có nghĩa là vở nặt, tức chỉ vạn vật đã chín cứng, vờ nát. Do đó có thê thấy lơ thiên can không liên can đến mặt trời mọc mà chỉ có sự tuần hoàn lặp đi lập lại của mặt trời mới ảnh hưởng trực tiếp đến sự ra đời của vạn vật. 12 địa chi là để miêu tả chu kỳ vận hành của mặt trăng. Trong sách "Quần thư khảo dị" có nói : Tý có ý là nảy nở tức chỉ mầm phôi của vạn vật nảy nở trong dương khí. Sửu là chỉ phôi đó tiếp tục lớn lên. Dần là chi phôi đà nhô ra. Mão là chỉ mầm đã đội đất mà lên. Thìn là chỉ vật đó vận động trưởng thành. Tỵ có nghĩa là bắt đầu, tức chỉ vật đó đả bắt đầu lớn SAM ngọ Hình 12 Địa chi trên tay. 371 lên. Ngọ là chỉ vật đó đã có cành lá rậm rạp. Mùi là chỉ âm khí đã đầy đủ, trưởng thành, vật đả hơi suy, thế đã hơi yếu. Thân là chỉ vật dó đã sung mãn. Dậu là chỉ vật đó dã già, đả thành thục. Tuất là diệt là chỉ mọi vật đều suy diệt. Hợi là chỉ vật đă thu về hạt cứng. Do đó có thể thấy 12 dịa chi có liên quan với sóng, tối, khuyết, tròn của mặt trăng và chu kỳ tuần hoàn của mặt trăng có ảnh hưởng trực tiếp đến sự ra dời và lớn lên của vạn vật. Như vậy 10 thiên can và 12 địa chi liên quan đến nhận thức về đặc điểm vận động của mặt trời và mặt trăng. Mặt .trời, mặt trăng một là thái dương, một là thái âm. Người xưa lấy trời làm dương, lấy đất làm âm. Do đó cũng rất tự nhiên lấy 10 thiên can phối với trời, 12 chi phối với đât nên gọi là thiên can, địa chi. Trong dự đoán theo bát quái công dụng của 12 địa chi rất lớn. Mười thiên can phối hợp cới các tháng thường là không cố định, còn 12 dịa chi phối với các tháng thì cô' định, không đổi. Do dó có thể định vị được trên bàn tay. Khi nhớ 12 dịa chi có thể chia chúng thành hai nửa dể dọc dược nhanh. Sự phân bố của chúng trên bàn tay liên quan với các phương vị. Khi đêm chúng nên hướng từ bắc đến nam, dưa bàn tay trái ra, gốc ngón tay deo nhẫn là tý, thuận chiều kim đồng hồ đếm đến hợi (xem hình vẽ trang 371). dương Hình âm dương cách ngôi cùa 12 dịa chi. 3. Âm dương, ngũ hành của can, chi Giáp, bính, mậu, canh, nhâm là can dương. Ất, đinh, kỷ, tân, quý là can âm. Tý, dần, thin, ngọ, thân, tuất là chi dương. Sửu, mão, tỵ, mùi, hợi là chi âm. Phân thành can, chi âm dương là theo Dịch truyện nói : thái cực sinh lưỡng nghi. Ngũ hành : kiny mộc, thiĩy, hỏa, thổ là vật chất cơ bản tạo thành vạn vật. Nguyên thủy cua chúng cũng có thái cực. Cho nên, giáp, ất thuộc mộc, tiếp dó sinh lưỡng nghi : giáp 372 là dương, ất là âm. Bính, đinh cùng thuộc hỏa, bính là dương, đinh là âm. Mậu, kỷ cùng thuộc thổ, mậu là dương, kỷ là âm... Mặt khác dần, mão cùng thuộc mộc, dần là dương, mão là âm. Tỵ, ngọ cùng thuộc hỏa, ngọ là dương, tỵ là âm. Thân, dậu thuộc kim, thân dương, dậu âm. Tý, hợi thuộc thủy, tý dương, hợi âm. Thìn, tuất, sửu, mùi, đều thuộc thổ, thin, tuất là dương, sửu, mùi là âm. Ngoài ra theo lý số mà nói số lẻ 1,.3, 5, 7, 9 là dương, số chẵn : 2, 4, 6, 8, 10 là âm. Những cái thuộc dương là cứng. Trong dự doán : can dương của thiên can và chi dương của địa chi phối thành dôi, can ầm của thiên can, và chi âm của địa chi cũng phôi thành đôi, tạo thành can chi {lệnh tháng) của tháng và can chi (nhật thin) của ngày. Mười thiên can âm dương trong tượng quẻ không trực tiếp tham gia vào việc dự đoán nhưng phải phối hợp dùng nó trong tuần không, vượng tướng của thiên can, trong xác định thời gian ứng nghiệm và trong lục thần. (Điều này sẽ được bàn kỹ trong dự đoán theo 6 hào). Mười hai địa chi có vị trí cô' định theo lòng bàn tay (xem hình vè trang 371). 4. Phương vị của can chl Phương vỉ cùa 10 can : giáp, â't phương đống mộc; bính, đinh phương nam hỏa; mậu, kỷ ở giữa thổ; canh tân phương tây kim, nhâm, quý phương bắc thủy. Phương vỊ của 12 chi: Dần, măo, phương đông mộc; tỵ, ngọ phương nam hỏa; thân, dậu phương tây kim; hợi tý phương bắc thủy; thin, tuất, sửu, mùi là thổ của bốn mùa. Sách "TỐ vấn - khí giao biến Đại luận" có ghi việc quan sát sao để đoán phúc, họa. Tức là quan sát ánh sáng, dường đi, khoảng cách xa gần và tốc độ của các sao ; sao mộc, sao hỏa, sao thổ, sao kỉm, sao thủy đế biết tai nạn và đức. Các nhà thiên v&n cổ của Trung NAkt {chu tước) Hlnh 12 d|a chl quy thuộc 4 phương. 373 Quốc đế quan sát thiên tượng và sự chuyên động của mặt trời, mặt trăng, năm ngôi sao trên trời quay một vòng trong một ngày hay trên đường hoàng đạo và xích đạo mà đã chọn ra 28 ngôi sao, gọi là "28 tú" dể làm tiêu chí quan trắc. Họ còn chia 28 sao này thành bốn nhóm, mỗi nhóm 7 sao có liên quan với bôn phương : dồng, tây, nam, bắc và phối với tượng của 4 loại động vật là : Thanh long, bạch hổ, chu tước, huyền vũ, gọi là "tứ tượng" "tứ phương". Tên cầm tinh của 28 ngôi sao sau khi đơn giản hóa và đem ghép với Tứ tượng thì được : Phương đông - dần, mão, thin; phương nam - tỵ, ngọ, mùi; phương tây - thân, dậu, tuất; phương bắc - hợi, tý, sửu. Phương dông mộc khí lấy dần làm sự thăng phát khởi đầu, măo mộc là dương ở giữa, thin là dư khí của mộc. Phương nam lấy tỵ làm dương mới đến, ngọ hoa là đương thịnh, mùi là dư khí aia hỏa. Phương tây kim khí lấy thân làm sự giáng xuống ban đầu, dậu kim âm ở giữa, tuất là dư khí của kim. Phương bắc lấy hợi làm ám mới đến, tý thũy lâm âm đến cực, sửu là dư khi của thủy. Trong dự đoán, sự thịnh suy của "khí" 12 địa chi có liên quan mật thiết với vượng tướng hưu tù của lệnh tháng - tức là điều rất then chôt, trong đoán quẻ. Lệnh tháng của 12 địa chi tương ứng với phương vị cùa bát quái là cái quyết định vượng, suy, cát, hung của tượng quẻ và cũng tà cái quyết định vượng, suy, cát, hung của dụng thần và hào thế. 5. Mười hai địa chi với giò Tý (23 - 1); Sửu (1 - 3); Dần (3 - 5); Mâo (5 - 7); Thìn (7 - 9); Tỵ (9 - 11); Ngọ (11 - 13); Mùi (13 - 15); Thản (15 - 17); Đậu (17 - 19); Tuất (19 - 21); Hợi (21 - 23). Cách ghi 12 giờ của Trung Quốc lấy giờ Tý làm đầu, trước 11 giờ đêm thuộc về ngày hôm trước, từ 11 giờ dêm bắt đầu tính cho ngày hôm sau. Cho nên 11 giờ đêm là điểm phân chia hôm trước và hôm sau. Sau 11 giờ đêm là sáng ngày hôm sau, đến trước 1 giờ là giờ Tý. Trong dự doán theo bát quái đều dùng cách tính ngày như thế. Theo mối quan hệ của 12 dịa chi với các giờ ta có thể thấy rõ : Cứ cách 6 ngôi thì số giờ của địa chi lại lặp lại. Ví dụ giờ Tý là từ 11 giờ đến trước 1 giờ, giờ ngọ là từ 11 giờ trưa đến trước 1 giờ chiều, chỉ có điều 1 bên là ban ngày, 1 bên là ban đêm, cả hai cái là 1 cặp giờ đối lập lẫn nhau. Từ phương vị của ngù hành cũng thầy rồ : Tý là thủy ở bắc, ngọ là hỏa ở nam, phương vị và thuộc tính ngũ hành của chúng cũng đôi lập lẫn nhau... Sự dối lập này gọi là đối xung. Đối xung tức là tương xung tương khắc trực diện. Các kiến thức về lục xung sẻ nói rõ khi bàn về dự đoán theo sáu hào. ở đây chỉ dề cập sơ qua dể độc giả nhớ được cốc giờ tương ứng với 12 dịa chi. 374 III. ClkH TÍNH CAN, CHI CỦA NfiM, tháng, NGỈIV, giờ 1. Cách tính can, chi cùa năm Mười can và mười hai chi lần lượt từng cặp phối với nhau, phối 60 lần thì đủ một vòng, ví dụ : giáp tý, ất sửu, bính dần, đinh mão,... mãi cho đen quý hợi. Vì lấy can giáp và chi tý phối với nhau làm năm thứ nhất, nên phối kết một lượt toàn bọ can chi là 60 nàm, gọi là 60 giáp tý. Sáu mươi năm âm lịch cung gọi là một hoa giáp. Sau một hoa giáp thì can chi lại phối lại từ dầu, cứ thế lặp di, lặp lại mãi. Dưới dây giới thiệu bảng giáp tý 60 năm 1 .Giáp tỷ 11. Giáp tuất 21. Giáp thân 31. Giáp ngọ 41. Giấp thin 51. Giáp dấn 2. Ất sửu 12 . Ất hợi 22. Ấtdặu 32. Ất mùi 42. Ất ty 52. Ất mão 3. Binh dần 13 Bính tỷ 23. Bính tuất 33. Bính thân 43. Bính ngọ 53. Binh thin 4. Đinh mão 14. Đinh sửu 24 Đinh hợi 34. Đinh dậu 44 Đinh mùi 54 Đình tỵ 5. Mậu thin 15. Mậu dán 25. Mậu tý 35. Mậu tuát 45. Mậu thân 55. Mậu ngọ 6. Kỳ ty 16. Kỳ mão 26. Kỷ SỬU 36. Kỳ hợi 46 Kỳ dậu 56. Kỳ mùi 7. Canh ngọ 17. Canh thin 27. Canh dần 37. Canh tý 47. Canh tuất 57. Canh thân 8. Tân mùi 18. Tân tỵ 28. Tản mão 38. Tân sửu 48. Tân hợi 58. Tân dậu 9. Nhâm thân 19. Nhâm ngọ 29. Nhâm thin 39. Nhâm dán 49. Nhâm tỷ 59. Nhảm tuất 10. Quý dậu 20. Quỷ mùi 30. Quý ty 40. Quỷ mão 50. Quý sùu 60. Quỷ hợi Trong kỷ niên can chi hiện đại, 60 năm trước nàm 1924 gọi là thượng nguyên, 60 năm từ 1924 đến 1984 gọi là trung nguyên, 60 năm từ sau 1984 gọi là hạ nguyên. Như vậy là dã làm rõ can chi nám của nguyên nào. Dưới dây giới thiệu can chi 120 năm cuối của thế kỷ 20 tương ứng với các năm dương lịch và cầm tinh từng năm để tham khảo (xem trang 376 - 377). 2. Cách tính can, chỉ cùa tháng Tháng giông kiến Dán (Từ lập xuốn đến kinh trập) Tháng 5 kiến Ngọ (Mang chủng dến tiểu thử) Tháng 9 kiến Tuất (Hàn lộ dến lập đông) Tháng hai kiến mo (Từ trập đến thanh minh) Tháng 6 kiến Mùi (Tiểu thử dến lập thu) Thống 10 kiến Hợi (Lập dông dến dại tuyết) Tháng ba kiến Thin (Thanh minh đến lập hạ) Thảng 7 kiến Thân (Lập thu đốn bạch lộ) Tháng 11 kỉốn Tỷ (Đại tuyết đến tiểu hàn) Tháng tư kiến Tỵ (Từ lập hạ dến mang chùng) Tháng 0 kiến Dậu (Bạch lộ dốn hàn lộ) Tháng 12 kiến Sửu (Tiểu hàn dến lộp xuân) 375 DƯƠNG LỊCH VÀ CẦM TINH TỪ NĂM 1881 - 2000 ếii — o .5 g> — _ I õ <D o r o £ c Ẽ c E 1.1'3 *»o X c •<ro D Q. ;TO Ò Ơ5 — ọ .E w "ĩ c e J 5 «< LO Ơ5 c •<o c lc ọ irô ro — ro T- '< ơ> 05 g> c •o CE I c lc ro ĩ= . tp Cũ ỊV. o co c -*ọ tr I .5« c £ ỗ ò) Q. •ro ^ s ọ o co 05 o> X o 2 << 3 '<UJ X o 'ộ Q 2 2 m i £ Ể ỉ 1 - IJ 1 |4s co <0 s 05 q ơ> c . >ro £T LO ~ LO o ■< ró OI 05 ro s 05 o- ơ) -C ro — ro o Cũ (ũ 05 05 ạ a o s có 05 -C c >ra •0) Q ro ~ ro 05 •< ro CO 05 g. •m ro Ổ 5 00 05 •« <5 I 3 <«• o ro . r; ro 55 '< õo 05 <« ỊĨ K -C ro ,§ <0 05 CD ro có 05 CM '2 -0 o ♦-* 5 ro .5 h- 05 ơ> 8 o 3 JC o í ạ ■5 0 c O- X ro — ro ro '< 05 0) 05 5 I H I 3 ã ơ> §>< s 05 05 o '•ro 5 £ ro £ cọ CO CQ •*}• co 05 <05 Q •3 5 t'- r- l''' © c £ CO 05 n 3- O) o- cn z 5 •ra- -C * I c •ra rô h- -ra Ổ 3 •ra- Q N Ị= 05 u ự) CÓ 05 3 ro 5 ’ CŨ o «2 ro 05 05 '2 -C o ! ■•ro 5 ro 5 co 05 ^ ro ro 05 •o- 3 -C o £ _ẫ 05 05 05 § «*o X ẹ 5« ã 8 c 'O- o- X N. -3 r- ro Q 5 rô 05 3 ♦3 Ư1 £ s 3 N rt a 05 05 Ỡ> ■©• 5 JZ o I •>. (- 3 ro 5’ ro cọ -2 '5' rô ỡ> ọ •ra 2 o ỊTO 2 csị b ro 05 05 >»o X I c ■»ro o •t ro 05 O) c 'õ X I c 8 Ề s 05 05 376 Tính tháng theo can chi tức lấy bắc cưc làm trung tâm, Lấy tèn giờ cua chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hàng tháng (tức 12 dịa chi) làm tên gọi của tháng đó. Như thê gọi là 'Nguyệt kiến". Một năm 12 tháng > năm năm vừa dứng một vòng hoa giáp, trong dó không tính can chi tháng nhuận. Chi tháng hàng năm cố định không đổi, lấy tháng Dần bắt đẩu làm tháng giêng, tháng Sửu làm tháng 12 kết thúc. Giờ giao tiết lập xuân là kiến Dần. Thiên can của tháng phải qua tính toán mới tìm được. Nó tuy không cố định nhưng có quy luật tuần hoàn. Có thể nhớ theo câu thơ sau : Giáp, kỷ lấy bính làm đầu; At, canh láy mậu để làm tháng giêng. Bính, tân tìm đến canh Dần; Đinh, Nhâm phải kể nhâm dần trở đi. Gặp năm mậu, quý mỗi khi; giáp dần ghi nhớ tháng giêng mở đầu. "Giáp, ký lây bính làm đầu" nghĩa là : gặp năm can giáp, can kỷ, can chi tháng giêng là bính dần, tháng hai đinh mào... Ví dụ năm 1994 là giáp tuất, năm 1989 là kỷ tỵ thì tháng giêng của hai năm này đều là bính dần. "Ất, canh lấy mậu để làm tháng giêng" là : gặp năm ất, hoặc năm canh thì tháng giêng đều là mậu dần, tháng hai là kỷ mão... Ví dụ : Năm 1990 là canh ngọ, 1995 là ất hợi, nên tháng giêng của hai năm này dều là mậu dần. "Bính, tản tìm đến canh dần" nghĩa là ; gặp năm bính hoặc năm tâm thì tháng giêng là canh dần, tháng hai là tân mão... "Đinh, nhâm phải kể nhâm dần trở đi" là năm đinh hoặc năm nhâm, thì tháng giêng là nhâm dần, sau đó tính tiếp. "Gập năm mậu, quý mỗi khi, giáp dần ghi nhớ tháng giêng mở dầu” là đô'i với năm mậu hoặc năm quý, tháng giêng đều là giáp dần. Cách tính được giới thiệu theo bảng trang bên. Muôn tính can chi của tháng có thể tra lịch vạn niên và bảng "tính tháng theo năm". Nếu thuộc các câu thơ trên thì sẽ tính rất nhanh theo hình bàn tay. Ví dụ : Muốn tìm can chi tháng 3 năm Tân Mùi tức năm 1991 ? Vì vị trí 12 chi trên bàn tay đã cố định, nên chỉ cần tìm ra can tháng, sau đó phôi hợp với địa chi là dược. Theo câu : Bính, Tân tìm đến Canh Dần” ta biết dược tháng giêng ỉà Canh. Địa chi tháng giêng là Dần, nằm ỗ gốc ngón tay trỏ, do đó tính dược tháng 3 lù Nhâm Thìn. Trong dự doán, nguyệt kiến là lấy giới hạn từ kết thúc của tiết khí tháng trước dến bắt đầu tiết khí của tháng sau. Thời điểm giao tiết của mỗi tháng hàng năm khác nhau, do đó phải tra trong lịch vạn niên có giao tiết. Ví dụ : muốn tìm can chi của nguyệt lệnh ngày 15 thắng 3 nãm 1990. Đầu tiên dổi dương lịch thành âm lịch, tra lịch vạn niên ngày 15 tháng 3 dương lịch dược ngày 15 tháng 2 âm lịch, ngày dó là ngày kinh trập, qua dối chiếu với giao 378 tiết của nguyệt lệnh thấy từ kinh trập đến trước giao tiết thanh minh của tháng sau là tháng 2 kiến Mào, qua tính toán biết dược ngày đó thuộc tháng Kỷ Mão. Ví dụ : Muốn biết? nguyệt lệnh ngày 20 tháng 12 âm lịch năm 1990 ? Từ lịch vạn niên tra thấy ngày này đúng ngày lập xuân năm 1991, cũng tức là ngày nối năm cũ và năm mới. Căn cứ thời gian của giao tiết thì lập xuân lúc 16 giờ 09 phứt. Nếu việc hay người muốn đoán phát sinh sau 16 giờ 09 phút thì phái lấy nguyệt lệnh của năm mới, tức nguyệt lệnh tháng giêng năm 1991, dó là : ngày ất tỵ tháng canh dần năm tân mùi. Nếu sự việc phát sinh trước 16 giờ 09 phút thì phải lấy nguyệt lệnh tháng 12 năm cũ, tức ngày ất tỵ, tháng kỷ SỬU năm canh ngọ. Chú ý là khi gieo quẻ theo thời gian, nếu gặp phải nguyệt lệnh giáp nhau giữa năm cữ và năm mới thì đoán quẻ và gieo quẻ phải cẩn thận. Vì vậy cần lưu ý đến ví dụ cuối ở phần trên. BẢNG TÍNH THÁNG THEO NĂM Tháng Tháng Tháng Tháng Tháng Tháng Tháng Tháng Tháng Tháng Tháng Thảng Tháng Can nàrbv 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Giáp, Kỳ Bính Đinh Mậu Kỳ Canh Tân Nhãm Quý Giáp Ất Binh Đinh Dán Mào Thin Ty Ngọ Mủi Thân Dậu Tuất Hợi Tỷ Sừu Ất. Canh Mậu Kỳ Canh Tân Nhàm Quý Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỳ Dán Mão Thìn Ty Ngọ Mùi Thản Dậu Tuất Hợi Tỷ Sùu Bính. Tân Canh Tân Nhâm Quỷ p Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh Tân Dần Mão Thin Ty mi Mủi Thân Dậu Tuất Hợi Tỷ Sửu Đinh, Nhảm Nhàm Quỳ Giáp Ất Tỵ Binh Đinh Mậu Kỳ Canh Tân Nhâm E| Dán Măo Thin Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi Tỷ m Mậu, Quỷ Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỳ Canh Tôn Nhâm Quý Giáp Ất Đán Mão Thin Ty Ngọ Mùi Thân Dậu Tuât Hợi Tý Sửu Cách tính can, chi của ngày Can, chi của ngày cũng giống can, chi nồm, tháng, cho nên cách tính can chi ngày là lấy 60 ngày làm một chu kỳ tuần hoàn để tỉnh. Vì tháng có tháng đủ, tháng thiếu, năm có năm nhuận nên can, chi của ngày phải tra lịch vạn niên mới biết được. Trong dân gian có một số người mù doán mệnh theo tứ trụ, họ dựa vào bài vè để tính can, chi ngày, ở đây tác giả xin giới thiệu bảng tính tóm tắt can, chi ngày ở'òảng phụ lục cuối sách để bạn đọc mới học tham khảo. Cũng có những cách tính dùng dược cho cả n&m nhuận, đối với các bạn học mới nhập môn thì không nên hao phí tâm lực nhiều vào đó. 379 4. Cách tính can, chi của giờ Can, chi của giờ là phối can, chi lại rồi phối tương ứng với 60 giờ thành một chu kỳ. Sau khi biết được can, chi của ngày, muốn tính ra can, chi của giờ có thể dừng bài v5 sau : Giáp, kỷ Ãt, canh Bính, thân Đinh, nhâm Mậu, quý tý là giáp bính làm đầu tý 'từ mậu tý là canh nhâm là tý. "Giáp, kỷ : tý là giáp" nghĩa là : khi can ngày là giáp hoặc kỷ thì giờ tý là giáp tý. Biết được thiên cap của giờ tý là giáp, thỉ giờ sửu tất nhiên sẽ là ất sửu... Ví dụ giờ tý ngày 5 tháng 2 ăm lịch năm 1991, trong tứ trụ sẽ là : năm tân mùi, tháng tân mão, ngày kỷ sửu, giờ giáp tý. "Ất, canh : bính làm đầu" là, ngày ất hoặc ngày canh thì giờ tý là bính tý, giờ sửu sẽ là đinh sửu... BÀNG TÍNH GIỜ THEO NGÀY \JChi giờ Giờ Giở Giờ GIỞ Giở Giờ Giờ Giở GIỜ Giờ Giờ Gid Can ngâỳ\ tỷ sừu dán mão thin tỵ ngọ mùj thân dậu tuất hợi Giáp, kỷ Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quý Giáp Ất tỷ sửu dán mảo thin ty ngọ mùi thân dậú tuất hợl ĩ* Binh Đinh Mậu Kỷ Canh Nhâm Quý Giáp Ất Bính Đinh At, cann tý sửu dán mỏo thin ta ngọ mùl thôn dậu tuất hợl Mậu Kỳ Canh Tôn Nhảm Quỷ Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Dinri, man tỷ sửu dẩn măo thin ty ngọ mùi thân dậu tuất hợi Đinh, nham Canh Tàn Nhâm Quỷ Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỳ Canh Tôn tỷ sữu dán môo thin ty ngọ mùi thàn dậu tuất hợi Mậu, quỷ Nhãm Quý Giáp Ắt Bính Đinh Mậu Kỳ Canh Tân Nhâm Quỷ tý SỬU dán mfto thin tỵ ngụ mùl thân dặu tuất hợi "Bính, tản : tý từ mậu" lầ ngàý bính hoặc ngày tân, giờ tý là mậu tý. "Đinh, nhâm : tý là canh" là ngày đỉnÁ hoặc ngày nhâm, giờ tý là canh tý. "Mậu, Quý : nhâm là tý" là.ngày mỆ.u hoặc ngày quý, giờ tý là nhâm tý. Tính can chi của giờ theo dô't ngón tay, nếu thuộc bài vè trên thì sẽ rất thuẠn tiện. . 380 Khi học thuộc bài vè tính can chi của giờ có thể dựa theo thứ tự giáp, ất, bính, đinh, mậu, kỷ, canh, tân, nhâm, quý để nhớ. Thứ tự của giờ là "giáp tý", "bính tý", "mậu tý", "canh tý", "nhâm tý" tức là các can dương trong thập can. Như vậy ta đã sơ bộ nắm và phân biệt được : - Nguyệt kiến lấy dần làm tháng giêng âm lịch,..., sửu là tháng 12. - Năm và giờ thì lấy tý bắt dầu, tý là 1, sửu là 2,..., hợi là 12. Khi gieo quẻ phải phân biệt rõ, phải hiểu kỹ để khi dùng không lẫn lộn. Như lấy tháng dậu, năm tân mùi làm ví dụ : sô mùi của chi năm bắt đầu tính từ tý : tý là 1, sừu là 2... đến mùi là 8. Tháng dậu là tháng 8, tức tính từ dần là tháng giêng, mão tháng hai,... đến dậu tháng 8. sỏ' què là 8 nhưng có khác với địa chi. Sau khi đã nắm được cách tính can chi của năm, tháng, ngày, giờ là đă có thể sắp xếp tứ trụ được chính xác. Trong dự đoán theo tượng quẻ và sáu hào, thì can, chi là tiêu chí để do vượng, suy của quẻ và hào, từ đó có thể phán đoán được sự thay đổi, phát triển, cát, hung, thành, bại của sự vật. Trong đó nguyệt kiến là cái vô cùng quan trọng. Dưới đây cử hai ví dụ về sắp xếp tứ trụ. 1) Chiều ngày 1 tháng 10 năm 1949 "Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa" tuyên bố’ thành lập. Hôm đó là ngày hoàng dạo, giờ thân ngày đó là giờ tốt. Làm sao để tính tứ trụ ? Đầu tiên chuyển dương lịch thành âm lịch, dó là giờ thân ngày 10 tháng 8 năm 1949. Theo cách tính đã giới thiệu trên kia, ta có thể tìm ra được các can, chi. Đó là : Giờ nhâm thân, ngày giáp tý, tháng quý dậu, năm kỷ sửu. 2) Dưới đây nêu một ví dụ khó hcm. Cách sắp xếp tứ trụ của người sinh trước và sau lập xuân năm 1991. a) Lập xuân năm 1991 bắt dầu từ 16 giờ 09 phút ngày 20 tháng 12 âm lịch của năm 1990. Người sinh trước giờ này thuộc về tháng và cầm tinh của năm trước tức tháng sửu năm ngựa, ngày giờ không thay dổi. Tức là giờ giáp thân - ngày ất tỵ - tháng kỷ sửu - năm canh ngọ. số quẻ của nó lấy theo giờ thân ngày 20 tháng 12 năm âm lịch 1990, theo tháng kỷ sửu dể đoán. Người sinh sau 16 giờ 09 phút lập xuằn của 1991 sẽ được tính là sinh vào năm đó, nên can chi năm, tháng dều tính theo năm 1991. Tức : Giờ thân - ngày ất tỵ - tháng canh dần - năra tân mùi. Sô' quẻ vần tính theo giờ giáp thân - ngày 20 tháng 12 năm 1990, nhưng khi đoán quẻ, sự vượng suy của lệnh tháng phải lấy tháng canh dần năm tân mùi làm chuẩn. 381 chương 2 NHẬP MÔN TƯỢNG QUẺ Trên kia ta đâ dùng hình bàn tay để ghi nhớ cách tính can, chi cho năm, tháng, ngày, giờ. Dưới đây ta tìm hiểu và tìm cách nhớ các tượng quẻ, nêu nắm vững được nó thì sau này khi học dự đoán theo sáu hào sẽ cảm thấy nhẹ nhàng, không có gì dến nỗi bí hiểm nữa. Trong sô thư gửi đến, rất nhiều độc già chỉ hỏi đến cách dự đoán theo sáu hào chứ ít ai hỏi đến tượng quẻ, làm như là sáu hào mơi dự đoán được và do đó xem thường việc học tập và ứng dụng cách doán theo tượng quẻ. Nếu xét các câu hỏi của họ về giải quẻ thì thấy rõ vấn dề cơ bản cùa họ là chưa nắm vững cách suy nghĩ về tượng qué và sự biến dổi của nó. Vấn đề mấu chốt là chưa quen dùng tượng quẻ để đoán sự việc. Luồng suy nghĩ chưa thông suốt đả muốn thành công ngay, thật là "dục tóc bất dạt" vậy. Rất nhiều trường hợp nữa là muôn học nhưng lại không chịu dọc "Chu dịch", chi xem lướt qua. Có một ít độc giả ngay tý, sửu, dần, mão... còn chưa thuộc nên học tập càng khó khăn. Cuốn sách này viết ra cũng chủ yếu là giúp những dộc giả như thế, vượt qua một số trớ ngại trong bước dầu học "Chu dịch". Về dự đoán theo tượng quẻ, trình tự học tập là : - Thứ nhất phải hiểu và nhớ được tám quẻ thuần và 64 quẻ biệt. - Thứ hai, trên cơ sở nắm được sự sinh, khắc giữa quẻ dụng và quẻ thể theo tượng quẻ, còn biết vận dụng linh hoạt vào các tượng vật, sự việc cụ thể và trườu tượng. - Thứ ba, căn cứ tượng quẻ xác định được thời gian ứng nghiệm của cát, hung. I. HÌNH TI)M Giác cùn CHU DỊCH Muốn tìm hiểu vũ trụ quan của "Chu dịch" thì phải tìm hiểu bát quái đả sinh ra như thế nào ? Muốn tìm hiểu quá trình diễn biến từ thái cực đến 64 quẻ thì phải hiểu được nguyên lý số học hình tam giác nổi tiếng của Chu dịch (thái cực-► lưỡng nghi- > tứ tượng-* bát quái). Đó là tinh túy của vù trụ quan "Chu dịch", thể hiện tư tưởng chói lọi "một phán làm hai”, "hợp hai làm một". 382 Âm Dương Thái âm Thiếu dương Thiếu âm Thái dương Khôn Cấn Khảm Tôn Chấn Ly Đoài Càn Hình tam giác của Chu dịch 1. Hình thái cực Hình thái cực là hạt nhân bát quái, cũng là tinh túy của "Chu dịch”."Hệ từ của dịch" có nói : "Dịch có thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái". Đầu tiên thái cực hình tròn, biểu thị nhất nguyên khí của vũ trụ ban đầu hổn độn. Thái cực phân thành âm, dương tức chỉ hình thái cực có quy luật âm dương tiêu giảm và tâng trưởng. Đường cong thái cực chứa đựng quy luật biến hóa phát triển của sự vật, dồng thời cũng thể hiện quy luật lượng biến, chất biến của sự vật. Mỗi nửa âm dương của thái cực từ nhỏ dến to, từ to đến nhỏ, nói rõ sự vật khống phải đứng yên mà không ngừng vặn động, phát triển, chuyển hóa. Cực dương, cực âm chứng tỏ sự vật đến cực tất sẽ quay lại. , Thứ hai, hình thái cực còn biểu thị trong dương có âm, trong âm có dương, âm dương liên quan lẫn nhau, khống chế nhau, là vật thể thống nhất : một chia làm hai, hợp hai làm một. Song trong dương lại còn có dương cực, trong âm còn có âm cực; âm cực thì đương sinh, dương cực thì âm tăng trưởng, cucíi cùng tạo nên hình thái cực tượng trưng rõ nhất cho quan hệ đôi lập, thống nhất của âm dương một cách hoàn chỉnh. 2. Âm dương lưỡng nghi Thái cực chứa âm dương, âm dương là một phân làm hai, gọi là thái cực sinh lưỡng nghi. Cơ sở vật chất của bát quái là âm dương. Bát quái lấy ký hiệu âm dương phản ánh hiện tượng khách quan. Vạch của bát quái gọi là "hào". Hào thứ nhất là chỉ ánh sáng mặt trời, thứ hai chỉ ánh sáng mặt trăng, thứ ba là chỉ 383 giao thoa, "Hào" đại diện cho âm dương khí hóa, vì 8ự động của hào mà có biến quẻ, cho nên hào là thủy tổ của khí hóa. " là hào dương, tính cương thuộc dương; " là hào âm, tính nhu thuộc âm. Lường nghi tức trời đất, trời là dương, đất là âm. Trong sự hỗn độn ban đầu của nguyên khí thái cực, cái nhẹ và xanh ở bên trên làm trời, cái dục mà nặng ồ dưới làm đất. Hai hào âm, dương là các ký hiệu cơ bản nhất để tạo thành bát quái. Tính năng của vạn vật diễn biến thay đổi từ hai khí âm, dương này. 3. Tứ tượng Thái cực sinh âm dương. Âm dương lại tiếp tục phân hóa, tức lường nghi sinh tứ tượng. Lưỡng nghi phân thành thái âm , thiếu dương :rz, thiếu âm và thái dương = . Tứ tượng là một lẻ, một chẵn của lưỡng nghi chồng lên nhau mà tạo thành. Nó tượng trưng cho bôn mùa : xuân, hạ, thu, đông. Con cá âm dương trong thái cực, đầu cá đen là lão âm (thái âm), tượng trưng cho mùa đông; đuôi cá trắng là thiếu dương, đại biểu cho mùa xuân; đầu cá trắng là lão dương (thái dương) đại biểu cho mùa hạ; đuôi cá đen là thiếu âm, tượng trưng cho mùa thu. Vòng âm dương thái cực quay một vòng là một năm bốn mùa nóng, lạnh giao nhau, tượng trưng cho quả đất quay quanh mặt trời một vòng, củng tượng trưng cho quả đất một ngày đêm tự quay một vòng, tương tự như sự thu nhỏ chu kỳ sinh mệnh : sinh, trưởng, tráng, lăo, tử của con người. 4. Bát quáỉ Âm dương vận động vô cùng, tứ tượng sinh bát quái. Bát quái hình thành là tượng đã có trong đó. Để nhớ thuộc làu hình bát quái, ta nhớ qua câu vè sau : Càn ba liến Khôn sáu đoạn Chấn cốc ngửa Cấn úp xuôi Ly giữa rỗng Khảm giữa đấy Đoài khuyết trên Tốn khuyết dưới "Chu dịch" lấy tám loại vật tự nhiên đẽ đại biểu và tượng trưng cho sự câu thành và vận dộng biên hỏa của vù trụ. Đặc điểm của tượng quẻ là lảy tára quẻ kinh làm cơ sở của tượng quẻ, lần lượt tượng hình cho tám loại sự vật lớn : trời đất, sấm gió, nước lửa, núi đầm là tượng trưng cho tám quẻ. 'Từ quái của dịch" nói : "Có trời đất sau đó mới có vạn vật". Hai quẻ càn 384 khôn thiên dịa là tổ của vạn tượng, vạn vật sinh ra ở trong trời đất. Thủy hỏa là nguồn của vạn vật, là cơ sở của âm dương, sấm gió là sức cổ động, sơn trạch là cuối cùng hình thành. Có sơn trạch, sinh vật bắt đầu được nuôi sống, sự sống bắt đầu thai nghén, nhân loại từ đó mà phát triển lên. Bát quái của "Chu dịch" chia ra hai loại : tiên thiên bát quái và hậu thiên bát quái. Tiên thiên bát quái tương truyền do Phục Hy phát minh, nên còn gọi kà "Bát quái Phục Hy". Hậu thiên bát quái do Chu Văn Vương sáng tạo, nên còn gọi là "Bát quái Văn Vửơng". Cuối cùng do ai phát minh, sáng tạo đến nay vần chưa khẳng định. Cho dù thế nào đi nữa thì bát quái vẫn có cơ sở vật chât của nó. Sự ra đời của nó nói lên người xưa đã có chủ nghĩa duy vật và biện chứng pháp giản đơn. Bát quái là nhân dân Trung Quốc từ thực tiễn xã hội và cuộc sống tổng kết phát triển lên. Tiên thiên bát quái và hậu thiên bát quái đều có hình và tượng quẻ giống nhau, chỉ khác nhau về thứ tự sắp xếp và phương vị. Dùng số của tiên thiên bát quái và phương vị của hậu thiên bát quái để dự đoán sự việc là nhà thiên văn học và là bát quái dại sư Thiệu Khang Tiết đời Tống sáng tạo ra. Ngày nay dùng bát quái để dự đoán đều theo đó. \Y 3 Hình bát quái bàn tay dùng trong thực tế. 385 Quẻ lại chia ra quẻ ám, quẻ dương, tượng trưng cho sự vật có tính cương và tính nhu. Tiêu chuẩn để phản chia quẻ âm và aụẻ dương ]ầò số vạch hào chẵn hay lẻ. Ví dụ què càn khảm — —, cấn — 3, chấn sô' vạch hào đều lẻ nên đều thuộc quẻ dương, tượn^trưng ch^các sự vật có tính cương; còn các quẻ : tốn ly khôn E=, đoài = số vạch đều chẵn nên là các quẻ âm, tượng trưng cho các vật nhu, mềm. Trong học tập, chắc các bạn sẽ nẩy ra thắc mắc về mâu thuẫn giữa hai địa chi âm dương tý ngọ với hai quẻ âm dương ly khảm. Thực ra là trong tiên thiên bát quái, các quẻ càn, đoài, ly, chấn là dương; khôn, khảm, tốn, cấn là âm. "Chu dịch - Thuyết quái truyện" viết : thiên địa định vị, ly khảm sắp ở bên trái bên phải cửa; chấn đoài, tốn càn đô'i nhau. Quẻ ly của tiên thiên bát quái là quẻ dương, chi tý thủy (của 12 chi) ở ngôi âm cực của quẻ khảm, cho nên ảm dương của tý ngọ khớp với âm dương ly khảm của tiên thiên bát quái mà không hề mâu thuẫn. Hậu thiên bát quái ra đời thời Tây Chu. Triều Chu nổi lên ở tây bắc, nên lấy táy bắc làm trên, do đó dời càn, khôn lẽn phía tây. Trong chiêm bốc, phàm đoán đến phương tây đều lấy là tốt, ngược lại thì đều cho là không lợi. Những người đoán quẻ dời nhà Chu còn cho rằng quẻ ly là hỏa, tượng trưng cho nóng, nên lấy ly tượng trưng cho phương nam; khảm là thủy, tượng trưng cho hàn lạnh, dại biểu và phương bắc. Vì vậy hậu thiên bát quái đông ỏ chấn, táy là đoài, trên ly dưới khảm, nó lấy càn, khảm, cấn, chấn là bốn cung dương, tốn, ly, khôn, đoài làm bốn cung âm. Trong dự đoán cũng không hề có màu thuẫn : trong dự đoán theo tượng quê ta lấy ầm dương của hậu thiên bát quái để đoán quẻ, còn trong dự đoán theo sáu hào thì lấy âm dương ngũ hành theo 12 dịa chi của sáu hào đề đoán. Nhân tiện, ở đây xin nói thêm vài lời như thế, nếu giải đáp dược phần nào thắc mắc cho dộc giả thì tốt biết bao. Khi cần nhớ phương vị của hậu thiên bát quái thì nhớ theo thứ tự bốn cung dương (càn, khảm, cấn, chấn) và thứ tự bốn cung âm (tốn, ly, khôn, đoài). Bắt đầu từ càn thuận chiều kim đồng hồ hộ tính : tây băc -—» bắc -> dông bắc- > đông -—► đông nam ——► nam-► tây nam > tay, den đoài tây là kết thúc. Phương vị của hậu thiên bát quái thực ra rất dễ nhớ. Ta lại nhó số của tiên thiên bát quái như sau : càn 1, doài 2, ly 3, chấn 4, tốn 5, khảm 6, cấn 7, khôn 8 (số của tiên thiên bát quái là dương thuận, âm ngược tức đường lượn sóng âm dương tăng giảm ngược nhau). Nhà toán học nổi tiếng của Đức - Gaoxơ nói : "toán học là ông hoàng của mọi khoa học". Đặc điểm của dịch số là làm nổi rõ tính triết học của số học. Nguyên lý số học xuất hiện sớm nhất là tam giác của "Chu dịch". Sách "Hán thư - luật lịch chí" viết : "Từ khi Phục Hy vẽ ra bát quái cũng là lúc toán học bẩt đầu". 386 Qua quà trình hình thành bát. quài te > thỊấyrõ^trong « r * nhiều krên thức toán học đủ các mật Chi riêng tam giảc Chu dịch dà thấy rõ bát quái của Chu dịch gắn chặt với toán học. II. bAT ọuál víl TƯỢNG LOỌI CỦB VẠN VỘT Tượng quẻ bao gồm ý nghĩa cả hai mặt : một là một vật cụ thể; hai Là tuợngvậOiMi quát trbu tưlg Vật z tónbư^nlà tr*ú là cha, Utôntó “Hà mẹ; chấn là trưàng nam tón là trưâng nữ V V... Vật khái qưát trừu tượng thuọc loại cấp cao hưn tưộ âm vàdương. Càn cứ sự giãi thích cùa truyện" càn' khảm cấn, chấn là quẻ dương; tốn, h! quẻ họp vái nhau sẽ sản sinh ra sự đối kháng nhau giữa hai lực lượng âm ’ Dưổi^đảy lần lượt giới thiệu tưựng vật cùa tám què và tượng vật khái quát, tức tượng loại của 64 quẻ. 1. Tượng vật tám quẻ Tượng vật là lấy tượng quẽ cùa 8 què kinh là co sả để phân biệt 8 loại sự vật lớn *. Quẻ càn Sĩ tượng trời, q ue khón_--tượng đat Quẻ chấn ẸHi tượng sấm, T uẻ tổn ^" tượnggiố Quẻ khãtnH tượng nước, quẻ ly =Ẹl ư í n « [ửa Què cấn =E tượng núi. q- đoài = tượng sông hồ Trong bát quái Văn Vưong, "Chấn" tượng trưng cho mùa xuân, phưong đông. Mật trải mọc từ phương đông chiếu iên vạn vật, chúa tạo ra vạn vật bắt đầu từ quẻ chấn. 'Tốn tượng trưng cho ranh gidi giữa xuân và hạ ph^g đoưg oam. Quõ tốn làm cho vạn vật sinh trưảng dầy đủ, làm cho vạn vật phân biệt rõ ràng "Ly" tượng trưng cho mùa hạ, đại biểu phương nam. Chứng tò ngày dang ban trưa, phương nam chiếu rọi làm cho vạn vật hiện rô "Khôn" tượng trưng cho mùa cuối hạ sang thu, đại biểu phương tây nam. Nó tượng trưng cho quà đất nuôi dưãng vạn vật. Đoài tượng trưng cho mùa thu, đại biểu cho phương tây, khiến cho van vật ra hoa kết quả, vui mừng. ■Càn" tượng trưng ranh giới giữa thu và dông, dại biêuch Ị; p^ g Vì sự cạnh tranh xen nhau giữa sắng và tôi, âm và dương mà cứ hiện tượng đấu tranh. 387 "Khảm" tượng trưng mùa đỏng, đại biểu cho phương bác và nước. Lấy hình tượng nước chảy không ngừng để biểu hiện sự lao khổ, vất vả. Mặt trời lúc đó cũng chìm ẩn, mặt đất u ám, vạn vật mệt nhọc, nên nghỉ ngơi. "Cấn" tượng trưng ranh giới Ihùa đông và mùa xuân, đại biểu cho quẻ cấn xuất hiện phương dông bắc, mặt trời vừa ló rạng, u ám sắp qua, ánh sáng sắp đến, vạn vật sinh thành, kết thúc một vòng, đồng thời vòng mới sắp bắt đầu. Cho nên nói, quẻ cấn kết thức tất cả. Đúng như thuyết quái của Dịch nói : "Quẻ cấn õ dông bắc, vạn vật kết thúc mà cũng là bắt đầu". Các tượng của bát quái, càn cứ dặc tính cơ bản của chúng lại có thể phân thành vật thuộc tượng đó. Như quẻ càn do ba hào dương tạo thành, nên tính tượng thuần dương, chất cứng, lại vì càn là trời nên ngôi tượng ở cao, cho nên bất kể là sự vật trong tự nhiên hay xã hội, phàm thuộc đương tính và chất cứng và những vật ở cao đều thuộc tượng của quẻ càn. Lại ví dụ như quẻ khôn là do ba hào âm dạo thành, tính tượng thuần âm, chất nhu, khôn là đất, ngôi tượng ở dưđi, cho nên phàm những vật thuộc tính âm, chất mềm, ở dưới thì đều thuộc tượng của quẻ khôn. Vì vậy hai quẻ càn, khôn là hình tượng tổng quát vể dương âm, cương nhu. Những quẻ còn lại như quẻ chân là sâm, thuộc dương, chất cương tính động, cho nên tượng quẻ chấn là những vật tính động, tính dương và cứng. Quẻ tốn là gió, thuộc quẻ âm, chất mềm, tính động. Do đó phàm nhưng vật âm, mềm, trong mềm có cứng, trong tĩnh có động thì đều thuộc tượng quẻ tốn. Quẻ khảm là nước, thuộc quẻ dương, đương cứng. Phàm nước mưa, mây, dân chúng dều thuộc tượng nước. Quẻ khảm còn là quẻ hiểm, gọi là gồ ghề hiểm trở, dó là vì nước sông to tạo nên hiểm trở. Quẻ ly là lửa, là quẻ âm, quẻ nhu, tượng sáng, đức sáng, vì "ly là mặt trời", ý là dức chiếu sáng, là trong dương có âm, trong nhu có cương. Quẻ cấn là núi, quẻ dương, vật chất cứng, tượng ở trên cao, cao quý, cao đức. Cấn còn có nghĩa là "ngừng", nên còn có nghĩa là vững như núi, như bàn thạch. Quẻ đoài là sông hồ, quẻ âm, chất mềm yếu, chỉ những vật ở phía dưới, ầm, nhu. Nội dung tượng vật bát quái rộng, phức tạp mà bí ảo, trong đó cái cơ bản nhất là tượng của bát quái. Không rõ tượng bát quái thì không hiểu được học tuyết bát quái. Cho nên nói làm rõ và nhó được tượng loại của bát quái là phần cơ bản nhất để học cách dự đoán theo bát quái. "Tượng" đại biểu cho những sự vật có công năng giống nhau chứ không phải là những vật chất có các yếu tố giống nhau. Căn cứ sự phân chia của tượng bát quái quy thế giới thành tám loại lớn. 388 Tượng càn Càn là trời, là vua, là cha, là thiên tử, là đế vương, tiên vương, là dại quân, quốc quân, dại tộc nhân, thánh nhân, thiện nhân, quân tử, võ nhân, hành nhân, kim phu, cao tôn, tổ khảo, là thần, là người, là tôn, tộc là rồng, ngựa, ngựa tốt, là vật, là vạn vật, là vàng, ngọc, là băng hàn, là cái đấu, áo, ngoại vi, là dã ngoại, là cửa, là đỉnh, là đầu, là suôn, là thẳng, là mạnh, là dề, là kinh nể, là sợ, là uy, là nghiêm, .là cứng rắn, là đạo, là đức, là dức thịnh, là tốt, là hiền, là sinh động, là điều tốt, là khánh chúc, là vui mừng, là vinh dự, là phúc, là lộc, là trước, là bắt đầu, là lớn, là được, là dầy, là trị yên, là cao, là già, là xa, là mưu lớn, là không nghỉ, là .trinh, là nguyên, là xoáy tròn, là hoang sơ, là bao lấy. Tượng khôn Khôn là đất, là sau, là thần, là vợ, là dân, là bầy đàn, là số đông, là tiểu nhân, là thị dân, là bọn trộm cướp, là mẹ, là phụ nữ, là dì, là thành trì, là ruộng, là một bang, là nhà cửa, là gia trạch, là trên bộ, là bùn, là bế quan, là bò, là ngựa con, là xe lớn, là hông, là bình đựng, là đức dày, là ngọt, là béo, là thân thể, là cái cung, là mình, là tự mình, là vương (vua nước chư hầu), là yên, là trinh, là lợi, là giàu, là tích tụ, là đến, là dùng, là quy về, là nội dung, là kinh doanh, là dối lận, là mê, là muốn, là cú, là hại, là chết, là tang, là loạn, là chiều tối, là mười năm, là bạn, là tiền tài hàng hóa, là vuông vức, là quang minh chính dại, là thuận theo, là dược vê sau, là có ket thúc, là vô biên cương, là 8ự nghiệp. TƯỢng chấn Chấn là sấm, là đế vương, là con trai cả, là chủ, là tổ, là tông, là ông, là chư hầu, là bách quan, là kẻ sĩ, là chồng, là hành nhản, là đồ vật chính, là vương thần, là quân tử, là trăm thứ ngũ cốc, là tiền đồ rộng lớn, lồ dường bằng phảng, là sống, là ban đầu, là bên trái, là dần dần, là đi, là làm cỏ dại, là cây thấp, là lăng, là ngựa, là hươu lộc, là cái làn, là gót chân, là ngón cái, là dày, là đâm vào, là trống, là ra, là khởi đầu, là bôn ba, là sống lại, là phấn chấn, là dơ lên, là kính trọng, là cấm, là đầu, là uy, là nhân nghĩa, là kinh sợ, là nói, là cười, là kêu, là âm thanh, là lời cáo, là vui, là kế giữ, là xuất chinh. TƯỢng tốn Tốn là gió, là sương, là trưởng nữ, là trinh nữ, là phụ nừ, là vợ, là người trong cung, là người đi buôn, là trường mộc, là cỏ tranh, là thuôc, là gà, lá cá, là súc vải, là giường, là cày cuốc, là dây, là liên hệ, là báp đùi, là cánh tay, là tay, là nhìn xuống, là múa, là hát, là giải thoát, là trắng, là cao, là nhập vào, là phục ẩn, là tiến thoái, là không quyết, là mệnh, là hành sự, là hiệu lệnh, là phong tục, là nhìn thấy, là của cải. 389 Tượng khàm Khảm là nước, là mặt trăng, là mương rãnh, là hồng hà, là sông lớn, là khe sâu, là giếng, là suối lạnh, là mây, là mưa, là thánh, là trung nam, là khách, là giặc phỉ, là kẻ cướp, là kẻ trộm, là ba tuổi, là ba trăm, là hưng thịnh, là ngựa, là lợn, là cô độc, là gỗ tạp, là cung đàn, là ách cày, là hình cung, là phép tắc, là luật, là hình phạt, là cái tai, là thuận theo, là mông đít, là chết, là máu, là lao khổ, là tâm,, là ý chí, là cảnh giác, là lo buồn, là hối hận, là nghi ngờ, là lo lắng, là bệnh tim, là hiểm trở, là ẩn phục, là hung sự, là ham muốn, là độc, là học tập, là tụ lại, là quy về, là nhộn nhịp, là thường thường, là đến, là nhuận ướt, là điện, là gian khó, là rượu chè ãn uống, là kem. Tướng ly Ly là hỏa, là mặt trời, là điện, là đại nhân, là trung nữ, là mẹ, là phụ nữ, là em gái, là chủ nhân, là người ác, là bụng trên, là tháng, là cửa, là hộ gia đình, là quỷ, là góc, là hình phạt, là lao ngục, là vó lưới, là bình lọ, là bếp núc, là dao, là rìu, là mũi tên, là bay, là gia cầm chim chóc, là con bò, là văn chương, là màu vàng, là nhìn thấy, là đi lại, là trí khôn, là đại cát, là lông vũ, là thiêu cháy, là chói sóng, là lổ mũi, là đắng. Tượng cốn Cấn là núi, là đá, là cát, là miếu thờ, là môn dinh, là cung thất, là thành trì, là nhà trọ. là ngõ hẻm, là đường tắt, là huyệt, là gò đồi, là thung lũng, là khô, là thiếu nam, là quân tử, là hiền nhân, là người thâm trầm, là đệ tử, là tiểu nhân, là cô đơn, là trẻ thơ ngây, là chúa, là lổ mũi, là tay, là ngón tay, là lưng, là ngày cuối tháng, là đêm, là duôi, là da, là hổ, là báo, là chuột, là ngôi sao nhỏ, là ngày kết thúc, là gỗ nhỏ, là quả to, là ngô, là hoa lệ, là ngừng, là thận trọng, là tiết lễ, là chấp chính, là dẫn dắt, là chọn lấy, là cầu tìm, là đưa dắt, lồ nạp vào, là nắm lấy, là nhiều, là dày, là trung thành, thật thà, là tích dức, là biết nhiều, là tin, là nhớ đến, là nhỏ, là xấu hổ, là nghỉ, là nhàn, là ở, là thôi, là dề phừng, là ngôi thứ. Tượng đoài Đoài là sông hồ, là thiếu nữ, là em dâu, là em gái, là vợ, là thiếp, là bạn, là cãi vã, là nói năng, là miệng, là nhìn thấy, là giảng dạy, là dạy dỗ, là người tù, là chuốc lấy, là hưởng thụ, là hổ, là dê, lầ gia súc, ỉà bên phải, là phía tây, là phía dưới, là nó, là mỷ dung, là vàng, là góc. 2. 64 quẻ vđì tượng loại của vạn vệt 1) 64 quẻ. "Chu dịch' 1 có 64 quẻ, mỗi quẻ đều có tôn riêng. Đó là : Càn, khồn, truân, mông, nhu, tụng, sư, ti, tiểu súc, lý, thái, phù, đồng nhân, đại 390 hữu, khiêm, dự, tùy, cổ, lâm, quan, phệ hạp, bôn, bóc, phục, vô vọng, đại súc, dị, đại quá, khảm, ly, hàm, hằng, độn, đại tráng, tấn, minh di, gia nhân, khuê, kiển, giải, tổn, ích, phu, cấu, tụy, thăng, khốn, tỉnh, cách, đỉnh, chấn, cấn, tiệm, quy muội, phong, lữ, tốn, đoài, hoán, tiết, trung phù, tiểu quá, ký tê, vị tế. Sự sắp xếp của 64 quẻ "Chu dịch" khởi đầu ở hai quẻ : càn, khốn, tức từ càn là trời, khôn là đất, có trời đất saiỉ đó mới có vạn vật. Đó là tư tưởng chỉ đạo cho sự sắp xếp tiếp theo. Sách "Từ quái truyện" khi giải thích 64 quẻ, đã chia 64 quẻ thành "Thượng kinh" và "Hạ kinh". "Thượng kinh" bắt đầu từ dạo trời, "Hạ kinh" bắt đầu từ quan hệ giữa con người với nhau. "Thượng kinh" nói : tượng quẻ càn tượng trưng cho trời, tượng quẻ khôn tượng trưng cho đất. Giữa trời đất là vạn vật, cho nên tiếp theo là quẻ "Truân". Truân là đầy đủ, là vạn vật bắt đầu. Vạn vật khi mới bắt dầu. Khi mới bắt đầu, tất nhiên vạn vật còn chìm đắm, cho nên tiếp theo là quẻ "Mông". Mông là còn trong bóng tối, trong manh nha. Vạn vật manh nha thì không thể không nuôi dưỡng, cho nên tiếp theo là quẻ "Nhu". Nhu có nghĩa là phải được ăn uống. Ản uống tất sẽ kết thành bầy, nên tiếp theo là quẻ "Tụng". Tranh giành tất sẽ kết thành bầy, nên tiểp theo là quẻ "Sư". Sư có nghĩa là theo nhau. Bầy đông tất sẽ dựa vào nhau, nên tiếp theo là quẻ "Tỉ". Tỉ nghĩa là thân cận với nhau. Thân ái giúp đỡ nhau tât sẽ có sự xúm tụ lại, nên tiêp theo là quẻ "Tiêu súc". Súc có nghĩa là tích tụ lại. Khi vạn vật dã có sự tích tụ thì phải là lễ nghĩa, tiết chế, cho nên tiếp theo là quẻ "Lý". Lý có nghĩa là lễ nghĩa, âm nhạc. Có lể nghĩa rồi sẽ yên bình, nên tiếp theo là quẻ "Thái". Thái có nghĩa là thông thương. Nhưng vạn vật không thể thông thương từ đầu đến cuối, nên tiếp theo là quẻ "Phủ". Phủ nghĩa là hỏng, là trắc trở. Vạn vật lại không thể trắc trở từ đầu chí cuối, nên tiếp theo là quẻ "Đồng nhân". Có thể chung sông hài hòa với con người, nên vạn vật phải qui thuận, do đó tiếp theo là quẻ "Đại hữu". Người có sự nghiệp lớn không được tự mãn, nên tiếp theo là quẻ "Khiêm". Người có sự nghiệp lớn mà còn khiêm tốn thì việc gì cũng làm được, do đó rất yên vui, nên tiếp theo là quẻ "Dự". Người có thể khiến dân yên vui, tất nhiên ai cũng tìm đến, nên tiếp theo là quẻ "Tùy". Niềm vui cũng lung lạc con người làm cho họ "chìm đắm" trong yên vui, tất nhiên phát sinh sự chia rẽ, nên tiếp theo là quẻ "Cổ", cổ có nghĩa là hủ bại, phảt sinh sự chìa rẽ. Phát sình chia rẽ, sau đó lại mới có thể sáng tạo ra sự nghiệp lớn, nên tiếp theo là quẻ "Lâm". Lâm có nghĩa là lấy lớn thông trị nhỏ, ý là lớn. Sau khi lớn, có đầy dủ điều kiện dể so sánh, trao đổi với nhau, nên tiếp theo là quẻ "Quan". Đủ điều kiện để trao đổi học tập lần nhau nên khiến cho mọi người ngưỡng mộ, nên tiếp theo là quẻ "Phệ hạp". Hạp nghĩa là hợp. Những vạn vật không thể tùy tiện kết hợp với nhau, nên tiêp theo là quẻ "Bôn". Bôn có nghĩa là văn vẻ, trau chuốt. Nhưng vãn vẻ, trau chuốt quá sẽ mất tính chân thực, gáy ra tổn hại cho cái chung, tức sự hanh thông 391 đã đến chỗ tận cùng, do đó tiếp theo là quẻ "Bóc". Bóc có nghĩa là tróc rụng từng mảng. Rụng đến tận cùng lại trở thành từ trên quay về xuống tận dưới, nên tiếp theo là quẻ Phục", lần nữa trở lại cái thục, tức không phải là điều hư vong nừa, nên tiếp theo là quẻ "Vô vọng". Vật chất sau khi đă tích tụ lại có thể nuôi dưỡng, nên tiếp theo là quẻ "Di". Di có nghĩa là nuôi. Không nuôi dưỡng thì không thể lớn lên, nhưng ngược lại có thể bị nuôi dưỡng quá mức, nên tiếp theo là quẻ "Đại quá". Vạn vật không thể khi nào cũng bi nuôi dường quá, nên tiếp theo là quẻ "Khảm". Khảm có nghĩa là trũng vào, rơi vào. Vật bị trùng lõm tất nhiên phải được bù đắp, nên tiếp theo là quẻ "Ly". Ly nghĩa là đẹp, là phụ đắp vào cho đẹp để vươn lên. "Hạ kinh" nói : Sau khi cố trời dất mới có vạn vật, có vạn vật mới chia thành đực, cái, với con người gọi là nam, nữ. Có nam, nữ sau đó mới có vợ chồng. Tượng quê "Hàm" tượng trưng cho vợ chồng. Có vợ chồng sau đó mới có cha con. Có cha con xã hội mới có quan hệ cha con, xây dựng thể chế quân thần. Có thể chế quân thần, xà hội mới chia đẳng cấp trên dưới. Có đẳng cấp trên dưới sau đó mới xây đựng và thực thi lễ nghĩa. Quan hệ vợ chồng không thể không lâu dài, cho nên sau quẻ "Hàm" ìà quẻ "Hằng". Hằng nghĩa là lâu. Nhưng vạn vật không thể giữ mãi nguyên trạng mà không biến hóa, cho nên tiếp sau đó là quẻ "độn". Độn nghĩa là lùi tránh. Nhưng vạn vật không thể lúc nào cũng lùi tránh, nên tiếp theo là quẻ "Đại tráng". Tráng là hưng thịnh, dại tráng có nghĩa là hưng thịnh, lớn mạnh. Tiếp sau "dại tráng" là quẻ "Tấn", tấn là tiến lến. Tiến lên có lúc bị thương tổn nên tiếp theo là quẻ "Minh di", di có nghĩa ỉà sáng tạo. Đi ra bị thương tất phải quay về nhà, nên sau đó là quẻ "Gia nhân". Khi đã đi vào con dường cùng, hành vi tất nhiên sẽ có hiện tượng phản ngược lại, nên tiếp theo là quẻ "Khuê". Khuê nghĩa là phản nghịch lại. Phản nghịch tất nhiên gặp tai nạn, nên sau đó là quẻ "Kiển", kiển có nghĩa là tai nạn. Vạn vật không thể luôn gặp tai nạn, nên tiếp theo là quẻ "Giải", giải là giải trừ, hòa hoãn. Hòa hoãn tất nhiên có tổn thất, nên tiếp theo là quẻ "Tổn". Không ngừng tăng lẽn tất nhiên sẽ có chỗ xung vỡ, nên tiếp theo là quẻ "Phù". Phù có nghĩa ỉà xung vỡ. Sau sự xung vỡ tất nhiên sẽ có sự gặp gỡ nên tiếp theo ỉà quẻ "Cấu". Cấu có ý là không hẹn mà gặp. Vạn vật sau khi gặp gở, sẽ tụ tập lại, nên tiếp theo là quẻ "Tụy". Tụy là nhóm lại, tụ lại. Tụ tập lại sẽ dần dần lên cao, nên tiếp sau ỉà quẻ "Thăng". Không ngừng Lên cao sẽ rơi vào tình trạng tiến thoái khó khốn, nên tiếp theo là quẻ "Khốn”. Lên cao gặp khó khốn tất sẽ đi xuống, nên tiếp theo là quẻ "Tỉnh". Tỉnh là giếng. Nguyên tác sử dụng giếng là nếu không cho thau luôn sạch, nước sè dục, nên cần đổi mới luồn, do dó tiếp theo là quẻ "Cách". Khiến cho vật đổi mới, không gì bằng đỉnh (vạc), đỉnh dùng để nấu thức ăn, nó có thể thay đổi mùi vị thức ăn, nên tiếp theo là quẻ "Đỉnh". Đỉnh là đồ tế khí, tế lễ tổ tiên là trách nhiệm của con trai trưởng, nên tiếp theo là quẻ "Chấn". Quẻ "Chân" tượng trưng con trai 392 trưởng, chấn nghĩa là động. Vạn vật không thể luôn luôn động, phải làm cho nó ngừng nghỉ, nên tiếp theo là quẻ "Cấn". Cấn có nghĩa là dừng. Nhưng vạn vật cũng không thể ngừng mãi, nên tiếp theo là quẻ 'Tiệm . Tiệm là tiệm tiến. Tiến lên tất phải có thu về, nên tiếp theo là quẻ ”Qui muội". Được sự thu về tốt tất sẽ mạnh lên, nên tiếp theo là quẻ "Phong", phong là lớn mạnh. Lớn mạnh đến cực điểm, tất nhiên sẽ không yên vị ở vị trí cũ, nên tiếp theo là quẻ "Lữ". Lữ hành không tìm thấy chỗ dung thân, thì phải tìm cách vào đâu đó, nên tiếp theo là que "Tốn". Tốn có nghĩa là đi vào. Sau khi tiến yào sẽ vui mừng, nên tiếp theo là quẻ "Đoài”. Boài nghĩa là vui mừng. Vui mừng sẽ xua tân buồn bực, nên tiếp theo là què "Hoán". Hoán nghĩa là ly tán Vạn vật khồng thể ly tán mãi, nên tiếp theo là quẻ 'Tiết". Tiết chế sẽ khiến người ta tin tưởng lẫn nhau, nên tiếp theo là quẻ "Tiều quá". Quá tức là vượt qua. Có thể vượt qua điều thường tinh mới đủ sức làm việc lớn, nên tiếp theo là quẻ "Kí tế". Nhưng vạn vật không thể cùng tận được, nên tiếp theo là quẻ "VỊ tế". "Kinh dịch" đến đây là kết thúc, tượng trưng cho đạo trời tuần hoàn mãi, việc ở đời cũng vô cùng vô tận. Từ tượng của "Kinh dịch" mà xét, ta thấy ngoài sự chú trọng 4ến tượng trời, tượng của vật, còn chú trọng.đến tượng người (hiện tượng xã hội). Phản ánh đạo trời vl sự vận hành của mặt trời, mặt trăng và quả dất thể hiện chu kỳ tuần hoàn quay vòng tròn. Do đó khí hậu của tự nhiên sản sinh ra sự tăng trưởng và tiêu giảm của âm dương, tính tuần hoàn chu kỳ của ngày đêm, nóng lạnh. Phản ánh trong tượng vật là sự quay vòng : sinh, trưởng, tốt tươi, khô héo, chết. Phản ánh trong tượng người là động thái : sinh, trưởng, lớn mạnh, già, chết, lặp di lặp lại. Cho nên nói tượng quẻ cùa "Kinh dịch" có thể được xem là hình ảnh thu nhỏ của mối quan hệ giữa ba tượng : trời, người, vật. 2) Tượng ỉoạỉ của vạn vật Tám quẻ kinh của "Chu dịch" chồng lên nhau được 64 quẻ, từ đó tượng quẻ phát sinh thay đổi, đổi đen bao la vạn tượng, đồng thời cùng^ thể hiện moi quan hệ lẫn nhau giữa các sự vật. Qua thứ tự phát triển có thể từ tương lai hiểu được quá khứ hoặc từ quá khứ mà tính được tương lai. Cho nên nói "Dịch" là "số ngược" cũng tức là nói có thể truy tìm quá khứ hoặc suy tính được tương lai. Người đời thường nói : "Vật tụ theo bầy, người tụ theo nhóm". Vạn vật khác biệt nhau, nếu phân chia chúng theo những đặc tính chung, đó là đặc điểm hoạt dộng tư duy của con người. Bát quái muốn nói lên quy luật của : thiên, địa, nhân, đương nhiên phải gắn liền với cách phân loại theo qui nạp đối với các sự vật. Nhưng sự qui nạp đó rất đặc sắc, tóm lại có thể nói là : qui loại của bái quát là "qui loại theo tượng'Tửc căn cứ dặc tính công năng và moi liên hệ giữa các dộng thái hành vi của sự vật để phân loại. Xin xem bảng "Tượng loại các vật" dưới đây. 393 H «<• > <■ > Ọ (3 z I H ĐOÀI en (N Kim Trạch thủy khốn, Trạch địa tụy, Trạch sơn hàm, Thủy sơn kiển, Địa sơn khiẻm, Lòi sơn tiểu quá, Lôi trạch qui muội. E •ỏ o < 2 » >• s c ƠI râ c 2 s ô * . t s . s ề f £ ơ> É 3 ‘i — 5 3 c «0 'O KO «3 o c o £ !c -Ẽ £ •« CL < o c o o £ 1 "•O sz h- Sơn hỏa bôn, Sơn thiôn đại súc, Sơn trạch ổn, Hỏa trạch khuỗ, Thièn trạch lý, Phong trạch trung phù, Phong sơn tiệm. Mây, mù Phương dông bắc. Đường tắt qua núi. Cạnh nút đổi. Lãng mộ. to Hỏa Hỏa sơn lữ, Hỏa phong đỉnh, Thủy hòa vị tế, Sơn thủy mông, Phong thủy hoán, Thiôn thùy tụng. Thièn hòa đổng nhân. Lửa ll xo- = .5 2 « > Phương nam. Chỏ khô ráo Chổ lò luyện Chổ khô cứng Chỗ năng ráo. KHẢM o t£> Thủy %5 Ị S c J= 3 ^ * o o c -ã ■s 5 « tì ẽ « ẵ £ ỉ * « « I £ £ £ Sõ Ẵ -- 5- IŨX>UJ z Mưa, trăng, ~ tuyết, sương, mù È ■ - ■xo Õ c 3 -ó ã « * g>£ 3 “ s i f i 4 i ũ.wì:oz TỐN io <s> Mộc Phong thiẽn tiểu súc, Phong hòa gia nhãn, Phong lối ích, Thiên lồi võ vọng, Hỏa lối phệ hạp. Sơn lôi di, Sơn phong cổ. Gió Giỏ E <0- £ C3> >, ■" c xb >. 0 0x0 O) • u c £ Ẽ - d ẽ -õ > 1 z ? > 1 KHÔN 1 CHẤN i 1 Mộc Lôi địa dự, Lôi thúy giải, Lòi phong hẳng, Địa phong thăng, Thúy phong tỉnh, Trạch phong đại quá. Trạch lôi tủy Sấm Sám Phương đỏng. Cây cối. Chợ búa. Xa cuộc đi xa. Tre pheo, lau cỏ. Chỗ rậm rạp. r> co Thổ Địa lôi phục, Địa trạch lâm, Địa thiên thái, Lõi thién dại tráng, Trạch thiên phù, Thùy thiẻn nhu, Thủy địa tỉ. Đát 3 - -3 E ễ 5 o> Phương tây nam. Ngoài dổng ruộng. Nông thôn. Binh địa. z 3 Thiên phong cấu, Thiên sơn dộn, Thiên dịa phủ, Phong địa quan, Son dịa bỏc, Hỏa địa tấn, Hỏa thiôn đại hữu. b H __—. ——1 Băng, đá, ráng mây, mặt trời Phương tây bắc. Kinh dô. Quận lởn. Danh lam thắng địa. Nơi cao ráo. 1 Ngũ hành Hệ thống ơ c ■3 u c 1 t— Thời tiết •>> to o 394 â c c ■>> '5 ọ? c o -o 3 - -ã lìl H £ £ 3c f 1 I I 1 c OI Q- -5 .. *= c c o o ■= ■<»■ t ►- -<5 p ■= <5 £ jă > E -Õ Q. Jí fft ®; « : 05 *? OI £ oi c _>• _>• V <0 c -co £ 2 ạ,s & h- £ c c -0» iS. >> Q >■ '«5 ilf * I I .© 3 0 0 <> 3 3 ._• ỊE oob I- 2 z c 05 ọ ,£ I a- °> = ẽ « £ c 3 ~ 5 *rc 0*15 >- > z Ẽ >> — £- . . Cl ỵ 1 3fsllặS 1 r c u - z r ? x iá I o 5 4 ễ Sr gjjyji§i H II c .... £ - 'P 32 o- c 5: ĩ- 2 í I f o p c £ 15 .1= iỉ Ạ ọ^ i" -_ *■ ■§ o > B OI > 2 •1 _ẽ _£ w -Ọ C " c s T- 3 « V « *D> X £ 05 £ LO ọ ọ> _ >.■•>. 15 ầ .§ •S.s •& r õ «0 Õ5XCU 05 \- T3 c c ÌD c 05 CO 5 c o- - '2 15 05 oj £ £ £ >. ■"ÈSậ 05 ■« ro e c c <5 • - -w ọ ■C » 05 õ . H J= £ £ 0. O) E 5 c • !ầi = 1- ịịịặị I f s I ề _ ••Ọ) <0 ^ "O >. o _ 3 ° Ẽ c B s o 2 '■'P t: r n 1Ọ £ ($■ c -p í 1"! ỉíỉ cc £ 6 í B o « p >. '2 05-0 E _ >, ĩ? _ Ẹ -S _ £ <5 ƠI OI _ c c c C* 05 £? £ ịii%z h* Đ £ £■ 1- s- o õ> c 3 c 05 f ■« 3 c ,_ Q. s c 5 ®'«|ẹ 2 ,3 3 0« H 1 = o z te CL H _ . - 05 - ■? > .Ẹ 1 1 ^ .c 05 ° £ 05 2 <o £ c -3 £ -í =• *õ 05 z .* O » c o s o ~ 05 O 05 c > .£ <0' o "?? •0—0 s fc' >Ọ| ■0 .5 •id c *: 05 c -ô „ :© _ ơ Õ5 05 c 2* i •« 1 ? r •p -ÍO ^ T". 9* 15 ^ 5 > c c £ 05 "O w I ? ” ẫ ễ Ẽỉf t «?C£? ' w TTÌ * ■ c c £ g* ? e OI .. Ì 1111“ h X £ E f II I if íã«I 1? 05 c - *“ iă c . ị> 05 _ <5 3 c ,p--o-OOIO- o > Ỡ c 15 3 . - 3 Í ếềị s = o'iịj5S » ĩl E 1 - £ c c _ yi >x >, •I c •« _- -o £ ._• 05 d 05 tl '2 c 12 c £ Ẽ c _ c 5 I 3 -I 3 I ^ Ễ 3 £ ế £ «j Vua, cha, đại nhân, người già. bậc trưởng giả, đanh nhân, người nhà nước. Cứng; khỏe; võ; thỏng; quả quyết; động nhiều; tĩnh ít; cao, trẽn Đáư; xường phổi Mùa thu, giao thời giữa tháng 9 và tháng 10, năm tháng ngày giờ tuất hợi, nàm tháng ngày giờ ngũ kim Ngựa, thiẻn <5- 3- 1» c RJ «5 > 05 £ 05 > c c c 05 •<0 •5 <(Q o c £ Jz JZ £■ o- z z H H Q 395 396 ;= -■=' '3 -o > — £ 09 II’li ra ra- ra I 5 || ? 5 f c f— t 3 õ- u 3 ra -o c « c £■ c £ c 0 * *r“2 É ìs- 8 '22 ó >■ ■§ <p ậ o 2 «5 5E* Dí -£ 111 F ra- ễ .—- ạ c x± ~ "”- ra ra í .^. 5 ra T3 tl £ ? ra “• -• '2 -o c ra ra Ịĩ 3 « 3 H- o c d cr - o 09 lo ra f >■ ?! !g -O - 0 “ «- ■ũ£ ~f c -ra- ? «li ĩ ? ~ c c _ ơ c £ *2 ~ c O 2 K- </> > «J u £ì É s .-ra ._ o I I f J\ •o Ej c -p o ra 09 <09 2 ra !í c c£2 ■ 3 ? •'ã p * £ » 1 Q Ẵ I Q o Ễ -C 2K c p 3 o ra _ 09 o <3 '.to Ẽ -ra o 3 _ -Í0 r «s ị 115 5 '2 i ĩ ễĩs * iễ £ £ '5 f c ^ 2 'õ § I |fì| 1 li c 1 o> 10 ra 22 c ._- Õ c 93 ‘22 ra p 09 •= õ) ra c 2 c o 5 « £ 9 ra iĩ o I— õ > £ c ? -S 11-8 111 iỉr ra cữ .5 c 'O -2 2 -c s 9 09 I t] t ủ c c ifí ịs K ■«• o c £ ra ra o íõ" o p 1 ÍS n. 2> I 2 2 T 5 2 c Ễ c c „ •6 > •o râ !õ’ ra > 1 ■ẽ c ■ra £ •o ra rà ơ> o E sz c HQ] ■o ‘ra -c c ra c ể ra c ra ■C 5 3 iz •D £ CT o â. D) c E lĩ •c _c ra- £. ra 'XO n . '3 d. c c [c 09 c c • 2 - m _ - Cl ra -c c •o xz o 3 09 -5 c ra ■tì •o .6 CT c > u u _ o 09 o 'Kữ •5 ũ '3 c '3 i- ■a 'XO ra x: 1 - o o n u õ o o ■5 o •5 x: o -■Ì 3 -C E o o o ■<ra £ E É c _ <«■ n c re c ra ra > c ra c 3 o í' G 5 JZ 3 ra D Cl cr ■o sz <«D ■o ré- > o ■o c o nQ> ■O c ra 3 CT ra c" « c rê o E ra Õ •xõ •ra x: 09 3 E ra ■C c - c (0 1 Ò. > 5 w c .<0 ,ra £ a. £ ra ra o •>• E ■ra- c 09 c 1 Ẽ ó £ c 'ra 3 £ 2 o •D ế ra c ra > E c ra Q. u ■5 □9 c o •3 19 •3 E >'0 z 3 > "O- -C s £ ra ra X u ■ã o o Ĩ 5 > E cu c ra Õ nd o w 3 - 3 £ ^3 09 J= c > à 2 •o « c ra c 'rê o ♦- 3 E £ ra CL o ớ) f— 1 ) o a> ra- u. «\ a c ra- •3 •3 c 2 o- n õ sz £ ra 09 I u o E 19 (J iĩ c c. o' 'Õ t> E o 0 >> ra £ ơ> ■C ra wu ra ra [— ra 09 ■5 o 4-' râ •ã c * o o ra •o £ •5 •3 4_, ■o o £ ra £ c. ‘ra c o o ra Ồ c ra ■<0 -ra ọ o £ £ 11 Ji| z ra c _ 'O 'ra > ra £ ra « Ì3 ' c ■« í I c 1 ^ 3 £ ẽ J 1 $ ra ã 09 o ^ 3 ? 3 ệ . 3 3 ễ E o o £ I •o o -p iL £ u - o?'í Ố ra £ ?* I lít Ẽ — Ĩ 3 ^ _ II11 z c E ra •o •ộ. - £ õ a 3 §I I 5 '5 £ Ễ 5 ? o tl _ — _ gi gi p p £ c c ĩ> p- . 5ọ 0 5 5 0 z c £ 6 ra c 397 mưu nhưng thành đạt it. 398 399 Nắm vững tương loại các vật càng nhiều thì thao tác vận dụng càng điêu luyện và đoán việc càng chính xác. Quan sát tượng quẻ đòi hỏi sự nhạy cảm cao và sức tưởng tượng phong phú. Qua quan sát những tượng quẻ vốn có, cộng thêm với phát huy nhạy cảm cao độ và sức tưởng tượng dổi dào, chắc chắn sẽ dự đoán sự việc càng sâu và mới mẻ. Như thầy Thiệu Vĩ Hoa trước tết dương lịch năm 1992 dự đoán cho một phóng viên "Báo Dương thành buổi chiều", qua quẻ phệ hạp thấy được rất nhiều thông tin. Khi nói đến phóng viên dó gần đây được nhận một khoản tiền lớn, phóng viên đó không nhận ra đó là tiền từ đâu tới. Thiệu Vĩ Hoa căn cứ tượng quẻ nói thêm đó là tiền của mẹ vợ. Căn cứ mùi thổ thê tài, mùi ờ cung khôn, khôn là mẹ, là người già, lại ở quẻ thượng, tức cũng là quẻ ngoại, ngoại là xa, tổng hợp lại đoán là mẹ vợ. Phóng viên dó bồng nhiên nhớ lại gần đây mẹ nhạc ở Mỹ nhắn tin sè gửi cho khoan tiên đê con gái, con rể, cháu ngoại ăn tết cho đầy dủ. Ngay tại trận, phóng viên đó đã ồ lên khen đúng. Rõ ràng là trong tượng loại của quẻ không trực tiếp có gì là "mẹ vợ". Khi tôi dang miệt mài viết sách này, có một đoàn học viên đến thăm thầy Thiệu. Họ gồm sáu người, trong dó có kiến trúc sư cao cấp, có giáo viên, đều là những học viên lớp học đầu tiên năm 1990 thầy Thiệu dạy ở Thâm Quyến. Sau 'khi thăm hỏi sức khỏe thầy xong, họ đưa quẻ gieo trước khi đến thăm thầy để chứng thực. Đó là quẻ "Quan" của quẻ "Tiệm" và giải thích : quẻ hạ và cấn, là quẻ dụng, quẻ thể khắc quẻ dụng, tượng quẻ thế là tốt, là thầy ỗ nhà. Quẻ dụng là thay giáo, nhưng "Cấn” còn có tượng là giường, "Cấn" là ngừng, hào ba động, chứng tỏ thầy giáo đang ốm nằm trên giường. Quẻ "biến” ià quẻ "Khôn", mộc của quẻ thượng "Tốn" khác "Khôn" thổ, thổ là tì VỊ, là đau dạ dày ! Khi họ đến, thầy Thiệu đã ngồi dậy và thấy học viên đoán quẻ tiến bộ nhiều như thế nên bệnh bớt đi rất nhiêu. Qua ví dụ trên có thể thấy : vốn trong sách không ghi tượng quẻ cấn là giường, nhưng hình quẻ cấn như cái giường, hào thế vừa động lại vừa bị khắc, nên họ linh cảm thấy thầy ốm nằm trên giường. Ngoài ra, vì có người rèn luyện khí công nên sự cảm ứng của người đó càng nổi bật. Cho nên như nghệ nhân Trương Lực đà nói : nếu có thể kết hợp giữa khí công với trình tự dự đoán theo phương vị của bát quái, phát huy quan hệ cảm ứng giữa người dự đoán với người được đoán thì hiệu quả đoán càng cao. 400 Chương 3 GIEO QUẺ Quẻ "Dịch" từ quẻ đầu ỉà quẻ càn đến quẻ cuối là quẻ "vị tế" dều trong quá trình biến hóa, nên biên là tinh túy của Chu dịch . Trong "Chu dịch", sự biến hóa của tượng quẻ, ngôi quẻ củng như sự biến hóa của so hào, ngôi hào dều gọi là biến dịch. Từ thái cực biến đến 64 qué chứng tỏ tượng quẻ và ngôi quẻ, tượng hào và ngôi hào dêu biên động khong ngừng, luôn trong sự biến hóa và chuyển đổi. Người xưa gieo quẻ, xem sự biến đổi của nó. Cả bộ Chu dịch láy tượng quẻ và tượng hào bao gồm cả ký hiệu và hình vẽ làm cơ sở, dùng sò của tư duy trừu tượng dể thuyết minh các tượng quẻ, cà hai cái bô sung cho nhau để cấu tạo thành khung tư duy của dịch học và trở thành công cụ để nhận thức và nói rõ sự vật. Sức chứa đựng thông tin phong phú của "Chu dịch", hệ thống bát quái bao la vạn tượng, mỗi quẻ là một tiểu vũ trự về thông tin, cá 64 quẻ là một đại vũ trụ thông tin, bao gồm các vấn đề về triết học, tự nhiên và xã hội, cho nên có thể nói 64 tượng quẻ là bức tranh toàn cảnh về thông tin của tự nhiên, xã hội và con người. Về vấn đế 64 quẻ làm sao đă nối thông được các thông tin của con người và vù trụ thì từ các kết quả nghiên cứu về y dịch, công nghiệp, kiên trúc mà noi, điều dang tích cực nghiên cứu để từng bước khám phá bí ảo của "Chu dịch". Ngày nay có học giả từ quy luật chuyển động của mặt trâng dã tìm ra bối cảnh thiên văn của hà đồ và bái quát. Còn trong y học thì chỉ rõ quy luật ngũ hành sinh khắc chính là nguồn lực duy trì sự cân bằng giữa cơ thể con người với môi trường chung quanh.. Trời đât. là đại vũ trụ, là hệ lớn, là toàn bộ thông tin, cơ thể con người là tiểu vù trụ, là hệ thống nhỏ là thê giới nhỏ về thông tin. Khái niệm này đã được nhận thức và thừa nhận. Sự liên thông thông tin giữa người và vũ trụ, từ nguyên lý hai quẻ đơn của bát quái kết hợp lại với nhau mà xét có thể giống như quy luật hai loại nguyên tử khác nhau tổ hợp lại trong một kết cấu, đã được lý luận số chứng minh. Ngày nay khi mà thông qua làn sóng điện kỹ thuật truyền tin viền thông dã phát triển khắp toàn cầu ở trình độ cao thì mối quan hệ tương ứng giữa người và trời đất đã phát triển đến cao độ. Điều dó chứng tỏ khoa học càng phát triển thì môi quan hệ vĩ mô và vi mô giừa con người và trời đât do cô nhân nói đến trong "Chu dịch" càng được chứng minh cụ thể hơn. 401 Chương này sẽ giới thiệu một phần phương pháp gieo quẻ thường dùng của ngày xưa. Phương pháp này ra đời sau các phương pháp quy bô'c và cd thi, bao gồm phương pháp gieo quẻ dùng đồng tiền thay cỏ thi trong dự doán theo sáu hào. Phương pháp gieo quẻ theo cỏ thi của ngày xưa là dùng cây cò thi (còn gọi là răng cưa) sau mười tám lần biến đổi để lập tượng quẻ. Loại cỏ thi này chỉ thây mọc ở trước mộ Phục Hi ở huyện Hoài Dương tỉnh Nam Hà, diện tích khoảng nửa mẫu, hàng nghìn nàm nay chỉ phải cắt đi, không cần trồng lại, trồng chỗ khác thì chết, dùng theo quẻ rất linh nghiệm, cho nên là loại cỏ hiếm quý. Ngày nay có hai cách lập què chính : cách lập theo thời gian, cách khác là dùng ba' đồng tiền cổ lắc gieo sáu lần để lập tượng quẻ. Đồng thời với gídi thiệu phương pháp gieo quẻ, sách này còn giải thích cách lặp quẻ biến và quẻ hồ. Cuôi cùng sẽ giới thiệu làm thế nào để quy quẻ gieo được thuộc về tám cung và xét vượng tướng hưu tù ngũ hành của tượng quẻ. Thực hiện gieo quẻ đến bước này là đã đầy đủ, chỉ còn đoán quẻ nữa mà thôi. I. CIÍCH GIỄO ọuẻ Phép gieo quẻ thường dùng nhất là gieo quẻ theo thời gian, tức là dựa theo giờ âm lịch của sự việc cần đoán để lấy tượng quẻ. Như vậy, tức là sẽ dùng đến các kiến thức ở trong Chương I nói về cách ghi can chi nãm tháng ngày giờ. ở đây còn giới thiệu thêm mấy cách gieo quẻ khác. 1. Gieo quẻ theo thời gian Các quẻ đều do hào âm và hào dương tạo thành, 8 quẻ kinh có 3 hào là tượng quẻ cơ bản của 8 quẻ, nó tượng trưng cho 8 loại sự vật chính. Trong dự đoán thường lấy 64 quẻ làm thành tượng để dự đoán vạn vật. 64 quẻ này là do 8 quẻ chính, cứ hai quẻ một tổ hợp lại mà thành, quẻ nằm trên gọi là quẻ thượng, quẻ dưới là quẻ hạ. Trong dự đoán, khi vận dụng quẻ thượng cũng gọi là quẻ ngoại, hoặc quẻ trước, hoặc quẻ xa; quẻ hạ gọi là quẻ nội, quẻ sau, quẻ gần. Quẻ thượng trong phép gieo quẻ theo thời gian là số chi của năm ảm lịch cộng thêm sô' tháng, số ngày, sau đó lấy tổng số chia 8, số dư là sô' của quẻ thượng. Quẻ hạ là từ tổng của quẻ thượng cộng thêm số giờ, chia cho 8, được số dư là số của quẻ hạ. Ngoài ra còn phải tìm hào động để xác định quẻ thể, quẻ dụng dùng đoán quẻ. Cách tìm hào động là lấy tổng sô' cua năm, tháng, ngày, giờ chia cho 6, sô' dư là sô' hào của hào động. Đến đây mới gọi 402 là 1 qué được gieo hoàn chỉnh. Tượng quẻ được gieo như thế có thể ìà quẻ thượng và quẻ hạ giông nhau, ví dụ quẻ thượng và quẻ hạ đều là quẻ đoài. ZZ!, cả hai quẻ đoài chồng lên nhau là : =£=. Cũng có thể là được một tổ hợp khác, ví dụ : qué thượng là quẻ đoài, quẻ hạ là quẻ càn. Trước hết đọc quẻ thượng, sau đó đọc quẻ hạ. Quẻ thượng là đoài vi trạch, quẻ hạ là càn vi thiên, cả hai quẻ đọc là : trạch thiên quải. Nếu hào động là hào hai, thì 0 bên cạnh quẻ thuần đánh dấu đế nhớ. Bất kể là gieo que hay tìm quẻ động đều phải dùng sô' quẻ dể vè các quẻ. Sô quẻ là lây sô quẻ tiên thiên bát quái để định ra quẻ thượng và quẻ hạ. Dư 1 là càn, dư 2 là đoài, dư 3 là ly, dư 4 là chấn, dư 5 là tốn, dư 6 là khảm, dư 7 là cấn, dư 8 là khôn. Dưới đây, ta thao tác 1 ví dụ thực tế để nói rõ vấn đề : Ví dụ : gieo quẻ vào giờ Sửu, ngày 3 tháng 3 nhuận âm lịch năm 1993. Năm 1993 là năm Quý dậu, năm dậu lấy số 10, tháng 3 nhuận là sô' 3, ngày 3 là số 3, giờ sửu số 2 (chú ý về mặt xác định số nên ôn kỹ đoạn cuối của Tiết 3, Chương I). Tìm quẻ thượng : năm + tháng + ngày = 10 + 3 + 3 = 16; 16 chia 8 không có sô' dư nên lấy 8 làm sô' quẻ, tức quẻ khôn. Tìm quẻ hạ : năm + tháng + ngày + giờ = 10 + 3 + 3 + 2 = 18; 18 chia 8 dư 2, sô' 2 là quẻ đoài, vậy quẻ hạ là quẻ đoài. Tìm hào động : Tổng số quẻ hạ là 18, chia 6 vừa hết, nên số hào động là 6, tức hào sáu là hào động. Gieo què theo thời gian là quẻ gốc, ở quẻ này quẻ thượng là khôn, là địa, quẻ hạ là đoài, là trạch. Quẻ thượng và quẻ hạ chồng lên nhau được quẻ địa trạch lâm, thêm hào 6 động lấy quẻ khảm (ứng với số 6) để biểu thị hào dộng, nên tượng quẻ của quẻ gốc, biểu thị thành : == Dưới đây giới thiệu những phương pháp gieo quẻ khác. - Căn cứ sô" vật đếm được để gỉeo quẻ. Đô'i với những vật có thể đếm được, thì số đếm dược là quẻ thượng, lấy giờ đếm đó phô'i thành quẻ hạ. Lấy sô' quẻ thượng cộng thêm vdi số giờ chia cho 6 để tìm hào động. - Căn cứ sô tiêng đêm được để gieo quẻ. Phàm những tiếng nghe được như tiếng động vật kêu, tiếng gõ cửa... làm sô' của quẻ thượng. Sô' tiếng kêu đó cộng với sô' giờ lúc gieo quẻ chia cho 8, lấy số dư làm quẻ hạ. Lấy sô' quẻ thượng cộng sô' giờ chia cho 6, lấy sô' dư làm hào dộng. - Căn cứ chữ số để gieo quẻ : phàm gặp trường hợp viết chừ lấy tổng số chữ chia đôi làm quẻ thượng, 1 nửa làm quẻ hạ. Nếu sô' chữ là lẻ thì lây nửa 403 ít làm quẻ thượng, nửa nhiều thêm 1 chừ làm quẻ hạ, (ví dụ 7 chữ : số 3 làm quẻ thượng, số 4 làm quẻ hạ. Quẻ thượng là ly, què hạ là chấn, tức quẻ hỏa lôi phệ hạp). Nếu chỉ 1 chữ thì lấy số nét nửa trái làm quẻ thượng, số nét nửa phải làm quẻ hạ. Nếu số chữ nhiều thi xem cách lập quẻ trong sách 'Chu dịch và dự đoán học". - Gieo quẻ theo chiêu dàỉ thước, tấc. Đối với vật có thể đo được, lấy số trượng làm quẻ thượng, số thước làm quẻ' hạ, số tấc có thế’ bò qua. Hoặc lấy số thước làm quẻ thượng, số tấc làm quẻ hạ, số phân có thể bò qua. Thêm số giờ lúc đo để tìm hào động. - Căn cứ ngưdỉ để gieo quẻ. Gieo quẻ càn cứ theo người rất linh hoạt, đều phải nắm được những sự việc tức thời xảy ra. Ví dụ : nghe tiếng nói, lấy câu đầu hoặc câu cuối, căn cứ số tiếng để xác định quẻ. Hoặc ví dụ người đó già là càn, thiếu nữ là đoài, v.v... Hoặc ví dụ xem động tác, đầu động là càn, chân động là chấn, mắt dộng là ly. Lại ví dụ : xem màu da hoặc màu quần áo, xanh là chấn, đỏ là ly... - Căn cứ bây động vật để gỉeo quẻ. Nhìn thấy cả bầy thì không thể gieo quẻ, nhưng có thể căn cứ nhìn thấy 1 hoặc mấy con trong đó xác định quẻ thượng, phương vị các con vật dó đến để làm quẻ hạ. Cộng sô quẻ thượng cộng thêm số quẻ hạ, cộng thêm số giờ lúc gieo quẻ chia cho 6 để tìm hào dộng. Phương pháp gieo quẻ theo bầy động vật cũng rất linh hoạt. Ngoài cách gieo như trên, cũng có thể gieo theo tiếng kêu. Nếu là gia cầm cũng có thể gieo quẻ theo năm, tháng, ngày, giờ sinh. Nấu là vật đó mua về cũng có thể gieo theo thời điểm mua về. - Gieo quẻ theo tĩnh vật. Sông, núi, đất, đá không thể gieo quẻ được, hoặc các loại như : nhà, cửa, cây cối, bàn, ghế... có thể căn cứ ngày giờ làm ra chúng, hoặc giờ trồng cây, hoặc giờ đánh cây trồng dể gieo quẻ. Thiệu Ưng cho rằng : đối với tĩnh vật không thể đoán quẻ được. 2. Vai trò của hào động với quẻ thể và quẻ dụng Hào dộng là tiêu chí chủ yếu để phân biệt và xác dịnh quẻ thể, quẻ dụng. Số hào động không bao giờ quá số 6. Ờ quẻ chủ ta đếm từ dưới lên trên để lấy hào động. Nếu số dư là 1 tức hào động là hào đầu ở dưới nhất. Nếu số dư không có thì hào động là hào 6 trên cùng, như thế gọi là hào trên động, hoặc hào 6 động. Một quẻ có 6 hào, ba hào dưới là quẻ hạ, ba hào trên là quẻ thượng. Nếu hào động ở quẻ thượng, thì quẻ thượng là quẻ dụng. Nếu hào động ở quẻ 404 hạ, thì qưẻ hạ là quẻ dụng. Quẻ không có hào động là quẻ thể. Quẻ thể là quẻ mình, quẻ dụng là người khác hoặc sự việc. Lấy hào động để xác định quẻ thể, quẻ dụng là tiêu chí để doán việc hoặc đoán cát hung. Khi cần tham khảo quẻ biến, hào động còn là tiêu chí để sự việc biến thành tốt hoặc biến thành xấu, tức là biến sinh, hoặc biến khắc, biến ngang hòa, biến xì hơi. Hào động ngoài vai trò chính dể biến thành tốt, hoặc xấu nó còn là dấu hiệu chỉ thị loại vật. Nó có thể nói lên phương vị (ví dụ phương hoặc hướng đi có liên quan đến quẻ). Đối với lục thân thì nó là người có liên qian đến quẻ, đối với sự vật là sự việc có liên quan đến quẻ, dối với sô' thì đó là số người hay sô' vật, hay là những màu sắc có liên quan đến quẻ. Và có tác dụng gợi ý hoặc truyền tin tức. Trong dự đoán thông tin, tuy các phương pháp gieo quẻ khác nhau nhưng kết quả đều có xu hướng thông nhất. 64 quẻ của Chu dịch, mỗi hào đều có hào từ nói về cát, hung, hối, lận của hào đó. Hào động ở đây là căn cứ để tìm tra hào từ. Trong 1 quẻ có thể có mây hào động, cũng có thể không có hào động nào. Đô'i với người mới học, nếu gặp hào động nhiều tức sự việc biến hóa phức tạp rất khó khăn. Như trên đây đã giới thiệu .cách gieo quẻ theo thời gian, thì trong quẻ chĩ có 1 hào động, nên sự việc được nổi rõ dễ đoán. Vì vậy đối với những việc phức tạp khó đoán nên chờ khi kỹ thuật đoán đã thành thạo thì sẽ đoán dược dễ dàng hơn. 3. Quẻ chủ, quẻ hỗ và quẻ biến Phương pháp gieo quẻ theo thời gian và những cách gieo quẻ khác tìm ra quẻ đầu tiên gọi là quẻ gốc. Nếu muốn biết quá trinh phát triển của sự việc để tham khảo trong lúc đoán thì cần phải thông qua biến dịch. Trong trường hợp đó, quẻ gô'c trồ thành quẻ chủ. Khi phán đoán cát, hung, hối, lận, quẻ chủ là tượng quẻ chính có tác dụng chủ đạo, tác dụng quyết định. Quẻ chủ có thể căn cứ nhu cầu của sự việc để quyết định cẩn hay không cần đến quẻ hỗ hay quẻ biến. Quẻ chủ, chủ về đầu sự việc, quẻ hỗ ứng với thời gian giừa, quẻ biến ứng với thời gian cuối của sự việc dự đoán. 1) Quẻ biển quẻ biến là thông qua tổng số" của quẻ chủ chia cho 6, lấy số dư làm hào động, sau khi hào dộng biến ta có được quẻ biến. Thông thường giá trị tham khảo của quẻ biến cao hơn quẻ hỗ. Khi hào dộng nằm ở ngồi hào dương của quẻ chủ, động thì biến thành âm; hào âm của quẻ chủ dộng thì biến dương, còn các hào khác không thay dổi. Lúc dó ta sẽ biết được quẻ biến. Ví dụ : quẻ gốc của quẻ Địa trạch lâm có hào 6 động, lúc đó thì hào thứ 6 âm biến thành dương, tức quẻ thượng từ quẻ khôn biến thành cấn, quẻ hạ vẫn là quẻ đoài. Và báy giờ quẻ biến là Sơn trạch tổn. 405 2) Quẻ hỗ Trong gieo quẻ, vì mỗi què phải có 1 hào dộng nèn ngoài gieo quẻ gấc ra ta còn có thèm dược quẻ biến. Ngoài ra trong dự đoán còn cd loại quẻ hò căng giúp dỡ cho việc dự doán. Quẻ chủ là tiền đề quyết định sự cát, hung, thành, bại của sự việc, còn quẽ hỗ biểu thị cốc thông tin trong quá trình phát triển cua sự vật. Quẻ hồ là dùng các hào cùa què thượng và què hạ, tức là bỏ hào dầu cùa que hạ và hào thữọng cùa què thượng, còn lại là 4 hào d giữa dung dê" tạo thành quẻ hỗ. Cụ thê' là lấy hào hai, ba bốn của quẻ chủ làm quẻ hạ của qué hỗ, hào 3, 4, 5 của quẻ chù làm quẻ thượng cùa què hiu Ví dụ : quẻ hỗ của quẻ chủ Địa trạch lám là quẻ Địa lôi phục. Quá trình biên đổi như sau : Quẻ chủ (lâm) Quẻ hỗ (phục) Hào thượng động Hào năm - - “ ” Hào bôn -- Hào ba Hào hai — Hào đầu —i 3) Quẻ thể, quẻ dụng của què chù, quẻ hỗ, quẻ biến Hào động là then chốt quyết định quẻ thể, quẻ dụng của quẻ chủ, cát hung cua quẻ phải thông qua sinh khắc, chế hóa của ngũ hành giữa què thê và quẻ dụng để quyết dịnh (sẽ nói tỉ mỉ trong chương "Đoán quẻ"), ơ ví dụ trên sau khi đả xác định được quẻ thể và quẻ dụng tó sẽ căn cứ quan hệ sinh khắc của quẻ chủ và sinh khắc của quẻ biến để nhìn ra sự mở dẫu vầkèt cục của sự việc cần đoán, như thế tức là quẻ cát hay hung cũng đã rõ. Dưới đây ta xét xem nó biến hóa ra sao. Ngũ hành tương sinh Ngũ hành tương khẳc 406 Quy luật sinh khắc, chế hóa của ngũ hành, bát quái có một vai trò vô cùng quan trọng trong dự đoán theo tượng quẻ. Nó trực tiếp ảnh hưởng đến sự phán đoán dứng hay sai của sự việc. Ngoài ra còn phải nắm chắc và vận dụng linh hoạt quy luật 'Ngũ hành thái quá” và quy luật khắc ngược của ngũ hành" để phán đoán một cách tổng hợp thì mới đoán đúng sự vật. Sáu mươi tư quẻ theo ngũ hành thuộc tám cung, quẻ thứ nhât của mỗi cung là một trong tám quẻ dầu, bảy quẻ. còn lại đều do quẻ đầu biên mà ra. Cách biến cụ thể sẽ nói rõ trong phương pháp dự đoán theo sáu hào. ơ dây liệt kê tên của 64 quẻ thuộc 8 cung và sắp xếp tượng quẻ theo ngũ hành của bát quái để chuẩn bị cho việc tìm hiểu ở bước sau. Tên và tượng của 64 quẻ. 8 quẻ cung càn thuộc kim : Càn vi thiên =, thiên phong cấu phủ E 5, phong địa quan — E, sơn địa bóc = =, Quẻ chủ "Địa trạoh lâm" Quẻ biến "Sơn trạch tổn" =■=, thiên sơn độn ==, thiên địa Hào sáu - - dộng -ị Quẻ thượng : Hào năm»- Ị Quẻ dụng Hào bốn mm, Hào ba -Ị Quẻ hạ Hào hai -- Ị Quẻ thể Hào đầu - - ’ I Quẻ dụng I Quẻ thể Hào động của quẻ chủ ở quẻ thượng tức quẻ thượng là quẻ dụng. Quẻ thượng là quẻ khôn, ngũ hành thuộc thổ. Hào sáu âm động biên thành dương, vì vậy quẻ thượng của quẻ biến là khôn biến thành quẻ cấn, ngũ hành của què cấn cũng thuộc thổ. Quẻ hạ của quẻ chủ không có hào động, là quẻ thê, nên quẻ hạ của quẻ biến vẫn là quẻ đoài, ngũ hành thuộc kim. Quẻ thượng của quẻ chủ là quẻ dụng, do đó quẻ thượng của quẻ biến cũng là quẻ dụng. Nếu quẻ thượng của quẻ chủ là quẻ thể thì quẻ thượng của quẻ biến cũng là quẻ thể. Tương tự, nếu quẻ hạ của quẻ chủ là quẻ gì thì quẻ hạ của quẻ biên vần thế. Đoán quẻ : tức là dùng ngũ hành, sinh khắc của quẻ thượng và quẻ hạ của quẻ chủ, đồng thời căn cứ sự sinh khắc giữa quẻ hạ và quẻ thượng của biến để phán đoán. Khi ta gặp quẻ chủ là càn hoặc khôn, vì tất cả các hào dều dương hoặc âm nên không có quẻ hổ. 407 Thông thường sau khi gieo được quẻ chủ thì tất nhiên sẽ lập dược que biến. Nhưng nếu cân cứ theo quy luật phát triển của sự vật để sắp xếp trình tự các quẻ thì nên sắp : quẻ chủ - quẻ hỗ - quẻ biến. Cho nên khi cần dùng đến quẻ hỗ, ta nên viết nó vào giữa. Ví dụ ở quẻ trên ta dược như sau : Quẻ chủ (lâm) Quẻ hỗ (phục) Quẻ biến (tổn) II. NGŨ KhNH SINH KHik cùn TÁM CUNG Trong Chu dịch và âm dương ngũ hành của Chương I, thông qua giới thiệu ngũ hành tương khắc để chỉ rõ bát quái tức là vận dụng quy luật ngũ hành dể giải thích và nói rồ mối liên hệ cũng như sự biến hóa giữa các sự vật hoặc hiện tượng. Mối quan hệ sinh khắc, chế ước giữa các ngũ hành thực chất là mối quan hệ dối lập thống nhất, vừa dựa vào nhau vừa khống chế lẫn nhau của âm dương. Trong đó hỏa, kim, thủy thuộc tính dương, mộc và thổ thuộc tính âm. Cho nên nói ngũ hành là sự thể hiện và ứng dụng cụ thể của thuyết âm dương. Việc chia ra âm dương trong bát quái như sau.: Quẻ khâm là mùa đông thịnh, tức âm cực thịnh; mầm dương bắt đầu xuất hiện; quẻ chấn là phương đông là mùa xuản, âm đã giảm dần, dương tăng lên, dương khí thịnh dần; quẻ ly là tháng 5, hạ chí, dương cực thịnh, dương cực thì âm bắt đầu xuất hiện; quẻ đoài là tháng 7 là mùa thu, dương giảm dần, âm phát triển; quẻ khảm âm nhiều, tất nhiên dương lại bắt đầu phục sinh. Sách Thượng thư hồng phạm có ghi đầy đủ về ngũ hành như sau : "Thủy nhuận ở dưới, hỏa nóng à trên, mộc là cong, thẳng; kim là sự đổi mới, thổ là mùa màng. Qua đó có thể thấy quẻ ly tính thuộc nóng, nhiệt; quẻ khảm tính thuộc hàn thủy; tốn, chấn thuộc gió, mộc; khôn, cốn tính thuộc thấp, thổ; càn, đoài tính thuộc táo, kim. Cán cứ quy luật sinh khắc ngũ hành kêt hợp vứi sự tương quan giữa 8 quẻ, ta có hình vẽ thể hiện quy luật tương sinh, tương khắc dưới dây. Hỏa dịa tấn 3 £ , hỏa thiên đại hữu =2 408 8 quẻ cung đoàỉ thuộc kim : Đoài vi trạch ==, tra ch thủy khôn ErE,_trach địa tụy ==, trách sơn hàm — —, thủy sơn kiển — =, địa sơn khiêm = lôi sơn tiểu quá = => lôi trạch quy muội =£. 8 quẻ cung ly thuộc hỏa : Ly vi hỏa =■=, hỏa sơn lữ = =, h òa s ơn đỉnh =, hỏa thủy vị tế 7=, sơn thủy mông EHE, phong thủy hoán 7=, thiên thủy tụng 7=, thiên hỏa đồng nhân =-= . 8 quẻ cung chân thuộc mộc ỉ Chấn vi lôi ĩ=, lôi địa dự — =, lôi thủy giải 7=, lôi phong hằng 7=, dịa phong thăng 7=, thủy phong tỉnh 7=, trạch phong đại quá 7=, trạch lôi tùy SS-5S . 8 quẻ cung tôn thuộc mộc : Tốn vi phong 5S, phong thiên tiểu súc =, phong hỏa gi ai n hân =-=. ph ong lôi ích =-=, thiên lôi vô vọng =-=, hỏa lôi phệ hạp =, sơn lôi di =-=, sơn phong cổ 7= . 8 quẻ cung khảm thuộc thủy : Khảm vi thủy 7=, thủy trạch tiết S5=, thủy lôi truân Ej=, thủy hỏa ký tế trạch hỏa cách =, lôi hỏa phong E=, địa hỏa minh di ^=, địa hỏa 8 quẻ cung cấn thuộc thể : Cấn vi sơn ==, sơn hỏa bôn £L=, sơn thiên đại súc sss, sơn tracỉ^tổn 77, hỏa trạch khuẽ 5=, thiên trạch lý 77, phong trạch trung phù 77, phong sơn tiệm ==. 409 8 quẻ cung khôn thuộc thổ : _ _ Khôn vi địa ii. địa tói, phục li, địa tr|| lâm =, địa t||L thái=, lôi thiên đại tráng =, trạch thiên quải =, thủy thiên nhu =, thủy địa tỉ 5 = . III. VƯỢNG, TƯỚNG, HƯU, TÙ cùn NGŨ HhNH cóc TƯỢNG ọuẻ Nguyên lý sinh khắc chế hóa ám dương, ngũ hành Ịà dùng dể đoán qụẻ da có lỊch sử hơn ba nghin năm. Thực tiền chứng minh là chính xác lý luận khoa học của nó rất sâu sắc. Cân cứ sinh khắc âm dương, ngữ hành để đoán que đối với 64 quẻ mà nói càn bản không cổ quẻ nào là quẻ tốt hoặc quẻ xấu, mà là căn cứ vào sự vượng, suy ngũ hành của tượng hào và khí quẻ làm chính để phán đoán cát, hung. vượng, tướng, hưu, tù của ngũ hành, cùa tượng quẻ là căn cứ vào cấc mìia dể phán chia cho nên cũng gọi là vượng tướng của 4 mùa. Sách Tam mệnh thông hội khi giải thích về hưu vượng có nói : Xuân mộc vượng, vượng thl sinh hòa, nên hỏa là con cùa mộc, con‘thừa kế nghiệp cha, nên gọi là hỏa tưđng. Mộc nhò nưđc mà dược sinh trưởng cái sinh tòi là cha mẹ Nay mộc dã trưảng thành, nên thủy là cha mẹ dã hết sứ mệnh và rứt lui do đỏ thúy là hưu. Kim khắc mộc, nhưng mộc mùa xuân đang vượng kim không khác dược mộc, do đó mùa xuân kim là tù. Hòa sinh thô, thó |à tài của mộc mùa xuân, tài là vật ẩn tàng. Thảo mộc đã phát sinh thì thổ khi se phan tán, nên mộc mùa xuân khắc thô’ thì thồ chét. Mùa hạ hỏa vượng, hòa sinh thổ nên thổ là thổ tưỏng, mộc sinh hòa thi mộc hùti, thủy khắc hoa thì thủy tù, hòa khắc kim thì kim chết. Mùa thỉ vượng, thồ sinh kim thi kim tướng; hỏa sinh thổ thi hỏa hưu; mộc khắc thổ thi mộc tù; thỉ khắc thủy thi thúy chết. Thu kim vượng, kim sinh thủy thì thủy tướng; thổ sinh kim thì thí hưu; hỏa khắc kim thi hỏa tù; kim khắc mộc thì mộc chết. Đông thủy vượng, thủy sinh mộc thì mộc tưdng; kim sinh thủy thi kim hưu; thí khắc thủy thi thổ tù; thủy khắc hỏa thì hỏa chết. Căn cứ trên kia đầ nói, ta có thể khái quát, vượng tưdng hưu tù cùa ngũ hành bốn mùa như sau : Xuân mộc vượng, hỏa tướng, thổ tử, kim tù, thủy hưu. 410 Hạ hỏa vượng, thổ tướng, kim tử, thủy tù, mộc hưu. Thu kim vượng, thủy tướng, mộc tử, hỏa tù, thổ hưu. Đông thủy vượng, mộc tướng, hỏa tử, thổ tù, kim hưu. Tháng giêng kiến dần, tháng hai kiến mão, đều là những tháng mộc vượng, hỏa được mộc sinh nên quẻ Ly gập các tháng dần, mão là được sinh vượng, gặp tháng tỵ, ngọ là lâm nguyệt kiến đều là vượng tướng. Gặp tháng thổ, kim, thủy vượng thì mộc hưu tù. Tháng tư kiến tỵ, ngũ hành kiến ngọ là tháng hỏa vượng, thổ dược hỏa sinh cho nên quẻ khôn, quẻ cấn gặp tỵ, ngọ là được sinh vượng. Nếu gập các tháng tuất, SỬU, mùi là gặp nguyệt kiến đều là vượng tướng. Nêu gập các tháng kim, thủy, mộc vượng thi hỏa bị hưu tù. Tháng 7 kiến thân, tháng 8 kiến dậu đều là các tháng kim vượng. Mộc được thủy sinh cho nên quẻ tôn, quẻ chân gặp tháng hợi tháng tý đêu được sính vượng. Nếu gặp tháng dần, mão là gặp nguyệt kiến dều là vượng tướng. Nếu gặp các tháng hỏa, thổ, kim vượng thì mộc hun tù. Căn cứ vào bí quyết đoán vượng, suy của quẻ vừa tổng kết ở trên, ta thấy : Phàm quẻ được khí, gặp tháng sinh thì như cá gặp nước, gặp tháng vượng thi như cây khô gặp mùa xuân. Trong dự đoán theo tượng quẻ, ngoài việc căn cứ vào tượng quẻ để tìm ra những thông tin về loại tượng của nó, còn phải xem xét đên sự vượng suy của những thông tin này. Sự vượng suy thứ nhất là dịnh đoạt mức độ cát hung của quẻ thể, quẻ dụng, thứ hai là : định rỡ mức dộ sinh khắc của tượng quẻ. Ví dụ đoán trẻ con bị bắt cóc : ngoài việc căn cứ vào nội dung mà tượng loại của vạn vật gợi ý để xem con thuộc loại quẻ gì, bọn bắt cóc ở phương nào, cự ly xa hay gần, có liên quan với những chỗ như gần núi, gần nước, gần cây hay gần kim loại, gần lửa ra sao, còn phải xem quẻ của con bị khắc hay được sinh, sau đó căn cứ quan hệ sinh khắc giữa quẻ thể và quẻ dụng để rút ra kết luận. Đồng thời còn phải căn cứ vào khí quẻ vượng hay suy để phán đoán mức độ cát hung của quẻ thể và quẻ dụng. Cùng là bị khắc, nhưng trong đó có hai loại : bị khắc không sinh và trong khắc có cứu. Điều đó quan hệ đến thành hại của kết luận. Hay cùng là được cứu, nhưng còn phảỉ căn cứ tượng quẻ để đoán dịnh có dược trở về hay không. Về mức dộ sinh khắc của các tượng loại cũng phải lấy sự vượng suy của quẻ dể quyết dịnh. Ví dụ quẻ thể vượng thi không những con dược cứu mồ thân thể còn toàn vẹn, vượng tướng còn có nghĩa là dễ tìm thấy, dễ trở về, hoặc có thể là tháng vượng tướng thì sẽ trở về. Nếu quẻ thể vượng củng có 411 thể là ngày vượng tướng thì trử về. Khi đoán về mặt tin tức cùng tó thể nó, • tháng-vượng tưóng thì sẽ có tin, què thể vượng cũng cà thề nói đ ‘5"J vượng tướng thi có tin và là tin tức tốt. Từ vượng, suỵ cùa quẻ còn có thê thây được hoàn canh xung quanh chỗ trẻ dang ă : chỉ dơn thuẳn cân cứ vào tượng loại cùa vật, tuy c6 thể thấy được quẻ liên quan đến ngũ hành nào, ví dụ như co quan hệ với nước, nhưng là ả sõng nhò hay sông lớn, hoặc; ở biến ? vượng thì đương nhiên là chỗ nước lớn, ngược lại là chỗ nưdcnhỏ. Tất cả những tin tức này cộng thêm với sự đánh giá chính xác mức đô wợng suy cua què sẽ đưa rá được những đưímg dây rõ ràng, phạm vi tương đôi nhó và do đó dạt được mục đích dự đoán. Qua thí dụ trên, dộc giả có thể lấy dó tham khảo để vận dụng vào những việc cán phán đoán trong cuộc sống. 412 Chương 4 ĐOÁN TƯỢNG QUẺ Người xưa khi đoán quẻ, có người dùng từ qưẻ để đoán cát hung, có người càn cứ tượng quẻ để đoán; có người theo lý của quẻ để đoán; lại có người lấy sự biến đổi của hào từ của quẻ để đoán; có người dùng ý nghĩa lời vàn hai quẻ (thượng, hạ) dể đoán; lại cũng có người càn cứ tình hình thực tế dể đoán. Ông Kinh Phòng đời Hán thà dùng cách chọn dựng thần (đó là phương pháp đoán theo 6 hào), căn cứ vào ngũ hành sinh khắc của các hào để đoán cát hung, Óng Thiệu Khang Tiết đời Tông lại căn cứ vào ngũ hành sinh khắc của tượng quẻ để đoán cát hung. Vì càng ngày phương pháp gieo quẻ càng cải tiến, nên phương pháp đoán quẻ cũng cải'tiến theo. Đó là vì xã hội không ngừng phát triển, khoa học kỹ thuật không ngừng tiến bộ, nên năng lực tư duy của con người ngày càng được nâng cao. I. SINH KHik cùn QUẺ TH€ vft QUẻ DỤNG 1. Khái quát vể sinh khắc của quẻ thể và quẻ dụng Sau khi lập quẻ xong đầu tiên phải xem đó là quẻ gì, tức xem mối quan hệ ngũ hành của quẻ thượng và quẻ hạ là tương sinh hay tương khắc, hay ngang hòa. Phàm quẻ thể khắc quẻ dụng thì tốt. Ví dụ : quẻ động là quẻ dụng, là quẻ chấn, ngũ hành của nó thuộc mộc; quẻ thể là càn, ngũ hành thuộc kim. Càn kim khắc chấn mộc, tức quẻ thể khắc quẻ dụng, giông như mình thắng dối thủ là tốt. Quẻ dụng khắc quẻ thề là sự việc xẩu. Ví dụ ; Quẻ dụng là quẻ Ly, ngủ hành thuộc hỏa. quẻ thể là càn kim. Ly hỏa khắc càn kim, tức quẻ dụng khắc quẻ thể, giông như đối thủ thắng mình, là xấu. Quẻ thể sinh quẻ dụng là có sự hao tổn. Ví dụ quẻ dụng là què khảm, ngũ hành thuộc thủy. Quẻ thể là càn - kim. Càn kim sinh khảm - thủy, tức quẻ thể sinh quẻ dụng, giống như mình xì hơi cho người ta, là bị hao tổn. Quẻ dụng sinh quẻ thề là có đỉều mừng, có lợi. Ví dụ : quê dụng là quẻ khôn, ngũ hành thuộc thổ. Quẻ thể là càn - kim. Khôn thổ sinh càn - kim, tức què dụng sinh quẻ thể, giông như mình dược lợi nhờ đôi thủ, nên gọi là có ích. 413 Quẻ thể và dụng ngang hòa thì mọi việc đều thuận lợi. Ví dụ quẻ dụng là càn - kim hoặc đoài - kim, quẻ thể là càn - kim, ngũ hành giống nhau là ngang hòa. Do dó mọi việc đều thuận lợi như ý. Quẻ ngang hòa gồm có. Càn, khảm, cấn, chấn, tôn, ly, khôn, đoài, lý, quải, khiêm, bóc, hẳng, ích, gồm tất cả 14 quẻ. Quẻ thể được sinh càng nhiều thì càng tốt, khắc nhiều thì càng hại. Đây là nói về khi quẻ hỗ và quẻ biến tổng hợp cân bằng thì khi quẻ thề được sinh nhiều là tốt, hoặc quẻ thể có thế mạnh; ngược lại thì càng xấu. Ví dụ quẻ thể là càn - kim. Cái sinh kim là thổ, mà còn được thổ của khôn, cấn trong quẻ hỗ và quẻ biến giúp đỡ nữa thì chẳng khác gi đã tốt càng thêm tốt. Nếu quẻ thể đả không tốt lại gặp phải ly - hỏa của quẻ biến và quẻ hổ đến xâm phạm thì chẳng khác gì thêm dầu vào lửa, xấu càng xấu thêtai. Quẻ dụng cát biến thành hung là ban đầu tốt, sau xấu. Ớ dây nói quẻ chủ có quẻ dụng sinh quẻ thể, hoặc quẻ thể khắc quẻ dụng đều chủ về tốt, nhưng trong quẻ biến quẻ dụng khắc quẻ thể đương nhiên là ban dầu tốt, sau xấu. Ví dụ quẻ dụng của quẻ chu là qué cấn, quẻ thể là quẻ càn. cấn - thổ sinh càn - kim là dụng sinh thể, đương nhiên là tốt. Nhưng vì hào 4 của quẻ chủ động, hào âm biến thành hào dương cho nên quẻ biến thành dụng khắc thể. Như thế gọi là trước tô't sau xấu. Quẻ dụng hung biển thành cát là trước xấu sau tốt. ở đây chỉ quẻ chủ là hung, quẻ biến là cát. Quẻ dụng của quẻ chủ khắc, quẻ thể, quẻ biến lại là dụng sinh thể, hoặc thể khắc dụng. Ví dụ : qué dụng là Ly - hỏa, hào trên dộng, quẻ thể biến thành càn - kim, dụng khắc thể, đó là điều chắc chắn. Nhưng quẻ chủ biến thành thổ sinh kim, tức là dụng sinh thể, nên cuối cùng biến sự nguy hiểm thành yên lành tức là gặp hung hóa cát. BỊ khắc chỗ này, nhưng chỗ kia được sinh ỉà trong khắc có sinh. Trường hợp này cũng giống như "quẻ dụng hung biến thành cát, trước hung sau cát". Tức là tuy sự việc cần doán khác nhau nên cách nói khác nhau mà thôi. Mấu chốt của vấn đề là ở chỗ có cứu hay không có cứu. Bị khắc mà gặp sinh là có cứu; bị khắc mà không có sinh là không có cứu. Quẻ dụng mạnh thì quẻ thể tất suy, quẻ thể mạnh thì dụng tất suy : ơ đây có nghĩa nói cái sinh thể mà nhiều thì tốt. Cái khác thể nhiều thì xấu. Sự phân biệt sinh thể hay khắc thể là quẻ thể được trợ giúp hay không dược trợ giúp. Quẻ thể mạnh gọi là thế của nó mạnh, quẻ dụng mạnh là thế của nó thịnh. Nếu quẻ dụng nhiều người, thế dông thì tất nhiên quẻ thể thế cô không địch nổi; nếu quẻ thể thanh thế to lớn thì quẻ dụng tất phải cam chịu thế yếu. 414 2. Tượng quẻ sinh, khắc chủ các việc Nhừng người mới học, sau khi lập được tượng quẻ thường rất lúng túng không biết bắt đầu nói từ đâu. Mục tượng quẻ sinh, khắc làm chủ các việc có thể gợi ý cho các bạn trong muôn vàn sự việc sẽ được quy nạp lại thành hai trường hợp : sinh thể và khắc thể. Do đó có thể so sánh để tham khảo sử dụng. Sự sinh, khắc của tượng quẻ chủ cóc việc sau : - Quẻ càn sinh thể : Chủ về việc có lợi cho mình trong việc công, hoặc có tin mừng về mặt công danh, hoặc lợi của nhờ việc quan, hoặc thắng lý trong kiện tụng, hoặc có lợi được của quý, hoặc được bạn tặng quà, hoặc có tin mừng lên chức. - Quẻ càn khắc thề : Chủ về các việc có nỗi lo trong công việc, hoặc lo về nhà cửa, hoặc mất của cải, hoặc bị tổn thất về tiền bạc, ngủ cốc, hoặc danh dự bị xúc phạm, hoặc bị phạm tội với người trên. - Quẻ khôn sinh quẻ thể : Chủ về các việc có tin mừng về ruộng đất, hoặc được của nhờ ruộng đất, hoặc được lợi nhờ người thân, hoặc lợi nhờ âm nhân (người quá cô'), hoặc được thóc gạo, vải vóc do có người tặng. - Quẻ khôn khắc quẻ thể : Chủ về các việc lo lắng vì ruộng đất, hoặc hao tổn vì ruộng đất, hoặc bị tiểu nhân làm hại, hoặc bị âm nhân (người quá cố) gáy hại, hoặc mất vải vóc, thóc gạo. - Quẻ chấn sinh quẻ thể : Chủ các việc được lợi nhuận hoặc được của nhờ những việc sơn lâm, hoặc được của từ phương đông đến, hoặc có tin mừng trong việc di chuyển, hoặc được lợi trong việc giao dịch về đồ gỗ. - Quẻ chấn khắc quẻ thể : Chủ về lo lắng vu vơ, thường vì quá lo sợ, hoặc bản thân không thể yên tĩnh, hoặc tai nạn nhà cửa, hoặc bị những người làm nghề sơn lâm xâm phạm hoặc bị mất các thứ của về sơn lám. - Quẻ tốn sinh quẻ thể : Chủ về những lợi ích do sơn lâm hoặc nhờ những việc sơn lâm mà được của, hoặc được của từ phía đông nam đến, hoặc được lợi nhờ những mặt hàng thảo mộc. - Quẻ tốn khấc quẻ thể : Là bị những người trong tên họ có chữ thảo, mộc làm hại, hoặc lo lắng vì những việc sơn lâm hoặc bị người ở phía nam làm lo lắng, phải cấm kỵ những điều hại vì vợ hoặc những tai ách vì trẻ con, hoặc người xấu dưa đến. - Quẻ khảm sinh quẻ thể : Chủ về các tin mừng từ phương bắc đến, hoặc được của từ phương bắc hoặc được người ở gần nước tặng quà, hoặc được lợi nhờ những việc giao dịch qua các mặt hàng : cá, muối, rượu hoặc văn thư, hoặc dược tặng nhưng loại sản vật trên. 415 BẢNG PHÂN BIỆT THE, DỤNG SINH KHẤC NHAU 416 •i S' -C c “ ơ> ầ y o s s 5 3 2 ■6 õ- -g_ 05 05 c c 11 ■2 4= -= £ £ £ ra 2 w 3 £ 05 * 1 2 5 -E l ễ 'ể ■5 05 c Ì2-.Ì Ổ £ 5 •i i 1 Ổ > •i|f đ > £ õ Q- ra 05 •■ro E o a> *<1> > '5 ■C c •ra- 3 £ •ra > •ra £ c 5' . 05 c 05 c ra o 3 ra '•ra ■o -o x: _ > c •p Q. •ra co ■05 •o •C o 5 Lợi tài. ra £ l-d) 4= c « JC z ■C c 3 1— -ro- > 05 c ■o •C c ra •o I ị o s ặ c Q ^ o> •ra 1 c x: c •o 1 •ra o Q. ■ra- — > — - ra 1 s: s o r-' o 05 ■£ E j.o 'O 1 c .s •ra 05 *ũ — _ o> ■o c £ •o Õ JZ ■o hua vé tện má 11 ơ> JS £ . 41 -ra XI Q -ẽ x: ?-ể ■ Ễ £ õ o * o * k: >- X ■ lllgi ã •o ể| ■ £ » 5 3 ra õ o *<D V) — ra 05 F £ € ra c 1 Ì -ã c ra c i 11 o io 'O 03 c 4= c ra •C c £ O x: Q. c c •ra c — £ :95' £" o c -O s o o o- 2 2 o o 1 •5 -,ra o -O ra õ 'Kủ CỔ — nõ 2 c •6 Ễ £ •>. o o ••o 3 sz c 05 ra c 3 X3 c r> x: c > o CL r- 'Ò- ■C 05 . 3 KT3- E 3 •n c c ư> o jC c ■o E 05 « ễ 8 -J rao L 41 o> c '<0) '<0 MD ĩi í 1 o c 05 •ra ■3 T> •o Õ 1 1 Ĩ 1 £ •o o > •o k. 1- £ •o Õ £ 05 2 £ ^ o o. 1« 2 -6 ra o 1 o t> 5 •o x: c •ra £ o •Õ '<0> > •p *-■ Q. ra 05 x: c o, E !ì 05 c ra Ol c 05 c o <2 O) c 05 c o> 5 ° ^ 03 0-1 05 1 'O _c Kí ‘O •C * 8Ỉ <o ■C <o £ 2 1 V •o £ c o ,3 z ũ rà o 5 L_ 3 ĩ (ủ 05 05 o X c x> •ra c 2 ■o- ra 5 E 3 E 'S "2 05 #5 £ Q. 5' 05 c JZ CL c .® c o _c '05 o 5 O) •Õ ra- £ c £ ra- <5 MO sz o 'S > o Q z o > o ^3 o ŨL o £ o 41 •3 -C ■3 •3 ■C o 4T li £ c •3 41 o o o o o o 2 o ro ù. II sz u JZ c •ra ra •3 o <2 05 c 3 mộ 2 T? ■E II c c li 3 MO o o « <5 ra 3 X •ra s c ra- cõ c ra k -ra 41 0. - Quẻ khảm khắc quẻ thể : Là có việc io về việc âm hoặc bị trộm cướp, hoặc làm mất lòng người ở gần sông biển, hoặc bị thiệt hại ỏ quán rượu, hoặc tai ách do người từ phương bắc đến. - Quẻ ly sinh quẻ thể : Chủ về được của từ phương nam hoặc có tin mừng về việc văn thư hoặc được lợi nhờ các lò nung, lò luyện, hoặc được của nhờ có người trong tên họ có chừ hỏa. - Quẻ ly khắc quẻ thể : Chủ nỗi lo về văn thư, hoặc vì người từ phương nam đến, hoặc vì người trong tên họ có chừ hỏa làm hại. - Quẻ cấn sinh thể : Chủ về được của ở phương đông bắc, hoặc có tin mừng về ruộng vườn, nương rẫy, sơn điền, hoặc được của nhờ nương rẫy, cúa cải yên ổn, mọi việc có thủy chung. - Quẻ cấn khắc quẻ thể : Là chủ về việc không thuận lợi, việc gì cũng trắc trở, hoặc bị mất mát ruộng vườn, nương rẫy. Hoặc bị người họ có chử Thổ xâm phạm, phải đề phòng tai họa dối với người đông bắc, hoặc lo lắng phần mộ không yên ổn. - Quẻ đoài sình quẻ thể : Chủ về việc được của từ phương tảy, hoặc có tin mừng, hoặc có nguồn lợi nhờ các hàng thực phẩm, hoặc nhờ người tên họ có chữ Kim, hoặc gặp được người tên họ có chữ khẩu, hoặc có niềm vui giữa chủ và khách, giữa bạn bè với nhau. - Quẻ đoài khắc thể : Không có lợi vể phương tây, dễ bị tranh cãi chia rẽ, hoặc bị người trong tên họ có chữ Khẩu lừa gạt, hoặc gặp tai họa đổ nát, hoặc vì ăn uông mà sinh lo. 3. Phân biệt các quẻ thể, dụng sinh khắc Trong cuộc sống thường ngày những việc cần đoán rất nhiều và rất phức tạp. Ông Thiệu Khang Tiết dời Tống đã quy nạp thành các quẻ thể, dụng sinh khắc để cho người dời sau tham khảo được thuận tiện. Dưới đây giđi thiệu bảng phân biệt đoán các quẻ thể, dụng sinh khắc để học viên tra cứu. Trong đó mục đoán về thời tiết sẽ dược thuyết minh cụ thể như sau : Phàm đoán về thời tiết thì không phân quẻ thể và quẻ dụng mà phải xem toàn quẻ, phán đoán theo ngũ hành. Quẻ ly là chủ về trời sáng, quẻ khảm nhiều chủ về mưa, quẻ khôn chủ về u ám, quẻ càn chủ về thanh minh. Chấn nhiều thì sấm to, tốn nhiều thì gió mạnh, cấn nhiều thì mưa lâu tất sẽ tạnh, doài nhiều không mưa cũng âm u. Mùa hạ quẻ ly nhiều mà không có khảm thì hạn nặng; mùa dông quẻ khảm nhiều lẫn với quẻ ly thì mưa tuyết liên miên. Phải tổng hợp quẻ thượng và quẻ hạ của tượng quẻ dể xem, chấn có tốn bên trái thì gió xen nhau, mưa lâu được quẻ cấn thì sẽ tạnh; cấn là mây, tôn là gió, nếu gặp cả hai thì mây gió ùn ùn, đất trời bụi mù mịt. Cụ thể hơn thì cần xem các ví dụ thực tế trong chương 5, tiết 6 của sách Chu dịch và dự đoán học của Thiệu Vì Hoa. 418 II. Dự DOÓN THÒI GIHN ỨNG NGHIỆM củn ọuẻ Phàm đã gieo quẻ là muốn dự đoán sự vật tốt hay xấu, hơn nữa càng muốn biết việc tốt xấu đó ứng nghiệm vào khi nào. Bản lĩnh đoán quẻ cao hay thấp không những biết tổng hợp cân bằng quẻ thể, quẻ dụng của quẻ chủ sinh khắc ra sao mà còn phải biết cả quẻ hỗ, quẻ biến, đồng thời cũng phải căn cứ quẻ thẻ có được nguyệt kiến sinh vượng hay không để đoán định cát hung. Ngoài ra còn phải thành thạo nắm vừng thời gian ứng nghiệm của quẻ. Muốn nắm vững thời gian ứng nghiệm của quẻ, phải nắm vững 3 nặt sau : thứ nhất căn cứ ngũ hành của quẻ chủ là sinh thể hay khắc thể để đoán thời gian ứng nghiệm; thứ hai căn cứ ngù hành được quẻ thể sinh hay quẻ thể khắc để đoán thời gian ứng nghiệm; thủ ba căn cứ vào số của tượng quẻ để xác định thời gian ứng nghiệm. 1. Căn cứ ngũ hành của quẻ sinh quẻ thể hay khắc quẻ thể dể đoán thời gian ứng nghiệm a) Quẻ có sinh thể ỉà quẻ tốt. Quẻ có sinh thể chủ yếu là quẻ dụng sinh quẻ thể, ngoài ra còn có sau khi hào dộng biến được quẻ biến tốt, tức là que có cứu. Muôn biết thời gian ứng nghiệm thì phải xác định rò quẻ nào sinh cho quẻ thể. Ví dụ : quẻ khôn là quẻ dụng, hgũ hành của nó thuộc thổ. Một khi đã lập xong tượng quẻ, nói rõ sự việc cần đoán, sự vượng, suy của quẻ thể, quẻ dụng, quẻ biến đã rõ ràng thì tự khắc sẽ biết được quẻ tốt hay xấu. Nếu việc cần đoán là việc trong thời gian ngắn thì căn cứ ngũ hành của quẻ sinh ra quẻ thể sè lâm vượng vào ngày, giờ nào tức là ngày, giờ đó sẽ ứng nghiệm. Nếu việc cần đoán là việc thời gian vừa phải thì phải chờ cho ngũ hành của quẻ sinh quẻ thể lâm vượng vào tháng hay ngày nào thì đó là thời gian ứng nghiệm. Nếu việc cần đoán thuộc thời gian dài thì cách tính củng như thế. Ví dụ : quẻ dụng sinh cho quẻ thể là đoài hoặc kim thì phải chờ đến lúc kim vượng của năm hoặc tháng, hoặc ngày, hoặc giờ có thiên can là canh, tán và dịa chi là thân, dậu mới ứng nghiệm. Vì phương vị của quẻ càn còn là tuất, hợi, phương tây bắc cho nên cũng có thể phải chở đến năm, tháng, ngày, giờ tuất, hợi sự việc mới ứng nghiệm. Nếu quẻ dụng sinh quẻ thể là chấn, tốn thì phải chờ đến lúc mộc vượng, tức là năm, tháng, ngày, giờ có thiên can là giáp, ất và địa chi là dần, mão thì quẻ sẽ ứng. Vi phương vị quẻ tốn là đông nam cho nên còn có thể phải chờ đến năm, tháng, ngày, giờ ứng với thin thì quẻ mới ứng. Nếu quẻ dụng sinh quẻ thể là khôn, cấn thì phải chờ đến lúc thổ vượng, tức là đến năm, tháng, ngày, giờ có thiên can là mậu, kỷ và dịa chi là thin, tuất, SỬU, mùi thì quẻ mới ứng nghiệm. 419 Nếu quẻ dụng sinh quẻ thể là khảm, thì phải chờ cho đến lúc thủy vượng, tức năm, tháng, ngày, giờ ứng với thiên can : nhâm, quý, và địa chi hợi, tý thì quẻ sẽ ứng nghiệm. Nếu quẻ dụng sinh quẻ thể là quẻ ly, thi phải chờ đến lúc hỏa vượng tức ứng với năm, tháng, ngày, giờ có thiên can là bính, đinh và địa chi là tỵ, ngọ thì quẻ mới ứng. Ví dụ : đoán hợp đồng về buôn bán khi nào thì ký được ? tức là đoán sự việc trong thời gian ngắn. Nếu quẻ dụng sinh quẻ thể là khôn, tức đến ngày, giờ thổ - khôn mới hy vọng đàm phán xong. Ví dụ, ngày đoán quẻ là ngày canh dần, thì ngày thổ vượng gần nhất là ngày nhâm thin. Ngày nhâm thin là ngày thời cơ có lợi nên phải nắm chắc thời cơ để thúc đấy sự việc, nếu không chú ý bỏ qua thời cơ thì sự việc sẽ khó khăn hơn. Nói chung nêu để cho tháng vượng trôi qua thì việc đàm phán, buôn bán khó thành, nêu là việc tìm người thì cũng khó trở về. b) Quẻ thể bị khắc là quẻ không tốt. Ở dây chủ yếu là qué dụng khắc qué thể, nhưng ngoài ra còn bao gồm quẻ biến xấu, hoặc là quẻ có khắc mà không có sinh, hoặc không có cứu. Thời gian ứng nghiệm là lúc quẻ dụng khắc quẻ thể đi vào năm, tháng, ngày, giờ vượng tướng. Nguyên lý của nó cũng giông như ở trên. 2. Căn cứ ngũ hành của quẻ thể để dự doán thòi gian ứng nghiệm Cho dù là quẻ tốt hay quẻ xấu đểu có mối quan hệ trực tiẽp rất mạnh mẽ đến quẻ thể. Trên kia đâ bàn đến thời gian ứng nghiệm của loại quẻ sinh thể hay khắc thể. Dưới đây sẽ bàn về thời gian ứng nghiệm của loại qué thê sinh dựng hoặc thể khắc dụng. Thời gian ứng nghiệm của loại quẻ thể sinh dụng hoặc thể khắc dụng là chỉ loại quẻ tốt hay xấu đã được định sẵn. Khi ngũ hành cúa quẻ thê lam vao năm, tháng, ngày, giờ vượng tướng thì đó là thời gian ứng nghiệm cát hay hung, ở đây chủ yếu là quẻ thể sinh dụng và thể khắc dụng. Ngoài ra còn bao gồm cát, hung của quẻ biên và quẻ nguyệt kiên có cứu hay không có cứu. Căn cứ ngũ hành của quẻ thể để xác định thời gian ứng nghiệm về nguyên lý cũng giống như trên, mời dộc giả tự dọc kỹ tìm hiêu. 3. Căn cứ số của tượng quẻ xác định thời gian ứng nghiệm Trên kia là chỉ lấy thời điểm vượng của quẻ để xác định thời gian ứng nghiệm cát, hung. Còn ở đây là muốn nói lấy số của quẻ dể xác định thời gian ứng nghiệm. Có hai loại trường hợp : 420 *Ị Lấy số của quẻ thể cộng với số của què dụng, cộng thêm sô'hào động để xác định thời gian ứng nghiệm. Ví dụ đoán người đi xa khi nào trở về thi lấy số quẻ thượng + với số quẻ hạ rồi cộng thêm số hào động đe xác định số ngày sẽ trở về. Ví dụ ; hào hai dộng của quẻ lý, quẻ thượng là càn là số 1, quẻ hạ là đoài là sô 2, hào động số 2, cộng cả ba sô' lại là 5, tức trong vòng 5 ngày sè trở về. b) lấy sô của ba quẻ ĩ quẻ chủ, quẻ hỗ, quẻ biến để xác định thời gian ứng nghiệm. Ví dụ đoán : người ốm sông hay chết. Quẻ chủ là quẻ cách, quẻ hô là quẻ cấu, quẻ biến là quẻ phong. Quẻ chủ đoài trên là số 2, ly dưới là số 3, quẻ hỗ: càn trên là số 1, tốn dưới là số 5; quẻ biến : chấn trên là 5, ly dưới là 3. Tông sô là 18. 4. Căn cứ vào dộng, tĩnh của số quẻ dể đoán thời gian ứng nghiệm Phàm đoán thời gian ứng nghiệm của cát hung, nếu theo như đà nói ở trên thì tựa hồ như số đó đà được thiên định, nhưng trong dự đoán thường không phải chính xác như thê, mà số thiên định này phải thông qua sự tính toán biến đổi của con người cho nên thời gian ứng nghiệm mới được chính xác và khiến cho người ta phải kinh ngạc. Do đó một khi đã dự đoán đúng lại thường bị một số người ngoài cho rằng đố là sự ngẫu nhiên, gập may. Cho nên những người yêu thích Chu dịch cần phải cố gắng gấp bội để nghiên cứu và nắm vững phương pháp dự đoán theo Chu dịch để cổ kỹ năng đoán quẻ cao siêu, đó cũng là điều thể hiện tính khoa học của chu dịch, đồng thời cũng để giải thích rõ cho những người hay coi thường, biết được VI sao lại có thể tính toán được chính xác, khiến cho họ không còn cách gì bác bỏ được. Dưới đây cân cứ quy luật phổ biến trong đoán quẻ để giới thiệu như sau : Sau khi đã gieo được quẻ, sơ bộ biết được quẻ tốt hay xâu, đồng thời phải xem thái dộ của người cần đoán để xác định thời gian ứng nghiệm nhanh hay chậm. a) Nèu người đến đoán quẻ đi lại thì thời gian ứng nghiệm nhanh. Lấy sô của quẻ chia dôi dể xác định, tức là lấy tổng số của quẻ chia đôi, dó là số thời gian ứng nghiệm cát, hung. Nếu số của quẻ là 15, chia 2 tức việc sỗ ứng nghiệm trong 7 ngày rưỡi. b) A gười đèn đoán đứng yên , thì thời gian ứng nghiệm nửa nhanh nửa chậm. Thời gian ứng nghiệm = số quẻ ± ị của số quẻ. Ví dụ quẻ tốn, quẻ thượng, số 5, cộng thôm quẻ hạ 5 là 10, một nửa là 5; 5 chia 2 được 2,5, vậy thời gian ứng nghiệm là 10 + 2,5 * 12,5 ngày. Hoặc 10 - 2,5 = 7,5 ngày. C J Người đèn đoán việc nàm thi thời gian ứng nghiệm chậm, nên phải lấy 80 quẻ gấp đôi lên Ví dụ lấy quẻ chủ, quẻ hỗ, quẻ biến, Bố của 3 quẻ cộng lại để xác định thời gian ứng nghiệm. 421 d) Ứng nghiệm nhanh, chậm của cát, hung. Gieo quẻ xong, cát, hung đả định sẫn, khi xác dịnh thời gian ứng nghiệm của việc cát, nếu người dược đoán động, đi lại, cười nói thì việc cát ứng rất nhanh, nếu người được đoán động nhưng vẻ đau khổ, bứt rứt, việc đoán lại là việc hung thì ứng nghiệm cũng nhanh. Người dược đoán không tỏ ra vui mừng hay buồn giận thì phải căn cứ cát, hung của quẻ để xác định thời gian ứng nghiệm. Đoán thời gian ứng nghiệm, ngoài mấy trường hợp kể trên, trong thực tế nói chung là phức t.ạp, thậm chf có lúc không thể dựa vào tượng quẻ được, vì vậy phải có kinh nghiệm dày dạn và kỹ thuật điêu luyện mới ứng phó được các trường hợp. 422 <J)h&n kai PHƯƠNG PHÁP Dự DOÁN THSO SÁU HÀO Chương 5 BỐN YẾU TỐ ĐỂ THÀNH QUẺ SÁU HÀO Chu dịch là bộ sách thể hiện sự biến dịch. Sự biến dịch của nó thể hiện ở quẻ biến, mà căn nguyên của nó là hào biến, vì có hào biến mà khí âm, dương sinh ra biến động. Sáu hào của Chu dịch là hệ thống tổ hợp của âm dương, phản ánh sự thịnh, suy, tiêu giảm, tăng trưởng và chuyển hóa của âm dương. Mỗi quẻ của chu dịch có sáu hào, kể từ dưới lên trên ngôi hào được tính là : hào dầu, hào hai, hào ba, hào bốn, hào năm và hào thượng, tất cả có 6 ngôi. Trong 1 quẻ cho dù là quẻ thuần dương, hay thuần âm đều tồn tại sự thịnh, suy của âm, dương thông qua sô' hào và sự biến dịch của ngôi hào để phản ánh quy luật âm dương, tiêu giảm hay tăng trưởng. Khi dự đoán theo sáu hào, phải giới thiệu cách biến đổi của sáu hào để nắm vững quy ỉuật biến hóa của nó, như thế sẽ rất nhanh dự đoán được mà không cần dùng đến một công cụ nào khác. Qua việc nắm vững phương pháp biến đổi của sáu hào sẽ còn hiểu được rất nhanh 4 yêu tô cần thiêt để thành quẻ, đó là : sự phối hợp giữa các hào thế và hào ứng, sự phối hợp giữa địa chi sáu hào, sự phối hợp lục thân và sự phôi hợp lục thẩn. Đối với những người mới học, nắm vững những cái dó sẽ không cảm thấy khó khăn lám nữa. I. CÁCH BlêN ĐỔI Sáu HỈto vù xác ĐỊNH Hho THỄ, Hào ỨNG Trong dự đoán theo tượng quẻ, ta đả biết có 8 quẻ kinh. Cứ 2 quẻ kinh chồng lên nhau tạo thành 64 quẻ biệt, 64 quẻ biệt này thuộc 8 quẻ thuần, đó là : càn, khảm, cấn, chấn, tốn, ly, khôn, đoài. Những quẻ này theo một quy luật nhất định được sắp xếp thành 8 cung. Muốn nắm vững cách phối xếp tương ứng của 4 yếu tố là ngủ hành, lục thân của sáu hào, hào thế, hào ứng, và lục thẩn thì cản phải có 1 quá trình làm quen, ơ đây, đâu tiên phải nắm được quẻ vừa lập là quẻ gì (diều này đã dược học về tên của tượng quẻ cùa 64 quẻ thuộc 8 cung). Ví dụ : quẻ thượng là càn, là thiên; quẻ hạ là khôn, là địa, tức quẻ đó là quẻ Thiên địa phủ. Tiếp theo cần nhanh chóng nhìn ra 423 quẻ Thiên địa phủ ở trong cung nào và nó là quẻ thứ mấy của cung đó. Sau đó phôi xếp hào thế, hào ứng và địa chi/ngũ hành của các hào, rồi căn cứ vào phương pháp giới thiệu dưới dây để phối xếp lục thân của cung thuộc quẻ đó và lục thần của ngày dự đoán sự việc. Như vậy là ta đã có thể căn cứ vào sự vượng suy, nhật thin, nguyệt kiến quan hệ với sáu hào để tiến hành dự đoán. Người mới học, sau khi lập được tượng quẻ không dễ gì thấy ngay được qué dó thuộc cung nào. Vì vậy không thẹ dự đoán theo sáu hào được. Nhà đại dịch học Kinh Phòng dời Hán đả phát minh ra phương pháp biến đổi 8 quẻ, phương pháp đó nói lên rằng, quá trình biến đổi của 8 quẻ là có quy luật. Điều này giúp ích rất nhiều cho sự học tập nắm vững của chúng ta. Dưới đây lấy ví dụ cách biến đổi 8 quẻ của cung càn : Quẻ 1 2 3 4 5 6 7 8 Đó là 8 quẻ của cung càn. Tức trong cung càn tượng quẻ của 7 quẻ khác là lần lượt từ quẻ càn biến đổi mà ra. Cách biến đối như sau : âm biến thành dương, dương biến thành âm. Ví dự : sáu hào của quẻ càn đều là hào dương, khi biến đổi ta đi từ hào dưới lần lượt lên trên. Hào đầu của quẻ càn là hào dương biến thành hào âm, sau khi biến quẻ thượng vẫn là quẻ càn, nhưng quẻ hạ trở thành quẻ tốn là phong. Vì vậy ta được quẻ thiên phong câu, đó là quẻ thứ hai của cung càn. Hào hai cùa quẻ cấu lại biến từ hào dương thành hào ám, tức quẻ hạ tốn biến thành cấn là sơn, ta dược quẻ thiên độn. Đó là quẻ thứ 3 của cung càn. Hào thứ ba của quẻ độn từ dương biến thành âm, như vậy quẻ hạ thành quẻ khôn là địa, quẻ thượng vẫn càn là thiên, ta dược quẻ thiên địa phủ, tức quẻ thứ 4 của cung càn. Hào thứ 4 của quẻ phủ từ dương biến thành âm, làm cho quẻ thượng là càn biến thành quẻ tốn là gió, còn quẻ hạ vẫn khôn là địa, ta được quẻ Phong dịa quan, là quẻ thứ 5 của cung càn. Hào 5 của quẻ quan từ dương biến thành âm làm cho quẻ thượng biến thành quẻ cấn là sơn, quẻ hạ vẫn khôn là dịa, ta được quẻ Sơn địa bóc, tức quẻ thứ 6 của cung càn. Đến đây không tiếp tục biến đổỉ hào từ dưới lên trôn nữa mà phải quay biến trở về, tức biến hào thứ 4 của quẻ bóc từ âm trỏ về dương làm cho quẻ thượng thành quẻ ly là hỏa, quẻ hạ vần khồn là địa, ta dược quồ hôa địa tấn, tức quẻ thứ 7 cửa cung càn. Quẻ cuối cùng của cung càn là quẻ 8, là biên đổi cả ba hào của quẻ hạ từ âm biến thành dương, tức trở thành quẻ càn lồ thiên, quẻ thượng vản là quẻ ly là hỏa. Ta dược quẻ hôa thiên đại hừu. Đến đây 8 quẻ của cung càn đã đáy đủ, Quy luật biến dổi của những cung còn lại cũng lẩn lượt như thế. 424 Cách biến đổi 8 cung đều có một quy luật chung là đầu tiên biên đổi hào đầu dương thành âm, âm thành dương. Mỗi lần biến đổi như thế thì quẻ hạ sè thành 1 quẻ mới. Cứ thế tiếp tục biến đến hào thứ 5 thì ngừng, quẻ thứ 7 bắt đầu từ trên biến dổi xuống, tức biến đổi hào thứ 4 thì sẽ dược quẻ thứ 7. Quẻ đó là quẻ du hồn. Quẻ thứ 8 là biến đổi toàn bộ ba hào của quẻ hạ của quẻ thứ 7, còn có tên là quẻ quy hồn, tức có nghĩa là hoàn nguyên về quẻ hạ của quẻ thứ nhất cửa cung. Từ cách biến đổi của 8 cung trên, ta sẽ được 56 quẻ còn lại của 8 cung. Những người mói học rất khố nhanh chóng nhận ra ngay 56 quẻ đó, mỗi quẻ ở cung nào và là quẻ thứ mấy, vì vậy không có cách gì sắp xếp được hào thế, hào ứng (dặc biệt khi quẻ chủ có hào dộng, thì khi đổi thành quẻ biến rất khó khăn, vì vậy lục thân của quẻ biến được xác định theo lục thân của quẻ chủ, chứ không phải là lấy lục thân của qué biến vốn thuộc cung nào. về điều này phía dưới sẽ còn cử ví dụ để nói rõ thêm). Để giúp mọi người giải quyết vấn đề này, tôi xin giới thiệu cho độc giả phương pháp phản biến. Phép phản biến là lấy quẻ vừa lập được, căn cứ phương pháp biến đổi vừa nói ở trên để hoàn nguyên nó về quẻ đầu của cung, tức dược thuần, từ đó không những biết được quẻ dó thuộc cung nào mà còn biêt được nó là quẻ thứ mấy của cung. Đồng thời có thể suy ra hào thê, hào ứng là hào thứ mấy của quẻ. Ví dụ muốn biết quẻ thiên phong cấu ở cung nào, dầu tiên ta bắt dầu từ dưới lên trên, đem hào đầu là hào âm biến thành hào đương, như vậy quẻ hạ của nó từ quẻ tôn biến thành quẻ càn. Đôi chiêu với quẻ thượng trên dưới như nhau, tức biết dược quẻ thiên phong cấu thuộc cung càn. Bởi vì mới biến 1 lần nó đả trở về quẻ đầu của cung, nên quẻ thiên phong cấu là quẻ thứ 2. Vị trí hào thế của 8 quẻ trong cung có một quy luật tuần hoàn nhất định. Hào thế quẻ thứ nhất ở hào thượng, hào thế quẻ thứ hai ở hào dầu, hào thế quẻ thứ ba ở hào 2,... hào thế quẻ thứ 7 tức quẻ du hồn ở hào 4, hào thế quẻ thứ 8 là hào 3 (vị trí của hào thế theo thứ tự của các quẻ là : hào thượng, hào dầu, hào 2, hào 3, hào 4, hào 6, hào 4, hào 3). Do đó khi biết dược quẻ đó là quẻ thứ mấy ở trong cung thì cùng lập tức xác định được vị trí hào thế. Cách hào thế 2 ngôi là hào ứng. Phép phản biên không những là cơ sở để phối xếp ngũ hành, lục thân, lục thần của 6 hào mà còn là căn cứ hào biến đổi cuối cùng dể xác dịnh hào thố, hào ứng. Dưới đây lấy phép biến dổi 7 quẻ của cung càn dể nói rồ phép phản biến. Các bước phản biến quẻ Thiên sơn độn E"= như sau : biến dổi hào đầu thành E5 quẻ hạ và quẻ thượng khác nhau, lại biến dối hào hai 425 thành Như vậy qua hai lần phản biến, quẻ thượng và quẻ hạ dã giông nhau và hoàn nguyên về quẻ gốc cùa cung càn, do đó ta biết được : quẻ thiên sơn độn là quẻ thứ ba của cung càn, hào thế là hào 2. C ác b ưđc phản biến của quẻ Th iên địa phủ như sau : 5 5 biến hào đầu thành 55, biến hào hai thành 55, biến hào 3 thành . Khi biến đổi 3 lần thi quẻ thượng và quẻ hạ giống nhau, tức biết được quẻ thiên địa phủ là quẻ thứ 4 của cung càn, hào thế ở hào 3. C ác b ước phản biến quẻ Phon g địa quan 55 nh ư sa u : biến hào dầu — —I thành biến hào hai thành sr, biến hào 3 thành sau khi biến quẻ hạ vẳn chưa giông quẻ thượng chứng tỏ quẻ này nằm sau quẻ thứ 5. Lại dùng cách phản biến quẻ thượng để đôi chiếu với quẻ hạ, tức biến hào 4 thành = . Lúc đó mới hoàn nguyên về quẻ thượng và quẻ hạ giống nhau, tức quẻ càn của cung càn. Qua dó ta biết được, quẻ Phong địa quan là quẻ thứ 5 của cung càn, hào thế ở hào 4. Các bước phản biến của quẻ Sơn dịa bóc như sau : 55 biến hào đầu thàn h , biến hào 2 thành biến hào 3 thành 55:, biến hào 4 thành =5, biến hào 5 thành ^5 . Phản biến đến dây đả là 5 lần, quẻ hoàn nguyên về quẻ càn của cung gốc. Qua dó biết được quẻ Sơn địa bóc là quẻ thứ 6 của cung càn, hào thê ở hào 5. _ Các bước phản biế n qu ẻ Hòa địa tấn 55 n hư s au : hào đầu biến t hành 55, biến hào 2 t hành biến hào 3 thành ^5, biến hào 4 thành ^=ĩ, biến hào 5 thành =s. Biến dến đây quẻ thượng và quẻ hạ vẫn còn khác nhau, vì vậy phải biến trở lại, tức biến hào 4 thành ^5. Đến dây dã hoàn nguyên thành quẻ càn của cung gốc. Qua đó biết dược hỏa địa tấn là quẻ du hồn (tức là quẻ thứ 7), hào thế là hào 4. CácJ)ước phản biến quẻ Hỏa thiên dại hữu 55: như sau : biến hào dầu thành =■=, biến hào hai thành 5*5, biến hào 3 thành 5 5, bi ến h ào 4 thành 5 5, biến hào 5 thành 5 5. Rồi quay trở lại biến hào 4 thành 5 5. Qua 6 lẩn biến vẫn chưa hoàn nguyên. Lại lấy quẻ hạ làm chuẩn, đồng thời biến cả 3 426 hào thành . Đến đây đâ hoàn nguyên thành quẻ càn là quẻ đầu của cung gốc. Quẽ này là quẻ thứ Ể, -tức quẻ quỷ hồn. Hào thế là hào 3. Qua đó ta thấy rõ thứ tự của phép phản biến là từ hào đầu đến hào hai, hào 3, hào 4, hào 5, hào 4,'quẻ hạ biến toàn bộ thì nó sẽ hoàn nguyên quẻ đầu. Nếu không sẽ rất khó phôi xếp hào thế, hào ứng. Phép phản biến của 7 cung khác cũng tương tự.. Để thuận tiện cho độc giả, chúng tôi xin giới thiệu cách hiến đổi 8 cung như dưới đây : (xem trang : 427 - 429). Trong vận dụng thực ịế, muốn phản biến được chính xác thì phải chú ý phản biến tuần tự, nếu khôrig.sẽ rất dễ .lẫn lộn. Ví dụ : quẻ thứ 7 của cung Đoài, phía trước nó là các quẻ : Trạch thủy khốn E"E. trạch địa tụy E 5, trạch sơn hàm ==, chỉ cần đô'i chiếu quẻ thượng với quẻ hạ hào cuô'i cùng sau khi biến đổi đê’ quẻ hạ giống quẻ thượng, tức là hào đó là hào thế của quẻ. Từ sau quẻ thủy sơn kiên, cả 3 hào của quẻ hạ sau khi biến đổi vẫn chưa giống quẻ thượng, ta tiếp tục biến đổi đồng thời 3 hào của quẻ hạ để quẻ thượng cua quẻ thủy sơn kiển là khảm, quẻ hạ từ cấn biến thành đoài, lấy quẻ thượng khảm so sánh với què hạ đoài ta thấy chỉ cần biến đổi hào 4 quẻ thượng là sẽ được hai quẻ giống nhau, do dó biết được quẻ kiển là quẻ thuộc cung đoài, hào 4 trì thế. Quẻ sơn địa khiêm E"5 quẻ thượng khôn, quẻ hạ từ cấn biến thành đoài, đối chiếu quẻ hạ và quẻ thượng, sau khi dã biến đổi hào 4, tiếp tục biến đổi hào 5 ta sẽ được hai quẻ thượng, hạ giông nhau, tức biết dược quẻ thuộc cung đoài, hào 5 trì thế. Quẻ Lôi sơn tiểu quá sau khi theo cách biến đổi trên hai quẻ thượng hạ vẫn khác nhau : quẻ hạ từ cấn biến thành đoài, quẻ thượng hào 4, hào 5 sau khi biến là khảm. Nhưng có thể dem quẻ thượng khảm du về 1 ngôi ở phía dưới, biến quẻ hạ giông với quẻ thượng, tức là quẻ du hồn của cung đoài, hào 4 trì thế. Quẻ Lôi trạch quy muội E=, sau khi biến đổi theo cách trên, qué hạ biến thành đoài, vừa đúng ngược với hào ám dương của quẻ cấn, qua đó ta biết được đó là quẻ quy hổn. Biến đổi toàn bộ 3 hào của quẻ cấn sẽ trở về hoàn nguyên, tức quẻ quy muội là quẻ thuộc cung đoài, hào 3 trì thế. Phép phản biến vừa giới thiệu ở trên là rất cần thiết, nhưng nếu ngay một lúc chưa hiểu lắm hoậc chưa nắm vững thì cũng không hề gí, có thể luyện tập dần trong thực tiễn là dược. Vì ngày nay đẵ có bộ thẻ dự toán theo 6 hào do thầy Thiệu Vì Hoa phát minh, dùng rất thuận tiện, cho nên không cần phải nhớ nữa. 427 CÁCH PHẢN BIẾN 7 QUẺ CỦA CUNG CÀN Thiên phong cấu Thién sơn độn {hào đầu trì thế) (hào hai trì thế) Thiên địa phủ Phong địa quan Sơn địa bóc Hỏa địa tấn (hào ba trì thế) {hào bốn trì thế) (hào năm trì thế) (hào bốn trì thế) Hỏa thiên đại hữu (hào ba trì thế) CÁCH PHẢN BIỂN 7 QUẺ CỦA CUNG ĐOÀI Trạch thủy khôn Trạch dịa tụy Trạch sơn hàm (hào đầu trì thê”) (hào hai trì thế) (hào ba trì thế) Thủy sơn kiển 5 55 ~ == 5555 (hào bốn trì thê) Địa sơn khiêm =5 53 SH ===== (hào nam trì thế) Lôi sơn tiểu quá 5= 55= ^=í •— = = ' " (hào bốn trì thê) Lôi trạch qui muội = 5SS5 SBSS5ÍS 5= (hào ba trì thê) CÁCH PHÀN BIẾN 7 QUẺ CUNG LY Hỏa sơn lữ Hỏa phong dỉnh Thủy hỏa vị tế (hào dầu trì thế) (hào hai trì thế) 428 (hào ba trì thế) (hào năm trì thế) Sơn thủy mông — — == E= E= (hào bốn trì thế) Phong thủy hoán =r= == Ễ_Ẽ SẼ E5 == (hào năm trì thế) Thiên thủy tụng ====== ======== (hào bốn trì thế) Thiên hỏa đồng nhân = == = = = == = = == = = = = (hào ba tri thế) (hào ba trì thế) CÁCH PHÀN BIẾN 7 QUẺ CỦA CUNG CHẤN Lôi địa dự Lôi thủy giải Lôi phong hằng =■= ^= —= = Địa phong thăng = ^= (hào đầu trì thế) (hào hai trì thế) (hào ba trì thế) (hào bốn trì thế) Thủy phong tỉnh — — = = = (hào nàm trì thế) Trạch phong đại quá-= =-= = = s= =■= (hào bốn trì thế) Trạch lôi tùy = = = =■= = = = =r= = (hào ba trì thế) CÁCH PHẢN BIỂN 7 QUỂ CỦA CUNG TÔN Phong thiên tiểu súc Phong hỏa gia nhân Phong lôi ích Thiên lôi vô vọng Hỏa lôi phệ hạp Sơn lôi di Sơn phong cổ (hào đầu trì thế) (hào hai trì thế) (hào ba trì thế) (hào bốn trì thế) (hào năm trì thế) (hào bốn trì thế) =~= (hào ba trì thế) 429 CÁCH PHẢN BIẾN 7 QUẺ CỦA CUNG KHẢM Thủy trạch tiết =3 §3 (hào đầu trì thế) Thủy lôi truân ====== (hào hai tri thế) Thủy hòa ký tế i§K = §i (hào ba trì thế) Trạch hỏa cách == = = =§ R == (hào bốn trì thế) Lôi hỏa phong (hào nàm trì thế) CÁCH PHÀN BIỂN 7 QUẺ CÙA CUNG CẤN Sơn hòa bôn n H 'hào dầu trì thế) Sơn thiên dại súc = H H (hào hai tri thế) Sơn trạch tổn =======_ (hào ba trì thế) Hỏa trạch khuê =111====== _ (hào bốn trì thế) Thiên trạch lý — " 0 — -ì?_ (hà ° năm trì thế) Phong trạch trung phù == ==-- = = == = = == (háo bôn trì thê) CÁCH PHÀN BIẾN 7 QUẺ CÙA CUNG KHÔN Địa lôi phục 111= (hào dầu trì thế) Địa trạch lâm ynil (hào hai trì thế) Địa thiên thái yHHIĨ (hào ba tri thế) 430 Lôi thiên địa tráng (hào bốn trì thế) Trạch thiên quải Thủy thiên nhu Thủy địa tỉ (hào năm trì thế) (hào bốn trì thế) EE (hào ba trì thế) II. PHÉP GIEO ọuẻ THEO 6 Hồo 1. Phép gieo quẻ Gieo quẻ là dùng 3 dồng tiền cổ (tiền Càn Long thông báo càng tốt) chia làm 6 lần, gieo dược 6 hào. Sau đó qua sinh khắc vượng suy, dụng thần để' dự doán cát hung. Khi lắc quẻ, đầu tiên đặt 3 đồng tiền nằm phăng trong lòng bàn tay, sau đó úp hai bàn tay lại để yên độ 1 phút, chờ cho từ trường của đồng tiền và từ trường của người thông lẫn nhau. Mọi việc cần doán trên đời đều tác dộng đến lòng mình, lòng minh rung động thì phát ra tin tức. Cho nên, người gieo quẻ trong dầu chỉ được nghĩ đến việc cần đoán thì đồng tiền mới phản hồi tin tức đó được chính xác, chân thực và phản ánh ra sự sắp xếp âm dương. Mỗi lần lắc đổng tiền được kết quả như thế nào thì ghi từ dưới lên trên, mồi lần là 1 tượng hào. Tất cả gieo 6 lần thì thành quẻ. Phương pháp gieo đồng tiền ghi như sau : Mặt có chữ là mặt ngửa, mặt không có chữ là mặt sấp. Trong 3 đồng chỉ có một đồng sấp thì ghi dấu chấm (.), gọi là dương có hai đồng sấp ghi hai dấu chấm (..), gọi là âm; cỏ 3 đồng sấp ghi vòng tròn 0. 3 dồng đều là ngửa ghi dấu nhân (X). - Dấu o (3 đồng sấp) gọi là lão dương, dương cực thì biến âm; dấu (X) gọi là lăo âm, âm cực sẽ biến dương. Hào có o gọi là hào dương động; hào có X gọi là hào âm dộng. Động thì tất biến, dương động biến thành âm, ngược lại âm động biến thành dương. Do đó hào động o trong quẻ gốc sẽ từ hào dương biến thành hào âm của quẻ biến; hào dộng X trong quẻ gốc là âm sẽ biến thành hào dương trong quẻ biến. Sáu hào trong quẻ có thể chỉ có 1 hào dộng, hoặc 2 hào động..., thậm chí cả 6 hào đều động. Sáu hào không động thì không biến, lúc đó gọi là quẻ tĩnh. Cho nên nói quẻ gốc có hào động thì mới có quẻ biến, trường hợp quẻ gốc là quẻ tĩnh thì không có quẻ biến. 431 quẻ thượng là đoài, lần lượt các hào như sau •__ I-1—-—r 71 I ~ Què Gieo Đánh * A.Mna Cách biên biến Ngôi hào Gieo Đánh dược dấu Âm. dương Hào thượng 3 ngửa x hào âm Hào 5 1 sấp hào dương Hào 4 3 sấp o hào dương Hào 3 2 sấp hào âm Hào 2 2 sấp hào âm Hào đầu 3 sấp 0 hào dương I âm dộng biến thành dương không dộng không động Khi lập quẻ : Ngôi hào Quẻ chủ (Tùy) Quẻ biến (Quan) Hào thượng Hào 5 Hào 4 Hào 3 Hào 2 Hào đầu Trạch lôi tùy Phong địa quan 2. Phương pháp lập quẻ dặc biệt cho cả cuộc đờỉ Lấy năm, tháng, 0» sinh dể lập quẽ ọhc■ 1 cuộc <16 là nhà dự đoán , 7, 77 Thieu Vĩ Hoa ngày nay căn cứ theo nguyên lý lập que theo iplllliil dự đoán cho cả cuộc đời. Cách lập quê theo ngày giờ sinh như sau : 432 Lấy số can của năm cộng thêm số tháng, số ngày (theo âm lịch) chia cho 8, số dư là số qué thượng; lấy số quẻ thượng cộng thêm số giờ, đem tông số chia 8, số dư là số quẻ hạ. Lấy tổng số này chia 6, số dư là số hào động. Chỗ đặc biệt của cách lập quẻ này so với cách gieo quẻ bình thường là ờ chỗ : dùng số can của năm chứ không dùng số chi của năm. Ngoài ra trong dự đoán theo 6 hào dã giới thiệu cách lập quẻ này là để tiện cho việc lây lục thân và chọn dụng thần trong khi đoán. Nếu muốn biết ở năm nào có tin mừng, hoặc có công danh thì có thể lấý hào phụ mẩu làm dụng thần để đoán biết. Muốn biết năm nào lấy vợ thì lấy hào thê tài làm dụng thần để đoán (nữ lấy chồng thì phải lấy hào quan quỷ để đoán hôn nhân). Muốn biết khi nào thảng quan tiến chức hoặc có con cái đều có thể chọn lục thân tương ứng làm dụng thần để đoán. Ngược lại, nám nào bị bãi chức hoặc kiếp tài, hoặc có tin buồn về cha mẹ đều có thấy rõ trong quẻ đó. Dưới đáy lấy ví đụ đoán vận khí cuộc đời như thế nào. Sinh giờ thin ngày 26 tháng 12 (ám lịch) năm 1940. Tức : giờ Nhâm thin, ngày Tân mùi, tháng Kỷ sửu, năm Canh thin Quẻ thượng : 7 + 12 + 26 = 45 ; 45 : 8 - 5 dư 5 Quẻ hạ : 45 + 5 = 50 ; 50 ; 8 = 6 dư 2 Hào động : 50 : 6 = 8 dư 2. Quẻ thượng của quẻ chủ là tốn là phong, quẻ hạ số 2 là đoài là trạch. Quẻ thượng của quẻ biến là quẻ phong, quẻ hạ là Lôi, là quẻ Ich của quẻ Trung phù. Quẻ chủ ; Phong trạch trung phù Quẻ biến : Phong lôi ích Quan quỷ mào mộc - Quan quỷ mão mộc - Phụ mẫu tỵ hỏa - Phụ mâu tỵ hòa - Huynh đệ mùi thổ (thế) — Huynh đệ mùi thô^ Huynh đệ sửu thổ - - Huynh đệ thin thổ - - Quan quỷ mão mộc, động - Quan quỷ dần mộc Phụ mẫu tỵ hỏa (ứng) - Thê tài tý thủy Quẻ này rõ nhất là hào huynh đệ trì thế, lâm nguyệt kiên nhật thin, quẻ vượng thân vượng, hào phụ mẫu hai lần xuất hiện sinh thê, hơn nữa lại có 1 hào phụ mẫu ở ngôi 5 là ngôi vua. "Ngôi 5 sinh thê thì đường thanh vân bằng phảng'. Phụ mẫu chủ về việc văn thư, là tượng người nổi tiêng đương thời. Nhưng về hỏn nhản thì không thuận : Huynh đệ vượng mà trì thế, lại xuất hiện nhiều lần, nhiều anh em thì kiếp tài (của cải khó khăn) lại không có tử tôn sinh tài, hào thê tài không có trên quẻ thượng tức là vô tài vô thê, nếu có vợ thì cũng là tượng khó giữ. Những việc cụ thê khác trong cuộc đời qua tính toán về hình xung, khắc hại và sinh khắc, chế hóa đêu có 433 thể đoán ra được. Muốn biết rõ hơn xin xem ở sách (Chu dịch và dự đoán học), tiết 1 Chương 5. III. CÁCH phối xếp địa chỉ cùn 6 Hfto 1. Giói thiệu tóm tắt phương pháp nạp giáp ở đầu tiết này chúng ta hãy tìm hiểu sơ bộ về phương pháp nạp giáp (Nạp Giáp) tức là dưa 10 thiên can theo một quy luật nhất định nạp vào bát quái. Giáp nhám nạp vào quẻ càn; ất quý nạp vào quẻ khôn; bính nạp vào quẻ cấn; dinh vào quẻ đoài; mậu vào quẻ khảm; kỷ vào quẻ ly, canh vào quẻ chấn; tân vào quẻ tôn. Vì giáp là đầu của thập can cho nên lấy tên giáp thay cho 10 can và gọi là nạp giáp. Nguyên lý nạp giáp bắt nguồn từ hệ từ. Chiêm phệ ở thời Xuân Thu (tức là cách đoán quẻ) chủ yếu là dùng hào quẻ, hào từ của 64 quẻ trong Chu dịch và dùng tượng quẻ dể dự đoán cát hung. Phép nạp giáp là do nhà dịch học Kinh Phòng thời Tây Hán sáng tạo ra. Ông đă đưa ngũ hành vào trong quẻ, lấy bát quái chia thành 8 cung, mồi cung 1 qué thuần và 7 quẻ biến, tức là lần lượt lấy 8 quẻ đơn chồng lên nhau dể tạo thành 8 quẻ xếp vào 1 cung. Tất cả tạo thành 8 loại quẻ - (8 cung). Sau đó phối hợp với 6 hào và hào thế, hào ứng để tiến hành đoán quẻ. Phép nạp giáp đõ'i với thuộc tính của sự vật và mối tương quan của chúng ở trong quẻ đoán so với cách dùng mai rùa lập quẻ thời cổ đại và thời Xuân Thu thì nội dung đã dược chi tiết và cụ thể hơn nhiều. Tinh linh hoạt rất rộng rải và các căn cứ tin cậy hơn.Cho nên phép nạp giáp mới có thể phát triển Hên tục trở thành cơ sớ cho sự dự đoán ngày nay. Ngày nay lấy phương pháp gieo quẻ theo dồng tiền thay phương pháp cỏ thi là như thế. Nhưng nếu chỉ đem 10 thiên can nạp vào bát quái thì chưa thể tiến hành dự đoán dược, mà còn phải cho mỗi hào của mỗi quẻ trong 64 quẻ ghép với địa chi. Trong dự đoán lấy địa chi ngũ hành làm chính để suy đoán, nên phép nạp giáp trên thực tế đã bị phép nạp chi thay thế và gọi chung lại là cách dự đoán theo 6 hào. Cho nên để tránh cho độc giả khỏi đi sâu vào mất thì giờ ở dây chỉ giới thiệu về phép nạp giáp như thế. 2. Nạp địa chi cho bát quái ở tiết trước ta đã tìm hiểu thông qua tượng quẻ dể tìm ra quẻ đó ở cung nào và cách phối với lục thân ra sao, dồng thời cũng đã dặt cơ sở cho việc phối địa chi vào 6 hào. Dưới đây chúng ta sẻ nạp địa chi cho 64 quẻ. Trước khi nạp địa chi cho 64 quẻ, cần phải biết cách nạp địa chi cho 8 quẻ thuần (càn, khảm, cấn, chấn, tốn, ly, khôn, đoài). Nắra được kỹ xảo nạp địa chi cho 8 quẻ thuần thì ta sẽ rất dễ dàng nạp địa chi cho 56 quẻ còn lại. 434 Tám quẻ thuần là dựa theo 4 cung đương và 4 cung âm của bát quái Vàn Vương. Bốn cung dương là : can, khảm, cấn, chấn, nó dược phối hợp với các chi dương của 12 địa chi. Bốn cung âm : tốn, ly, khôn, đoài, các hào của nó được phôi hợp các chi âm của 12 địa chi. Nạp địa chi cho 6 hào của 8 quẻ thuần là bắt đầu từ hào đầu tức từ dưới lên trên đến hào 6. Cách phối xếp các hào cua các quẻ trong 4 cung dương là dựa theo hình 12 địa chi trên bàn tay, sắp xếp cách ngôi, chi dương thuận theo chiều kim dồng hồ, phôi từ dưới lên trên, cụ thể như sau : Tuất —— Tý- Dần - Thân - Tuất - Tý — Quẻ Ngọ -Khảm Thân-Cấn Tuất-, Càn Thìn - Ngọ- Thân — Chấn • Dần —- Thìn - Ngọ- Tý - Dần- Thìn- Tuất Thân Ngọ Thìn Dần Tý Cách phôi xếp hào quẻ của 4 cung âm là theo 12 địa chi trên hình bàn tay, cách ngôi, ngược chiều kim đồng hồ, từ dưới lên trên. Cụ thể như sau : Măo - Tỵ — Dậu- Mùi Tỵ — Mui- Hợi -- Dậu Quẻ Mìn- Dậu -Khôn Sửu- Hợi Tốn Dậu — Ly ' Hợi ■— Mào -- Đoàl • Sửu Hợi - Sửu -- Tỵ — Mão Sửu — — Máo - Mùi- Ty Qua cách sắp xêp trên ta thấy rõ, trừ quẻ càn và quẻ chân địa chi giông nhau ra, còn sáu quẻ thuần khác địa chi nạp khác nhau. Nhưng chỉ cần biết 8 quẻ thuần đều là quẻ lục xung, tức quẻ thượng và quẻ hạ, hào đầu và hào 4, hào 2 và hào 5, hào 3 và hào 6 dịa chi dều xung nhau thì sẽ dễ dàng nhớ dược địa chi của các hào. Dưới đây sẽ liệt kê các quẻ thượng và quẻ hạ : Càn < í Ngọ [ Tý Khảm [ Thân Dần Cân ị í Tuất [ Thìn Chấn • í Ngọ l Ty Tốn j í Mùi [ Sửu Ly 1 r Dậu Mão Khôn • í Sửu [ Mùi Đoài ■ í Hơi ỉ T * 3. Nạp địa chi cho 56 quẻ còn lại Việc nạp địa chi cho 6 hào của 8 quẻ thuần là cố định, 56 quẻ còn lại thì càn cứ quẻ thượng và quẻ hạ của 8 quẻ thuần cứ 2 cái chồng lên nhau 435 mà thành, cho nên khi nạp địa chi ngũ hành của 56 quẻ còn lại là dựa nguyên tắc địa chi của quẻ thượng thì dùng cho quẻ thượng, quẻ hạ thì dùng cho quẻ hạ. Vì vậy việc nạp địa chi cho 56 quẻ còn lại là dựa theo nguyên tắc đă giới thiệu ở 8 quẻ thuần trên. Vi dụ : Địa chi của quẻ Thiên phong cấu : Tuất 1 Thân Ị- Thiên Ngọ ' phong cấu Dậu 1 Hợi Ị Sửu Ví dụ : Địa chi của quẻ Hỏa thiên đại hữu Tỵ Mùi Dậu Thìn Dần Tý (Nạp địa chi quẻ thượng của què Càn) (Địa chi quẻ hạ của quẻ Tốn) hóa thiên đại hữu : (địa chi quẻ thượng cùa quẻ Ly) (địa chi quẻ hạ quẻ Càn) 4. Bàn quay nạp địa chi cho 6 hào và cách nhớ Vì những người mới học không dễ mà nhớ được địa chi của quẻ thượng và quẻ hạ, cho nên chúng tôi giới thiệu bàn quay nạp địa chi cho 6 hào để mọi người tham khảo. Phần trên và phần dưới của bàn này, mỗi phần có 8 quẻ kinh đả dược nạp địa chi. Khi quay nửa bàn ngoài để cho hai quẻ chồng lên nhau thì ta sẽ được 1 quẻ mới trong đó sáu hào của quẻ (lã có đầy đủ địa chi. Ví dụ : muốn tra địa chi của quẻ Thiên sơn độn, dầu tiên ta quay quẻ cân của bàn ngoài (qué hạ) trùng với quẻ càn của bàn trông là qué thượng, như vậy ta sẽ được quẻ Thiên sơn độn, có hào đầu .lá thin thổ, hào hai l'à ngọ hỏa, hào ba thân kim, hào bốn ngọ hòa, hào năm thân kim, hào thượng tuất thô. Trong ứng dụng thực tế, căn cứ vào tượng quẻ gieo dược dể quay bàn này, rát nhanh, ta sẽ được qué đã có sán địa chi của 6 hào mà không cần phải nhớ. Còn về lục thân, vì 64 quẻ thay đổi khác nhau nên bàn quay này không thể biểu thị được, mà phải căn cứ vào 8 cung để xác định. 436 Bàn quay nạp địa chi sáu hào. Lúc bắt đầu viết sách này, điều mong muôn lớn nhất của tôi là đê độc giả sau khi đọc, trên cơ sở nắm được tượng quẻ và cách dự đoán của 6 hào, từ đó dùng hình bàn tay để nhớ, tức sau khi gieo quẻ, nhìn vào hình bàn tay là có thể dự đoán được. Cách nạp chi sáu hào của 4 cung dương là thuận chiều kim đồng hồ và cách ngôi. Vì các chi dược nạp đều là chi dương cho nên khi vận dụng phải nhảy qua chi âm. Hào đầu của 4 quẻ dương có các hào đôi xung là hào 4, ví dụ hào đẩu của quẻ càn, quẻ chấn đều là tý thủy, hào đối xung là ngọ hỏa. Vì vậy cho dừ quẻ được tổ hợp như thế nào, khi quẻ càn hoặc quẻ chấn là quẻ hạ thì hào đầu dều bắt đầu từ tý, hào 12 là dần, hào 3 thin. Hào 4 cúa quẻ thượng là ngọ, hào 5 - thân, hào 6 - tuất. Quẻ hạ của quẻ khảm là : dân, thin, ngọ, quẻ thượng là thân, tuất, tý. Quẻ hạ là quẻ cấn là thin, ngọ, thân, quẻ thượng là tuất, tý, dần. Khi nhớ chỉ cần nhớ được hào đầu là có thể căn cứ hình bàn tay để tính ra dược. 437 Sáu hào của 4 cung âm cách nạp chi là ngược chiều kim đồng hồ, cách ngôi. Vì các chi được nạp dều là chi âm, cho nên khi tính phải vượt qua chi dương. Hào đầu của 4 quẻ âm đối xung với hào thứ 4. Ví dụ : hào đầu quẻ tốn là sửu thổ, hào đô'i xung là mùi thổ. Quẻ hạ của quẻ tốn là sửu, hợi, dậu; quẻ thượng là mùi, tỵ, mào. Quẻ hạ của quẻ ly là mão, sửu, hợi; quẻ thượng là dậu, mùi, tỵ. Quẻ hạ của quẻ đoài là tỵ, mão, sửu; quẻ thượng là hợi, dậu, mùi. Quẻ hạ của quẻ khôn là mùi, tỵ, mão; quẻ thượng là sửu, hợi, dậu. Sau khi nắm vững yếu lình thì không cần học thuộc mà hoàn toàn có thể tính được trên lòng bàn tay. IV. ClkH PHÔÌ xếp LỤC than Hai tiết trước đã dặt cơ sở cho việc phối xếp lục thân ở tiết này. Ở đây ta hây làm quen với lục thân của sáu hào là : phụ mẫu, tử tôn, thê tài, huynh đệ và quan quỷ cụ thể là gì ? Trong dự đoán, lục thân của 6 hào chủ yếu có tác dụng để chọn dụng thần. Thông qua lục thân để xác dịnh dụng thần, sau dó kết hợp với quy tắc sinh khắc, chế hóa của nhật thin, nguyệt kiến, hào thế và hào ứng, hào dộng'- để đoán ra cát, hung của quẻ. Lục thân tức là phụ mẫu, huynh dệ, quan quỷ, thê tài, tử tôn. Sự xuất hiện nhiều hay ít của nó trong 6 hào và cùng với địa chi của 6 hào có một vai trò rất quan trọng đôi với cát, hung. Trong 8 què thuần, 6 hào rất đầy dủ. Vì là 6 hào cho nên sẽ có 1 hào sẽ lặp lại lục thân. Trong 56 quẻ còn lại có 1 sô' quẻ không có dụng thần cua việc cần đoán, khi đó có thể mượn dùng quẻ đầu (quẻ thần) của cung mà ta gieo dược quẻ thuộc pung ấy. Đó gọi là phục thần mà phần sau sẽ nói rõ. 438 Lục thân là căn cứ vào ngũ hành thuộc về cung đó, lấy địa chi nạp cho quẻ chủ để xác định. Cũng tức là lây ngũ hành của cung có quẻ chủ là tôi, địa chi trong quẻ chủ tương ứng xác định mối quan hệ cua lục thân. Mối quan hệ sinh khắc đó như sau : Ví dụ : Cung càn, quẻ càn là quẻ đầu có các địa chi phối từ dưới lên trên lần lượt là : hào đầu tý thủy, hào 2 dần mộc, hào 3 thin thổ, hào 4 ngọ hỏa, hào 5 thân kim, hào 6 tuất thổ. Quẻ càn là kim là tôi, trong đó hào 5 thân kim với kim của cung gốc đều thuộc kim. Vì thân kim giống tôi nên nó là huynh đệ. Hào đầu tý thủy được kim sinh nên đó là hào tử tôn. Hào 2 dần mộc bị kim khắc nên đó là hào thê tài. Đối với chồng mà nói thì dần mộc là hào thê tài. Hào 3 thin thổ sinh kim nên nd là hào phụ mẫu. Hào 4 ngọ hỏa khắc kim, đôi với vợ mà nói trong nhà đó là người chồng, ngoài xả hội đó là quan quỷ. Hào 6 tuất thổ cùng ngũ hành với thin thổ, thổ sinh kim nên cũng gọi là hào phụ mẫu. Đến đây lục thân của 6 hào đã dược xác định : Phụ mầu tuất thổ - thế Huynh dệ thân kim “ Quan quỷ ngọ hỏa - Phụ mẫu thin thổ - ứng Thê tài dần mộc - Tử tôn tý thủy - Cách viết 6 hào của quẻ là : bên trái viết địa chi và lục thân, bên phải địa chi ngũ hành là phôi với hào thế, hào ứng. ở đây cần nói rõ cách ghi 6 hào xưa và nay có khác, diều đó là căn cứ vào thói quen từng người. Trong sách này vì để thống nhất với cuôh Chu dịch và dự doán học của thầy Thiệu Vĩ Hoa nên giới thiệu cách ghi như trên. Khi gặp trường hợp có quẻ hổ, quẻ biến thì cách sắp xếp lục thân ra sao ? Rất nhiều độc giả không hiểu vì sao trong các ví dụ dự đoán có quẻ biến lại không căn cứ theo cách sắp xếp tượng hào của 64 quẻ. Đó là vì khi đoán quẻ lấy quẻ chủ làm chính, quẻ biến làm phụ. Trong trường hợp có quẻ biên thì lục thản của quẻ biến phải căn cứ vào ngũ hành của cung có quẻ chủ để sắp xêp. Tức quẻ chủ thuộc cung nào thì lục thân quẻ biến cùng biến theo quẻ chủ, quẻ biến của nó vẫn lây địa chi của quẻ chủ. Hào thế và hào ứng trong quẻ biên vị trí vẫn không đổi. Còn lục thân thì phải căn cứ vào quẻ chủ. Tóm lại, lục thân của quẻ chủ là căn cứ cung có quẻ chủ dể xác định. Ví dụ : Quẻ Đồng nhân của quẻ Càn, quẻ càn ở cung càn, quẻ đồng nhân ở cung Ly. Lục thân của quẻ đồng nhân trong cung Ly hào đầu là phụ mẩu mão mộc, hào hai là tử tôn sửu thổ, hào 3 là quan quỷ hợi thủy, hào 4 là huynh đệ ngọ hỏa, hào 5 là thê tài thân kim, hào thượng là tử tôn tuất thổ. Nhưng trong quẻ biến, lục thân của cung dó không dùng nữa : 439 Quẻ chủ (Càn) Phụ mầu tuất thổ - thế Huynh đệ thân kim - Quan quỷ ngọ hỏa - Phụ mầu thin thố - ứng Thê tài dần mộc - động Tử tôn tý thủy - Quẻ biến (dồng nhân) Phụ mẫu tuất thổ - ứng Huynh đệ thân kim - Quan quỷ ngọ hỏa - Tử tôn hợi thủy - thế Phụ mẫu sửu thổ— Thê tài mão mộc - Trong quẻ thượng của quẻ biến : Hào 4 ngọ hỏa, hào 5 thân kim, hào 6 tuât thổ, địa chi nạp giống với quẻ thượng của qué chủ, cho nên dời lục thân sang là được. Khi xác định lục thân của quẻ hạ, vì hàc 2 quẻ hạ của quẻ chủ dộng, nên cả quẻ hạ cùa quẻ biến từ quẻ càn của quẻ chủ có các chi tý, dần, thin biến thành quẻ ly là mão, sứu, hợi. Cả 3 hào đều tùy theo lục thân cua cung có qué chủ mà biến ra. Hào đầu mão mộc là cái mà kim của cung có quẻ chủ khắc, tức là cái mà tôi khắc gọi là hào thê tài. Hào hai sửu thổ là cái sinh tôi là kim nên là hào phụ mẫu. Hào 3 hợi thủy là các tôi sinh nên là hào tứ tôn. Lục thân của toàn quẻ biến như vậy là đã được xác định. Ta lãy tiêp ví dụ : quẻ càn của què đồng nhân để so sánh sự khác biệt với ví dụ trên : Qưẻ chủ (dồng nhân) Tử tôn tuất thô — ứng Thê tài thân kim - Huynh dệ ngọ hòa - Quan quỷ hợi thủy - thế Tử tôn sửu thổ — dộng Phụ mẫu mão mộc - Qué biến (càn) Tử tôn tuất thổ - thế Thê tài thân kim - Huynh đệ ngọ hỏa - Tử tôn thin thổ - ứng Phụ mẫu dần mộc - Quan quý tý thủy - Quẻ đồng nhân của quẻ chủ thuộc cung ly, ly là hỏa, hào tỵ, ngọ hóa đều thuộc hỏa cùng ngũ hành, cho nên hào ngọ hỏa là hào huynh đệ. Các hào còn lại địa chi dựa theo nguyên tắc sinh khắc, chế hóa của ngũ hành để nạp và từ đó suy ra lục thân mão mộc sinh ngọ hỏa, sinh tôi nên là hào phụ mầu. Sửu thổ và tuất thổ là cái tồi sinh nên là hào tử tôn. Tý thúy là cái khắc tôi, nên là hào quan quỷ. Thân kim là cái tôi khắc nên là hào thê tài. Quẻ biến phải dựa theo ngũ hành và lục thân của quẻ chủ mà xác định. Công đụng lục thản của quẻ biến là căn cứ vào nội dung của việc cần đoán để xác định. Ví dụ tử tôn là dụng thần, con cái bị lạc thì hào phụ mẫu của quẻ biến có thể đoán là bậc trên hoặc thầy giáo,... Lục thân của quẻ biến là dùng để tham khảo trong dự đoán. Quẻ biến chủ yếu vẫn phải xem từ hào động của quẻ chủ biến ra là hóa sinh trô lại hay háo khắc trở lại. Khi dự đoán, phái lấy địa chi để đoán sự sinh khắc của ngũ hành thì mới dễ thấy rõ. Để giúp 440 độc giả dễ kiểm tra lục thâu của quẻ chủ, dưới đây ghi lại toàn bộ tượng hào của 64 quẻ. 1. TÁM QUẺ CUNG CÀN THUỘC KIM CÀN VỊ THIÊN Phụ mẫu tuất thổ. thế Huynh dệ thân kim. Quan quỷ ngọ hỏa. Phụ mầu thin thổ. ứng Thé tài dần mộc. Tử tôn tý thủy. THIÊN ĐỊA PHỦ Phụ mầu tuât thổ. ứng Huynh đệ thân kim, Quan quỷ ngọ hỏa. Thê tài mão mộc., thế Quan quỷ tỵ hỏa.. Phụ mẫu mùi thổ.. THIÊN PHONG CẤU Phụ mẫu tuất-thổ. Huynh đệ thân kim. Quan quỷ ngọ hỏa. ứng Huynh đệ dậu kim. Tử tôn hợi thủy. Phụ mẫu sửu thổ., thế PHONG ĐỊA QUAN Thê tài mão mộc. Quan quỷ tỵ hỏa. Phụ mẫu mùi thổ., thế Thê tài măo mộc.. Quan quỷ tỵ hỏa.. Phụ mẫu mùi thổ., ứng THIÊN SƠN DỘN Phụ mẫu tuất thổ. Huynh đệ thân kim. ứng Quan quỷ ngọ hỏa. Huynh đệ thân kim. Quan quỷ ngọ hòa., thế Phụ mẫu thin thổ.. SƠN ĐỊA BÓC Thê tài dần mộc. Tử tôn tý thủy., thế Phụ mẫu tuất thổ.. Thê tài mão mộc.. Quan quỷ tỵ hỏa., ứng Phụ mẫu mùi thổ.. HỎA ĐỊA TẤN Quan quỷ tỵ hỏa. Phụ mẩu mùi thổ.. Huynh đệ dậu kim. thế Thê tài mão mộc.. Quan quỷ tỵ hỏa.. Phụ mẩu mùi thổ., ứng HỎA THIÊN ĐẠI HỮU Quan quỷ tỵ hỏa. ứng Phụ mẫu mùi thổ. Huynh đệ dậu kim. Phụ mẫu thin thổ. thế Thê tài dần mộc. Tử tôn tý thủy. 2. TÁM QUẺ CUNG ĐOÀI THUỘC KIM ĐOÀI VI TRẠCH Phụ mầu mùi thổ., thế Huynh đệ dậu kim. Tử tồn hợi thủy. Phụ mẫu sửu thổ., ứng Thê tài mão mộc. Quan quỷ ty hỏa. TRẠCH THỦY KHỐN Phụ mẫu mùi thổ.. Huynh đệ dậu kim. Tử tôn hợi thủy, ứng Quan quỷ ngọ hỏa.. Phụ mẫu thin thổ. Thê tài dần mộc., thế TRẠCH ĐỊA TỤY Phụ mẫu mùi thổ.. Huynh đệ dậu kim. ứng Tử tôn hợi thủy. Thê tài mão mộc.. Quan quỷ tỵ hỏa., thế Phụ inẫu mùi thổ.. 441 THỦY SƠN KIỂN ĐỊA SƠN KHIÊM Tử tôn tý thủy.. Huynh đệ dậu kim Phụ mẫu tuất thổ. Tử tôn hợi thủy., thế Huynh đệ thân kim. thế Phụ mẫu sửu thổ thế Huynh đệ thân kim. Huynh đệ thân kim. Quan quỷ ngọ hỏa.. Quan quỷ ngọ hỏa., ứng Phụ mẫu thin thổ., ứng Phụ mẩu thin thổ.. TRẠCH SƠN HÀM Phụ mẫu mùi thổ., ứng Huynh đệ dậu kim. Tử tôn hợi thủy. Huynh đệ thân kim. Quan quỷ ngọ hỏa.. Phụ mẫu thin thổ.. LÔI SƠN TIỂU QUÁ Phụ mẫu tuất thổ.. Huynh đệ thân kim.. Quan quỷ ngọ hỏa. thế Huynh đệ thân kim.. Quan quỷ ngọ hỏa.. Phụ mẫu thin thổ., ứng LÔI TRẠCH QUY MUỘI Phụ mẫu tuất thổ- ứng Huynh đệ thân kim. Quan quỷ ngọ hỏa. Phụ mẫu sửu thổ., thế Thê tài mão mộc. Quan quỷ tỵ hỏa. LY VI HỎA Huynh đệ tỵ hỏa. thế Tử tôn mùi thổ.. Thê tài dậu kim. Quan quỷ hợi thuy. ứng Tử tôn sửu thổ.. Phụ mẫu mão mộc. HỎA THỦY VỊ TẾ Huynh đệ tỵ hỏa. ứng Tử tôn mùi thổ.. Thê tài dậu kim. Huynh đệ ngọ hỏa., thế Tử tôn thin thổ. Phụ mầu dần mộc.. THIÊN THỦY TỤNG Tử tôn tuất thổ. Thê tài thân kim. Huynh đệ ngọ hỏa. thế Huynh dệ ngọ hỏa.. Tử tôn thin thổ. Phụ mẫu dần mộc., ứng HỎA PHONG ĐỈNH Huynh dệ tỵ hỏa. Tử tôn mùi thổ- ứng Thê tài dậu kim. Thê tài dậu kim. Quan quỷ hợi thủy, thế Tử tôn sửu thổ.. PHONG THỦY HOÁN Phụ mẩu mão mộc Huynh dệ tỵ hỏa. thế Tử tôn mùi thổ.. Huynh đệ ngọ hỏa., Tử tôn thin thổ. ứng Phụ mẫu dần mộc.. THIÊN HỎA ĐỒNG NHÂN Tử tồn tuất thổ. ứng Thê tài thân kim. Huynh đệ ngọ hỏa. Quan quỷ hợi thủy, thế Tử tôn sửu thổ.. Phụ mẫu mão mộc. 3. TÁM QUE CUNG LY THUỘC HÒA HỎA SƠN LỮ Huynh đệ tỵ hỏa. Tử tôn mùi thổ.. Thê tài dậu kim. ứng Thê tài thân kim. Huynh dệ ngọ hỏa.. Tử tôn thin thổ- thế SƠN THỦY MÔNG Phụ mẫu dần mộc. Quan quỷ tý thủy.. Tử tôn tuất thổ., thế Huynh đệ ngọ hỏa.. Tử tôn thin thổ. Phụ mẫu dần mộc., ứng 442 4. TÁM QUẺ CUNG CHẤN THUỘC MỘC CHẤN VI LÔI Thê tài tuất thổ., thế Quan quỷ thân kim.. Tử tôn ngọ hỏa. Thê tài thin thổ., ứng Huynh dệ dần mộc.. Phụ mầu tý thủy. LÔI PHONG HẰNG Thê tài tuất thổ., ứng Quan quỷ thân kim.. Tử tôn ngọ hỏa. Quan quỷ dậu kim. thế Phụ mầu hợi thủy. Thê tài sửu thổ.. LÔI ĐỊA Dư Thê tài tuất thổ.. Quan quỷ thân kim.. Tử tôn ngọ họa. ứng Huynh đệ mão mộc.. Tử tôn tỵ hỏa.. Thê tài mùi thể., thế ĐỊA PHONG THẢNG Quan quỷ dậu kim.. Phụ mẫu hợi thủy.. Thê tải sửu thổ., thế Quan quỷ dậu kim. Phụ mẫu hợi thủy. Thê tài sửu thổ., ứng LÔI THỦY GIẲI Thê tài tuất thổ.. Quan quỷ thân kim., ứng Tử tôn ngọ hỏa. Tử tôn ngọ hỏa.. Thê tài thin thổ. thế Huynh đệ dần mộc., THỦY PHONG TỈNH Phụ mẫu tý thủy.. Thê tài tuất thổ. thế Quan quỷ thân kim.. Quan quỷ dậu kim. Phụ mầu hợi thủy, ứng Thê tài sửu thổ.. TRẠCH PHONG ĐẠI QUÁ Thê tài mùi thổ.. Quan quỷ dậu kim. Phụ mẫu hợi thủy, thế Quan quỷ dậu kim. Phụ mẫu hợi thủy. Thê tài sửu thổ... ứng TRẠCH LÔI TÙY Thê tài mùi thổ., ứng Quan quỷ dậu kim. Phụ mẫu hợi thủy. Thê tài thin thổ., thế Huynh đệ dần mộc.. Phụ mẫu tí thủy. 5. TÁM QUE CUNG TỐN THUỘC MỘC TỒN VI PHONG PHONG THIÊN TIỂU súc Huynh đệ mão mộc. thế Huynh đệ mão mộc. Tử tôn tỵ hỏa. Tử tôn tỵ hỏa. Thê tài mùi thổ.. Thê tài mùi thổ., ứng Quan quỷ dậu kim. ứng Thê tài thin thổ. Phụ mau hợi thủy. Huynh đệ dần mộc. Thê tài sửu thổ.. Phụ mẫu tý thủy, thế PHONG HỎA GIA NHÂN Huynh dệ mão mộc. Tử tôn tỵ hỏa. ứng Thê tài mùi thổ.. Phụ mẫu hợi thủy. Thẻ tài sửu thổ., thế Huynh đệ mão mộc. PHONG LÔI ÍCH Huynh đệ mão mộc. ứng Tử tôn tỵ hòa. Thê tài mùi thổ.. Thê tài thin thổ., thế Huynh đệ dần mộc.. Phụ mầu tý thủy. TH|ậN LÔI VÔ VỌNG Thê tài tuất thổ. Quan quý thân kim. Tử tôn ngọ hỏa. thế Thê tài thin thổ.. Huynh đệ dần mộc.. Phụ mẫu tý thủy, ứng HỎA LÔI PHỆ HẠP Tử tôn tỵ hỏa. Thê tài mùi thổ., thế Quan quỷ dậu kim. Thê tài thin thổ.. Huynh đệ dần mộc., ứng Phụ mẫu tý thủy. SƠN LỒI DI Huynh đệ dần mộc. Phụ mầu tý thủy.. Thê tài tuất thổ., thế Thê tài thin thổ Huynh đệ dần mộc.. Phụ mẫu tý thủy, ứng SƠN PHONG CỔ Huynh đệ dần mộc. ứng Phụ mẫu tý thủy.. Thê tài tuất thổ.. Quan quỷ dậu kim. thế Phụ mẫu hợi thủy. Thê tài sửu thổ.. KHẢM VI THỦY Huynh đệ tý thủy., thế Quan quỷ tuất thổ. Phụ mẫu thân kim. Thê tài ngọ hỏa., ứng Quan quỷ thin thổ. Tử tôn dần mộc.. THỦY HỎA KÝ TẾ Huynh dệ tý thủy., ứng Quan quỷ tuất thể. Phụ mầu thân kim.. Huynh đệ hợi thủy, thế Quan quỷ sửu thổ.. Từ tôn mão mộc. ĐỊA HỎA MINH DI Phụ mẫu dậu kim.. Huynh đệ hợi thủy.. Quan quỷ sửu thổ., thê Huynh đệ hợi thủy. Quan quỷ sửu thổ.. Tử tôn mão mộc. ửng THỦY LÔI TRUÂN Huynh đệ tý thủy.. Quan quỷ tuất thổ. ứng Phụ mẫu thân kim.. Quan quỷ thin thổ.. Tử tôn dần mộc., thế Huynh đệ tý thủy. LÔI HỎA PHONG Quan quỷ tuất thể- Phụ mẫu thân kim., thế Thê tài ngọ hỏa. Huynh dệ hợi thủy. Quan quỷ SỬU thổ. ứng Tử tôn mão mộc. ĐỊA THỦY SƯ Phụ mầu dậu kim., ứng Huynh đệ hợi thủy.. Quan quỷ sửu thổ.. Thê tài ngọ hỏa., thế Quan quỷ thin thổ. Thê tài dần mộc.. 6. TÁM QUẺ CUNG KHẢM THUỘC THỦY THỦY TRẠCH TlỂT Huynh đệ tý thủy.. Quan quỷ tuất thổ. Phụ mẩu thân kim., ứng Quan quỷ sửu thổ.. Tử tôn mão mộc. Thê tài tỵ hỏa. thế TRẠCH HỎA CÁCH Quan quỷ mùi thổ.. Phụ mẫu dậu kim. Huynh đệ hợi thủy, thế Huynh đệ hợi thủy. Quan quý sửu thổ.. Tử tôn mão mộc. ứng 444 7. TÁM QUẺ CUNG CẤN THUỘC THỔ CẤN VI SƠN Quan quỷ dần mộc. thế Thê tài tý thủy.. Huynh đệ tuất thổ.. Tử tôn thân kim. ứng Phụ mầu ngọ hỏa.. Huynh đệ thin thổ.. SƠN TRẠCH TỔN Quan quỷ dần mộc. ứng Thê tài tý thủy.. Huynh đệ tuất thổ.. Huynh đệ sửu thổ., thế Quan quý mão mộc. Phụ mẫu tỵ hỏa. SƠN HỎA BÔN Quan quỷ dần mộc. Thê tài tý thủy.. Huynh đệ tuất thổ., ứng Thê tài hợi thủy. Huynh dệ sửu thổ.. Quan quỷ mão mộc. thế HỎA TRẠCH KHUÊ Phụ mẫu tỵ hỏa Huynh đệ mùi thổ.. Tử tôn dậu kim. thế Huynh dệ sửu thổ.. Quan quỷ mão mộc. Phụ mẫu tỵ hỏa. ứng SƠN THIỀN ĐẠI SÚC Quan quỷ dần mộc. Thê tài tý thủy., ứng Huynh đệ tuất thổ.. Huynh đệ thin thổ. Quan quý dần mộc. thế Thê tài tý thủy. THIÊN TRẠCH LÝ Huynh đệ tuâ't thổ Tử tôn thân kim. thê Phụ mẫu ngọ hỏa. Huynh đệ sửu thổ.. Quan quỷ mão mộc. ứng Phụ mẫu tỵ hỏa. PHONG TRẠCH TRUNG PHÙ Quan quỷ mão mộc. Phụ mẩu tỵ hòa. Huynh đệ mùi thổ., thế Huynh đệ sừu thổ.. Quan quỷ mão mộc. Phụ mẫu tỵ hỏa. ứng PHONG SƠN TIỆM Quan quỷ mão mộc. ứng Phụ mầu tỵ hỏa. Huynh đệ mùi thổ.. Tử tôn thân kim. thế Phụ mẫu ngọ hỏa. Huynh đệ thin thổ.. 8. TÁM QUẺ CUNG KHÔN THUỘC THỔ KHÔN VI ĐỊA Tư tôn dậu kim., thê Thê tài hợi thủy.. Huynh đệ sửu thổ.. Quan quỷ mão mộc., ứng Phụ mầu tỵ hỏa.. Huynh đệ mùi thổ.. ĐỊA LÔI PHỤC Tử tôn dậu kim.. Thê tài hợi thủy.. Huynh đệ sửu thổ., ứng Huynh đệ thin thổ.. Quan quỷ dần mộc.. Thê tài tý thủy, thế ĐỊA TRẠCH LÂM Tử tôn dậu kim.. Thê tài hợi thủy., ứng Huynh đệ sửu thổ.. Huynh đệ sửu thổ.. Quan quỷ mão mộc. thế Phụ mẫu tỵ hỏa. 445 LÔI THIÊN ĐẠI TRÁNG TRẠCH THIÊN QUẢI ĐỊA THIÊN THÁI Tử tôn dận kim., ứng Thê tài hợi thủy.. Huynh đệ sửu thổ.. Huynh dệ tuất thổ.. Tử tôn thân kim.. Phụ mầu ngọ hỏa. thế Huynh đệ mùi thổ.. Tử tôn dậu kim. thế Thê tài hợi thủy. Huynh đệ thin thổ. Quan quỷ dẩn mộc. ứng Thê tài tý thủy. Huynh đệ thin thổ. thế Huynh đệ thin thổ. Quan quỷ dần mộc. Quan quỷ dần mộc. Thê tài tý thủy. Thê tài tý thủy, ứng THỦY THIÊN NHU Thê tài tý thủy.. Huynh đệ tuất thổ.. Tử tôn thân kim., thế Huynh đệ thin thổ. Quan quỷ dần mộc. Thê tài tý thủy, ứng THỦY ĐỊA TỈ Thê tài tý thủy., ứng Huynh đệ tuất thổ.. Tử tôn thân kim.. Quan quỷ mão mộc., thế Phụ mầu tỵ hỏa.. Huynh dệ mùi thổ.. V. CÁCH PHỐI xếp LỤC THỔN Lục thần là mượn tên gọi : thanh long, chu tước, câu trần, phi xà, bạch hổ, huyền vũ của 6 ngôi sao để phân biệt các sự vật. Trong dự đoán theo 6 hào lục thần có thể bổ trợ sáu hào để tham khảo phán đoán cát, hung. Vậy lục thần phôi xếp tương ứng với các ngôi hào ra sao ? Căn cứ thanh long đóng ở phương đông, nên thanh long phôi với giáp ất; chu tức dóng ở phương nam nên phôi với bính đinh; bạch hổ đóng ở phương tây nên phôi với canh tân; huyền vũ đóng ồ phương bắc nên phối nhâm quý. Câu trần, phi xà ở giữa nên lần lượt phối với mậu và ký. Độc giả cần phải thuộc các ngôi sao tương ứng với các ngày. Cách dùng là : Lấy thiên can của ngày phôi với các ngôi sao tương ứng dể phôi vào hào đầu của quẻ. Ví dụ việc đoán thuộc ngày giáp, ngày ất, thì tên sao đóng tương ứng là thanh long, do dó hào đầu cùa quẻ đoán phôi với thanh long, nhưng ngói sao còn lại lần lượt theo thứ tự dể phôi với các hào theo bảng giới thiệu dưới đây : Ví dụ : Ngày canh hoặc ngày tân thì lục thần của bất cứ quẻ nào dều dược phôi là : Hào dầu phôi bạch hổ, hào 2 - huyền vũ, hào 3 - thanh long, hào 4 - chu tước, hào 5 - câu trần, hào 6 - phi xà. Dùng lục thần để bổ trợ cho đoán quẻ theo 6 hào, ngày xưa dùng khá nhiều, bây giờ cũng dùng vào đoán các sự việc như đoán động đất, v.v... Quẻ 446 đà tốt nếu gặp Thanh long càng tốt, người gặp quẻ xấu, gặp bạch hổ hay phi xà càng xấu. Nếu lục thần không tốt mà khắc hào thế, hoặc khắc dụng thần thì không tốt; Lục thần tốt mà khắc dụng thần hoặc khắc hào thế cũng không tốt, tức là trong vui có buồn. Ngược lại lục thần tốt gặp dụng thần hay gặp hào thế thì tốt. Ví dụ : dụng thần hoặc hào thế là dần mộc hoặc mão mộc, gặp được thanh long là sẽ có tin vui. BẢNG PHỐI XẾP LỤC THẦN Hào của quẻ Ngày Giáp. Ất Ngày Binh, Đinh Ngày Mậu Ngày Kỳ Ngày Canh, Tản Ngày Nhàm. Quv Hào Thượng Huyén Vũ Thanh Long Chu Tước Càu Trán Hào Năm Bạch Hổ Chu Tước Câu Trắn Phi Xà Hào Bốn Phi Xà 1 Hầo Ba Câu Trần Bạch Hổ Huyén Vù Thanh Long Chu Tước Hào Hai Chu Tước Phi Xà Bạch HỔ Huyễn Vù Thanh Long Hào Đẩu Thanh Long Chu Tưởc Câu Trần Phi Xà Bạch Hổ Huyền Vũ Lục thân chủ vê các việc : Thanh long chủ về các tin vui hoặc các việc tài lộc; chu tước chủ về việc cãi cọ, hoặc phải đến cửa quan; câu trần là có nỗi lo về đất đai hoặc tù ngục; phi xà chủ về những nồi lo vu vơ; quái dị; bạch hổ chủ về những việc hiếu hay bị thương tổn; huyền vũ chủ về các việc bị trộm cắp hoặc ám muội. Lục thần phát động : Thanh long phát động gặp được dụng thần thì tiến tài tiến lộc, phúc vô vùng. Gặp cừu thần là điều xâu, không dược ích lợi gì hoặc gặp tai nạn trong ham mê tửu sắc. Chu tước phát động, văn thư lại vượng, lại gặp cả sát thần thì không có công tích gì hoặc vì thế mà có chuyện câi cọ. Nếu chu tước phát động xuất sinh cho thân thì lại có lợi cho việc công. Câu trân phát động là có nỗi lo về ruộng đất, nếu xung tuế quân thì đó là diều xấu không nên gặp. Nếu câu trần phát động sinh dụng thần mà đoán về việc hôn nhân thì càng tốt. Nếu câu trần yên tĩnh là người được đoán tỉnh táo bình thường. Phi xà gặp phải thì có nhiều nỗi ưu tư lo lắng hoặc việc lo sợ vu vơ không rõ ràng. Nếu nó nằm ở hào thế mà rơi vào tuần không, hưu tù thì lại tốt, nếu gặp ngày xung thì khó mà tránh được điều xấu. 447 Bạch hổ phát động là chủ gặp phải những việc bị hình phạt hoặc kiện tụng, hoặc bệnh tật. Hào bạch hổ trì thế, động là khắc phải dề phòng cãi cọ nhau. Huyên vũ phát động là có việc ám muội, nếu gặp quan quỷ phái dề phòng bị trộm cắp. Nếu đoán cho bạn xuất hành, hào huynh đệ trong quẻ động thì không tốt, nếu hào dó lại có lục thần là huyền vũ thì phải đề phòng bị mất cắp về tiền tài. Vì vậy, tôt, nhất là chờ đến thời gian có lợi mới xuất hành. Trước khi kết thúc chương này, xin giới thiệu với độc giả là nhà dự đoán học nổi tiếng Thiệu Vĩ Hoa đã căn cứ ngũ hành để chế ra bộ thẻ dự đoán thông tin theo 6 hào. Nếu những người mới học có trí nhớ kém, hoặc những người trung niên chưa thành thạo mà dùng bộ thẻ này thì sẽ tránh dược sự bối rối và sắp xếp quẻ đờ sai lầm. 448 Chương 6 CÁC KIẾN THỨC Dự ĐOÁN THEO SÁU HÀO I. RỤNG THỔN, NGUVêN THĂN, Ky THÍỈN, cừu THÀN 1. Dụng thần : Trong dự đoán theo 6 hào, dụng thần đại diện cho người hoặc việc cần dự đoán, nó là dối tượng được rút từ lục thần ra để đoán. Sự mạnh, yếu, thịnh, suy của dụng thần là mấu chốt quyết định quẻ xấu hay tốt, sự việc thành hay bại. Chọn đúng dụng thẩn là mấu chốt để chọn đúng người hay sự việc cần đoán. Chỉ có chọn đúng dụng thần mới có thể lấy dó làm cơ sở, đồng thời tham khảo thêm mối quan hệ sinh khắc của những hào còn lại với dụng thần và mối quan hệ mạnh, yếu giữa chúng dể rút ra kết luận, sự vật cát hay hung, sự việc thành hay bại. Dụng thần được phân loại như sau : Hào phụ mẫu : vì sinh tòi là phụ mầu, cho nên phàm đoán về bậc trên của tôi như cha mẹ, tổ tiên hoặc những người ngang hàng với cha mẹ như : thầy giáo, chú bác, cô dì, v.v... đều lấy hào phụ mẫu làm dụng thần. Ngoài ra khi đoán về thành trì, nhà cửa, chổ ở, tàu thuyền, quần áo, áo dù đi mưa, vải vóc và những đồ vật để che thân và những văn bản, văn khế, đơn từ, tác phẩm có liên quan đến văn tự đều lấy hào phụ mẫu làm dụng thần. Hào quan quỷ : phàm đoán về tiền đồ, học hành, thi cử, công danh, thàng quan tiến chức, những việc liên quan dến tế lể : đoán về chồng, anh em chồng, những người ngang vai mình và bạn hữu đều lấy hào quan quỷ làm dụng thần. Ngoài ra khi đoán về người làm phản, giặc dã trộm cướp, bệnh tật, lo lắng nghi ngờ, những việc lo lắng nguy hại đến bản thân dều lấy hào quan quỷ làm dụng thần. Hào huynh đệ : khi đoán những người ngang hàng như anh, chị, em ruột, anh, chị, em họ, anh, chị, em chồng hay vợ, bạn tri kỷ đều lấy hào huynh đệ làm dụng thần. Hào thê tài : phàm đoán về vợ, người yêu, chị dâu, em dâu và vợ bạn, hoặc những tài sản bị mình dùng làm vật hưởng lạc, như tiền tài, châu báu, vàng bạc, hàng hóa, những vật dụng thường ngày thì đều lấy hào thê tài làm dụng thần. 449 Hào tử tôn : phàm nhửng người thuộc thế hệ con cái, cháu, cháu dâu, cháu họ, học sinh, môn đệ đều lấy hào tử tôn làm dụng thần. Ngoài ra khi đoán về cấp trung thần, tướng giúp mình, thầy thuốc, các nhà sư, binh lính, lục súc, gia cầm, việc có trôi chảy hay không, giải sầu, tỵ nạn và hdi về thời tiết, về mặt trời, trăng, sao... dều lây hào tử tôn làm dụng thần. Ngoài ra khi tự đoán cho mình thì lấy hào thế làm dụng thần, hào ứng là việc hay người cần đoán. Như đoán cầu tài thì hào thế là người đoán, hào ứng là người khác. Hào tài trì thế, sinh thế, hợp thế, khắc thế ỉà tiền tài đến tìm mình, là dề được của. Nếu hào tài không thế hiện trên qué, thì mình cầu tài nhưng khó dược. Hào ứng động mà hợp thế, là đối phương hợp với minh, là dược người khác đồng tâm hiệp lực. Khi đoán những việc không có trong lục thân thì lấy hào ứng làm dụng thần. 2. Nguyên thần Là hào sinh trợ cho dụng thần. Ví dụ đoán cầu tài, dụng thần là thê tài dần mộc, sinh trợ cho hào thê tài là hào tử tôn tý thủy. Hào tử tôn chính là nguyên thần sinh trợ cho hào thẻ tài. Nguyên thần vượng, sinh trợ cho dụng thần thì đụng thần mạnh. Ngược lại, nguyên thần suy yếu hoặc không có, hoặc bị khắc hại, không sinh trợ được cho dụng thần thì dụng thần như nước không có nguồn, cây không có gốc, khi gặp hung thẩn khắc hại, dụng thần sẽ khóng được cứu. 3. Kỵ thẩn Kỵ thần là hào khắc dụng thần. Ví dụ : dụng thần là thê tài dần mộc, thì kỵ thần là hào huynh đệ thân kim hoặc dậu kim khắc mộc. Nguyên thần là kỵ thần là những cái quyết định vận mệnh của dụng thẩn tôt hay xấu theo mối quan hệ địa chi ngũ hành sinh khắc lẫn nhau. Nguyên thần và kỵ thần là 1 cặp mâu thuẫn đối lập. Cái nào càng mạnh, càng có sức thì cái đổ sẽ có tác đụng quyết định tốt hay xâu đô'i với dụng thần. Nhưng khi nguyên thần và kỵ thần đồng thời dộng thị kỵ thần có thể sinh trợ nguyên thần, nguyên thần sinh trợ dụng thần, tức là liên tục tăng thêm điều tô't. 4. Cừu thần Cầu thần là hào bị dụng thần khãc. Ví dụ : dụng thần là thẻ tài dần mộc, tức cừu thần là hào phụ mầu thổ. Nếu kỵ thần là cái khắc dụng thần, thì cừu thần là cái giúp đỡ cho kỵ thần. 450 Thổ khắc thủy, khi thủy là nguyên thần sinh dụng thần, nguyên thần bị thương thì dụng thần không có gốc, không có nguồn sinh nên không được cứu. Trong quẻ nếu cởu thần phát dộng, nguyên thần sẽ bị thương vì cừu thần phát động sinh kỵ thần. Dưới đây dùng hình vẽ để nói rõ mỏi quan hệ giữa 4 thần. Trong hình vẽ lấy hào thê tài mộc làm vi dụ {*-» là sinh; -( là khắc). (Như hào tử tôn thủy) NGUYÊN THẨN > (Như hào phụ mẫu thổ) ' CỪU THẦN DỤNG THẨN (Như hào thê tài mộc) KỴ THẰN (Như hào huynh đệ kim) Thực ra ngoài dụng thần ra, kỵ thần, cầu thần, nguyên thần chỉ là dùng để giái thích nói rõ mối quan hệ sinh khắc giữa ngũ hành địa chi của 6 hào với đụng thần. Nếu vận dụng sự sinh khắc của địa chi và ngủ hành thành thạo để đoán quẻ thì kỵ thần, cừu thần, nguyên thần không cần vận dụng đên nữa. II. LỤC HỢP, LỤC XUNG, LỤC HỌI, TAM HỢP cục, TAM HỈNH 1. Lục hợp Tý hợp sửu thành thổ; đần hợp với hợi thành mộc; mão hợp với tuất thành hỏa; thin hợp với dậu thành kim; tỵ hợp với thân thành thủy; ngọ hợp với mùi thành thổ. Ngọ là thái dương, mùi là thái âm. Sách "Hợp ký biện phương' 1 nói : "Trời là chỉ mặt trời, mặt trăng; sao là phần dư thừa của mặt trời, mặt trâng. Ngọ, mùi thuộc ly, tý, sửu thuộc khảm, ly tức là mặt trời, khảm chính là mặt trăng. Ngọ là mặt trời vì tỵ là hỏa, tý không phải là mặt trăng là vì sao ? Mặt trăng sáng là tinh khí của thủy, treo lơ lửng trong không trung được mặt trời chiếu sáng, vì vị trí của tý ỏ phương bắc, nên tý không phải là mặt trăng. Tinh khí của tý, sửư xung lên phía trên cùng nhập với mặt trời nên vị trí của nó nhâ't định phải ở phía trên mùi, đo đó mùi là thái âm, là mặt trăng. Đất chính là thủy và thổ, tý thủy sửu thổ, sửu thổ lại chính là thổ của thủy này, nó là một bộ phận của đất, đó là điều chắc chắn. Đất tức là thổ, cho nên tý, sửu hợp với thổ thành thổ. •451 Trời ở trên, dất ở dưới, ở giừa là mộc, hỏa, kim, thủy. Tý, SỬU là thủy thổ, chỗ có thủy, thổ nhất định có mộc sinh trưởng, cho nên hợi dần hợp lại thành mộc. Mộc lớn lên sẽ sinh hỏa, cho nên mào, tuất hợp lại thành hỏa. Tuất là khí của trời, mậu là nơi ở của nó, nên khí của trời bắt đầu ở thin, cho nên thin cũng là mậu. Thổ vượng tất sẽ sinh kim, do dó dậu hợp lại làm thành kim. Dậu là đất đế vượng của kim, dậu đứng ở vị trí cao nhất của kim. Khi nó chưa dạt đến cực điểm thì thủy tỵ được sinh ra từ trong thân, cung đô'i lại là tỵ, tức tỵ là mẹ của kim, thủy nhất định được sinh ra từ thân, tỵ. Thân, tỵ ở vào chỗ cao nhất của ngọ, mùi cho nên không có thủy. Lây mẹ đi thì con phải theo. Thủy lại không thể đứng độc lập mà phải gắn liền với thổ, nó phải phụ thuộc vào thổ, cho nên thổ quyết định vị trí của tý, sửu cho nên tý, sửu gọi là thổ chứ không gọi là thủy. Nếu bàn về thủy mà không gắn liền với mộc thì thủy đó tàng ẩn trong khí mẹ, cho nên thân, tị hợp lại mà thành thủy. Nguồn gốc của ngũ hành lục hợp này nói gọn lại là : mộc mà do thủy thổ sinh ra đi lên nừa là hỏa thổ, lẽn nữa là kim, lên nữa là thủy, cũng giống như sáu hào của quẻ phải thuận theo thứ tự từ dưới lên. Những cái tương hợp có hào hợp với hào, hào hợp với ngày tháng. Hợp thì vượng, hợp mà sinh dụng hoặc sinh hào thế là tốt, hợp mà sinh kỵ là xấu. Dự đoán cho xuất hành mà bị hợp là khó mà xuất hành. Hợp mà không khớp đôi là hợp không bền vững. Lục hợp nói chung là tốt, trong tượng quẻ, lục hợp biến ra lục hợp là tốt. Trong sáu hào, những trường hợp lục hợp sau là tốt : 1. Hào tĩnh, hào động đang ở đất hưu tù, nhưng sau khi hợp với nhật thin hoặc nguyệt kiến thì được sinh vượng, đo đó khống sợ bị những hào khắc. Hào thế hoặc dụng thần đều là hào vượng lại còn dược hợp thì cố thể đối địch được với hào kỵ thần vượng tướng. Ví dụ ngày tỵ tháng dậu, dụng thần thân kim lâm nguyệt kiến mà vượng lại được hợp với ngày thì tuy trong hợp có khắc, nhưng nhờ dụng thần vượng tướng lại còn được hợp nên cuối cùng vẫn là tốt. 2. Hào động hợp với nhật thin, nguyệt kiến hoặc với một hào dộng khác gọi là trói chắc. Trường hợp này chưa chắc đã là xấu. Hào động tương hợp với hào nó biến ra gọi là sự hợp của dộng hóa quay đầu, tuy là hợp chặt nhưng là loại hợp thêm sức phù trợ. Ví dụ hào động thân kim của quẻ chủ hóa thành hào tỵ hỏa, đó gọi là sự hóa hợp. Cũng chỉ có thân kim hóa tỵ hỏa thì khi đó cho dù không được nhật thin, nguyệt kiến, hào động tương sinh, sự hổa hợp dó vẫn được gọi là trường sinh. Nếu gieo quẻ vào ngày dần hoặc tháng dần là quẻ tam hình đều có, khi đó thân bị dần xung nên không thể gọi là tốt được. 3. Khi dịa chi của hào thế và hào ứng tương hợp thì nhất thiết cả hai hào thế, ứng đều dộng mới gọi là hợp. Nếu chi có một hào động thì không 452 Lục hợp là hợp của âm dương, trong thứ tự mười hai địa chi, sự tương hợp âm dương có một quy luật nhất định. Vì lục hợp, lục xung, lục hại, tam hình, tam hợp cục của địa chi trong dự đoán sáu hào là những yếu lĩnh cơ bản phải nắm vững và dừng luôn nên phải tìm ra những phương pháp nhớ đơn giản nhất và dể vận dụng. 2. Lục xung Tý, ngọ xung nhau, SỬU, mùi xung nhau, dần, thân xung nhau, mão, dậu xung nhau, thin, tuất xung nhau, tỵ, hợi xung nhau. Nhìn kỹ một tý, độc giả sẽ phát hiện được : sáu cặp địa chi tương xung này là sự đoi xung của các địa chi cách nhau bảy ngoi một của 12 địa chi. Người xưa giải thích số bảy này là số tận cùng của trời đất, là khí cực âm Lục xung chính là sự đối địch giữa các ngôi của 12 địa chi, cũng tức là sự tương khắc của ngũ hành. Tý - ngọ tương xung : vì quý thủy ẩn tàng trong tý, khắc đinh hỏa ẩn tàng trong ngọ. Kỷ thổ an tàng trong ngọ phản khắc lại quý thủy ẩn tàng trong tý, cho nên nói tý - ngọ tương xung. Sửu - mùi tương xung : vì kỷ thổ, đinh hỏa ẩn tàng trong mùi phản khắc lại quy thủy, tản kim ẩn tàng trong sửu, cho nên nói sửu - mùi tương xung. Dần - thân tương xung : vì giáp mộc ẩn tàng trong dần khắc mậu thổ ẩn tàng trong thân Canh kim ẩn tàng trong thân khác giáp mộc ẩn tàng trong dần, nhâm thủy trong thân kim khắc bính hỏa ẩn tàng trong dân, cho nên nói dần - thân tương xung. Mão - dậu tương xung : vì tân kim ẩn tàng trong dậu khắc ất mộc ẩn tàng trong mão, nhưng "đông xung tây mà không xung dược", tức là nói mão mộc chỉ có thể xung dậu kim chứ không thể khắc dậu kim. Thìn - tuất tương xung : vì quý thủy ẩn tàng trong thin khắc đinh hỏa ẩn tàng trong tuất, tân kim trong tuất phản khắc lại ất mộc trong thin, cho nên nói thin - tuất tương xung. Tỵ - hợi tương xung : và canh kim ẩn tàng trong tỵ khắc giáp mộc ẩn tàng trong hợi,- nhâm thủy trong hợi phản khắc lại bính hỏa trong tỵ, cho nên nói tỵ - hợi tương xung. Quẻ thượng và quẻ hạ cùng ngôi tương xung gọi là quẻ lục xung. Trong 64 quẻ, trừ tám quẻ thuần ra, còn có các quẻ : thiên lôi vô vọngvà lôi thiên dại tráng cộng tất câ 10 quẻ đều là quẻ lục xung. Các quẻ có lục hợp biến thành quẻ lục xung thì cho dù dụng thần vượng tướng cũng đều là nhữngquẻ ban đầu tốt về sau xấu. Nếu đoán cho mưu sự việc thì đó là việc có đấu mà A.F>đ. không có đuôi, nếu đoán cho bệnh tật thì bệnh mới mắc gặp quẻ xung sẽ khỏi, bệnh lâu ngày rjjẻ gập xung sẽ chết. Các quẻ gặp hợp xung đều có thể cân cứ vào lý lẽ trước tốt sau Xấu mà đoán. Trong dự đcán 6 hào, phàm kỵ thần, cừu thần thì nên xung, gặp việc xấu cũng nên y.ụng, việc tpt không nên xung. Dụng thần vượng tướng nếu gặp xung cũng không đến nổi bị phá; dụng thần hưu tù nếu gặp xung thì đã xấu càng thêm xấu. Các hào xung bao gồm các trường hợp : nguyệt phá, ám dộng, nhật phá, hào động hóa xung khác trớ lại, hào xung hào. Nguyệt phá : ví dụ như dụng thần hoặc hào thế là thin, nguyệt kiến là tuất. Am động : ví dụ như dụng thần hoặc hào thế là hào thin vượng tướng, còn địa chi của ngày là tuất. Nhật phá : ví dụ như dụng thần hoặc hào thế là hào thin thổ hưu tù, còn ngày là tuất. Hào động hóa xung khắc trở lại : ví dụ như hào đầu là thin thổ hóa thành tuất thổ khắc trở lại. Hào xung hào : ví dụ như dụng thần hoặc hào thế là thin thổ, hào ứng tuât thố phát động, xiên có thể xung thin thổ. (ở mục 4 dưới đây sẽ nói đến các trường hợp nguyệt phá và nhật phá v.v...). Ngọ Ngọ 455 Mức độ xung khắc đến đâu cần phải căn cứ vào sự cân bằng giữa 4 cái nhật thin, nguyệt kiến, hào động, hào thế mà dánh là tốt; khắc nhiều sinh ít là chó tuyệt dịa gặp được sinh, có khắc không có sinh thì hoàn toàn xấu. Trong thứ tự của 12 địa chi lục xưng cũng có quy luật sắp xếp nhất định. 3. Lục hại Tý, mùi tương hại, sửu, ngọ tương hại, dần, tỵ tương hại, mão, thin tương hại, thân, hợi tương hại, dậu, tuất tương hại. Trong Sách 'Khảo nguyên" giải thích sự tưong hại cùa các địa chi như sau : phàm bất cứ việc gì cũng tốt nhất là gặp họp, kỵ gặp xung. Tý hợp với sửu, bị mùi xung; SỬU bị xung, tý không còn gì để hợp cho nên gọi là tý, mùi tương hại. Sửu hợp với tý, còn ngọ xung, tý bị xung, SỬU không còn gì để hợp nên gọi là sửu, ngọ tương hại. Dần hợp với hợi, bị tỵ xung, hợi bị xung, dần không có để hợp nên gọi là dần, tỵ tương hại. Mão hợp với tuốt bị thin xung, tuất bị xung, mảo không có hợp nên gọi là mão, thin tương hại. Thìn hợp với dậu bị mão xung, dậu bị xung, thin không có hợp nên gọi là thin, mão tương hại. Tỵ hợp với thân bị dần xung, thân bị xung, tỵ không có hợp nên gọi là tỵ, dần tương hại. Ngọ hợp với mùi, bị SỬU xung, mùi bị xung, ngọ không có hợp, nên gọi ià ngọ, sửu tương hại. Thân hợp với tỵ bị hợi xung, tỵ bị xung, thân không có để hợp nên gọi là thân, hợi tương hại. Dậu hợp với thin bị tuất xung, thin bị xung, dậu không có dễ hợp nên gọi là dậu, tuất tương hại. Tuất hợp với mào bị dậu xung, măo bị xung, tuất không có để hợp, nên gọi là tuất, dậu tương hại. Hợi hợp với dần bị thân xung, dần bị xung, hợi không có dể hợp nên gọi là hợi, thân tương hại. Trong dự đoán, lục hại của dịa chi có thể nhắc nhở người được đoán phải đề phòng phát sinh rơi vào tình thế xấu. 456 4. Tam hợp cục Thân, tý, thin hợp thành thủy cục; Hợi, mão, mùi hợp thành mộc cục; Dần, ngo, tuất hợp thành hỏa cục; Tỵ, dậu, SỬU hợp thành kim cục; Tam hợp cục là lây ba cổỉ : sinh, vượng, mộ dể hợp thành cục. Thủy trường sinh ở thân, đế vượng ở tý, mộ ở thin, nên gọi thân, tý, thin hợp thành thủy cục. Mộc trường sinh ở hợi, đế vượng ở mão, mộ ở mùi, nên gọi hợi, mão, mùi hợp thành mộc cục. Hỏa trường sinh ở dần, đế vượng ở ngọ, mộ ở tuất, nên gọi dần, ngọ, tuất hợp thành hỏa cục. Kim trường sinh ở tỵ, đế vượng ở dậu, mộ ở sửu, nên gọi tỵ, dậu, sửu hợp thành kim cục. Hợp cục là chỉ trong quẻ có 1 hoặc 2 hào động (bao gồm cả ám động) hoặc hào dầu, hào ba động của quẻ nội hợp cục với các hào do nó động biến ra hoặc hợp cục với hào động 4, 6, hoặc hợp cục với các hào nó biến ra, hoặc hào dộng trong quẻ hợp cục với hào nó biên ra cùng với nhật thin, nguyệt kiến. Ví dụ : quẻ khôn có 1 hào động mà hợp cục. Đó là trong quẻ có 1 hào dộng mà hợp thành hợi, mão, mùi mộc cục. Quan quỷ mão mộc — thế động Phụ mẫu tỵ hỏa — Huynh đệ mùi thổ — Tử tôn dậu kim — ứng Thê tài hợi thủy — Huynh đệ sửu thổ — Ví dụ hào Huynh dệ mùi thổ của quẻ khôn động tức có hai hào động mà hợp thành cục. Đó gọi là hai hào động trong quẻ chờ dể hợp thành mộc cục hợi, mảo, mùi. Ví dụ quẻ ngoại của quẻ khôn không những có mão mộc, mùi thổ dộng mà măo mộc động hóa ra hợi thủy, hoặc mùi thổ động hóa ra hào hợi thủy. Đó là hào 4 và hào thượng của quẻ ngoại động, hợp với hào biến ra để thành mộc cục. Ví dụ : hào dầu sửu thổ và hào ba dậu kim của quẻ nội quẻ khôn động mà hóa ra tỵ hỏa, đó gọi là quẻ nội hợp thành kim cục tỵ, dậu, sửu. 457 Ví dụ : quẻ ngoại của quẻ khôn có mão mộc động và mùi thổ động, nhật thin hoặc nguyệt kiến là hợi thủy, đó gọi là hợp với nhật thin hoặc nguyệt kiến để thành mộc cục. Hợp cục cổ cát có hung. Hợp với hung thì thành hung, hợp với cát thì thành cát. Ví dụ đoán bệnh tật lấy quan quỷ làm dụng thần, dụng thần bị hợp ở trong cục là quỷ vượng, bệnh sẽ nặng và nguy hiểm. Dụng thần là việc kiện tụng, dụng thần bị hợp thì cuối càng là không có lợi. Nói chung dụng thần hoặc hào thế hoặc nguyên thần hợp thành cục là dã tốt càng thêm tốt. Kỵ thần, cừu thần hợp thành cục, đối với dụng thần mà nói là xấu càng thêm xấu. Đối với dụng thần hoặc hào thế, cục dược hợp thành sinh lợi cho thê hay sinh lợi dụng thần là lợi cho mình, cục được hợp thành sinh cho hào ứng là lợi đối phương. Hợp thành tài cục là tài vượng, hợp thành tử tôn cục là của cải tăng gấp bội, nhưng không có lợi cho cầu danh; cầu quan. Hợp thành quan cục là quan vượng, hợp thành huynh đệ cục là có nguy cơ của cải bị mất mát. Hợp thành phụ mẫu cục là lợi cho gia trạch tổ tông. Tóm lại là căn cứ vào nguyên lý sinh khắc của ngũ hành và lục thản để suy đoán ra cát hung của quẻ. Hợp cục của quẻ ứng vào sự việc có rất nhiều dạng : nếu hợp cục thiêu 1 chữ gọi là hư cục, chờ cho đến khi nó hợp với hào biến ra hoặc gặp nhật, nguyệt kiến thì mới trở thành hợp cục đầy đủ và mới ứng vào sự việc. Trong hợp cục có không, phá chờ cho đến ngày, tháng diền đầy thì mới thành cục và mới ứng vào sự việc. Trong cực có 1 hào nhật kho thì phải chờ đến ngày dược xung khai cục mới thành, việc mới ứng. Tam hợp cục theo thứ tự của các địa chi là cách 4 ngôi thì hợp thành cục. Cách nhớ trên hình bàn tay chỉ cần nhớ ngũ hành trường sinh của 4 góc là dược. Ví dụ : tý, ngọ, măo, dậu mỗi cái cách 4 ngôi đó là 4 chỗ đế vượng, thin, tuất, sửu, mùi là mộ kho của đế vượng. Đế vượng là tý, thin thổ tức là Hlnh tam hợp cục trên bàn tay cùa dịa chi m Q kh° caa thủy; đê vượng là 458 ngọ thì tuất thổ là mộ kho của hỏa; đế vượng là mão thì thổ là mộ kho của mộc; đế vượng là dậu thì sửu thồ là mộ kho của kim. Tam hợp cục... thân tý thin, hợi mão mùi, dần ngọ tuất, tỵ dậu sửu trong sinh, vượng, mộ kho của ngũ hành, chúng chính là : trường sinh, đế vượng và mộ kho. Cho nên cách nhớ chúng không khó lắm. Nếu dùng hình bàn tay thì nhớ chỗ của 4 trường sinh là nhớ dược tất cả. 5. Tam hình Tý hình mão, mão hình tý là hình do vô lễ. Dần hình tỵ, tỵ hình thân, thân hình tỵ là hình do vong ơn. Sửu hình tuất, tuất hình mùi, mùi hình sửu là hình do đặc quyền đặc thế. Thìn, ngọ, dậu, hợi : thin với thin, ngọ với ngọ, dậu với dậu, hợi với hợi là tự hình. Sách "Âm phù kinh" nổi : ân sinh ở hại, hại sinh ở ân, tam hình sinh ở tam hợp, diều dó củng giống như lục hại sinh ở lục hợp. Đối với người mà nói cũng giông như vợ chồng tương hợp. Theo đạo trời mà nói tam hình là số cực, tức tội ác đã đầy rẫy khắp nơi nên phải dẫn đến sự đổ sập. Thân, tý, thin tam hợp, thêm ba ngôi dần, mão, thin thì thán hình khắc dần, tý hình khắc mão, thin tự hinh thin. Dần, ngọ, tuất tam hợp, thêm ba ngôi tỵ, ngọ, mùi thì dần hình tỵ, ngọ tự hình ngọ, tuất hình mùi. Tỵ, dậu, sửu tam hợp thêm ba ngôi thân, dậu, tuất thì tỵ hình thân, dậu tự hình dậu, sửu hình tuất. Hợi, mão, mùi tam hợp thêm ba ngôi hợi, tý, sửu thì hợi tự hình hợi, mão hình tý, mùi hình sửu. Tương hình là chủ về hung, chủ về các việc như bị tổn hại, bệnh tật, lao tù. Nguyên tắc của tương hình giống như tam hợp cục. Chỗ khác nhau là ba tý có thể hình một mão, một mão có thể hình ba tý, còn hai mão không hình được một tý, hoặc một tý không hình dược hai mão. Ngoài ra, có trường hợp tham hợp vong hình, tham sinh vong hình đều là những trường hợp có cứu. 459 III. SINH, VƯỢNG, Mộ, KHO cùn NGŨ HftNH, KHÔNG VONG củfl LỤC GIÓP Mục này được đặt trước nhật thin và nguyệt kiến sẽ giúp dộc giả dễ dàng hiểu dược bốn thời vượng tướng, hưu tù có vai trò đối với nhật thin, nguyệt kiến, nhật phá và nguyệt phá như thế nào. Kết hợp với không vong của lục giáp để dự đoán về sự vượng, suy của các hào là diều rất cần thiết. 1. Sinh, vượng, mộ, kho của ngũ hành Vấn đề sinh, vượng, mộ, kho của ngũ hành trong mục 2 của tiết 3 khi bàn về vượng tướng, hưu tù của ngũ hành theo tượng quẻ đã nói đến. Nay sẽ bàn thêm về vai trò vượng, suy của nó trong sáu hào và sự khác biệt của nó so với dự đoán theo tượng quẻ. Một năm có 4 mùa. Mỗi mùa có 3 tháng : mạnh, trọng, quý hợp thành. Trong âm lịch tháng mạnh là tháng sinh sôi nẩy nồ của một quý, tháng trọng là tháng thịnh vượng, tháng quý là tháng di vào suy yếu, song hãy còn là tháng có dư khí. Ví dụ tháng giêng kiến dần, là thời tiết mạnh xuản, đúng là lúc cây côi đâm chồi nẩy lộc. Tháng hai kiên mão là thời tiết trọng xuân, đúng là lúc cây côi xum xuê. Tháng ba kiên thin, là thời tiêt quý xuân, khí mùa xuân sắp hết, mùa hạ sắp sang, cho nên gọi là tháng còn có dư khí của cây mùa xuân. Trong dự đoán theo bát quái, vượng tướng, hưu tù và sinh vượng, mộ tuyệt của ngữ hành không những dùng vào nguyệt kiến mà còn được dừng vào nhật thin. Trong tượng quẻ, thổ được hỏa sinh vượng vào mùa hạ; trong sáu hào, thổ thuộc bốn mùa, khi dần mộc hoặc mão mộc làm dụng thển, nếu gặp tháng dần, mão tức là lâm nguyệt kiến mà vượng, thin là dư khí của mộc mùa xuân. Khi tỵ hỏa hoặc ngọ hỏa làm dụng thần, gặp tháng tỵ, ngọ là lầm nguyệt kiến mà vượng, mùi là dư khí của hỏa mùa hạ. Khi thân kim hoặc dậu kim làm dụng thần gặp tháng thân, tháng dậu là lâm nguyệt kiến mà vượng, tuất là dư khí của kim mùa thu. Khi hợi thủy hoặc tý thủy làm dụng thần gập tháng hợi, tháng tý là lâm nguyệt kiến mà vượng, sửu là dư khí của thủy mùa dông. Nếu doán quẻ vào tháng thin, dụng thần hoặc hào thế là dần mão mộc, vì thin là dư khí của mộc cho nên dần, mão là vượng. Nếu không phải đoán quẻ vào tháng thin mà là vào tháng sửu hoặc tháng tuất thì đều là các tháng hưu tù, các hào dần, mảo, mộc sẻ không vượng lại gặp tháng mùi là mộ địa nên càng không có khí lực. Trong tượng quẻ, các quẻ kim, thủy, mộc gặp tháng thổ tức đều là đất hưu tù, tử tuyệt, quẻ gặp thin là mộ. Đối với đoán quẻ theo sáu hào cũng có mộ. Mộ nhiều là hung, vì vậy cho nên người ta gọi mộ là phần mộ, là nhà tù, bệnh viện hoặc dộng huyệt. 460 Thin là kho địa của thủy, tuất là kho địa của hỏa, sửu là kho địa của kim, mùi là kho dịa của mộc. Nếu dụng thần là hợi thủy hoặc hào tý thủy lại gặp tháng thin là lâm mộ kho của nguyệt kiến; dụng thần ỉà các hào dần mộc, mão mộc, gặp tháng mùi là lâm mộ kho của nguyệt kiến. Dụng thần là các hào tỵ hỏa, ngọ hỏa, gặp tháng tuất là lâm mộ kho cùa nguyệt kiến; dụng thần là các hào thân kim, dậu kim, gặp tháng sửu là lâm mộ kho của nguyệt kiến. Trừ hào thê' và dụng thẩn nhập mộ kho của tháng ra, sợ nhất là hào thế, dụng thần cùng với quan quỷ nhập mộ kho của nhật thin, hoặc nhập mộ động, hoặc động mà hóa mộ. Cùng cới quan quỷ nhập mộ tức là nói hào quan quỷ trì thế nhập nhật mộ. Ví dụ : đoán về bệnh tật hoặc các việc xấu, nếu quẻ gặp cùng quan quỷ nhập mộ thì sè biết ngay sự việc cát hay hung. Nếu là hào thế, dụng thần huu tù vô khí, bị khắc mà nhập mộ thì sẽ thấy ngay điều xấu. Nếu hào thế, dụng thần vượng tướng lại được sinh phù là sẽ thấy ngay diều tốt. Qua trình bày ở trên ta có thể thấy : ngũ hành của các dịa chi vượng ở cuối bôn mùa, và mộ kho ở thin, tuất, sửu, mùi. Tức là sự thịnh suy, tươi tốt hay khô héo, dược mất, tiến thoái dều là trật tự của bôn mùa và thuộc tính của ngũ hành quyết định, cũng như mùa xuân đi thì mùa hạ đên; mùa hạ đi thì mùa thu đến... Tức thể hiện quy luật dương đến cùng cực thì bắt đầu giáng xuống, âm dến cùng cực thì bắt đầu đi lên, như mặt trời có mọc có lặn, mặt trăng có dầy có khuyết, đó là lẽ của tròi đất. Trong xã hội loài người thì thế lực dã phát triển đến cao sẽ bắt đầu đi xuống, của cải tích tụ nhiều tất bắt đầu lưu tán, tuổi già tất phải suy dần, vui đến cực điểm thì bắt đầu có nỗi buồn lo, đó là thường tinh của nhân thế. Dưới dây lập bảng sinh, vượng, mộ, tuyệt của ngũ hành các địa chi và giới thiệu tóm tắt phương pháp nhớ dể dộc giả tham khảo : Sinh, vượng, mộ, tuyệt của ngũ hành là 12 giai đoạn phát triển của ngũ hành, chúng thuộc 12 ngôi địa chi. Hàm nghía của nó có thể hiểu như sau : 1. Trường sinh : là vạn vật phồi thai, manh nha như người lúc sơ sinh. 2. Mộc dục : là vạn vật mới sinh ra được tắm mình trong tự nhiên, như người sau khi sinh 3 ngày dược tắra rửa cho sạch sẽ. 3. Quan đới : là vạn vật đã phát triển như người ta lúc 20 tuổi, phải thêm áo khăn, mũ miện. 4. Lâm quan : là vạn vật dã trưởng thành, như người ta xuất sĩ làm quan. 5. Đế vượng ; là vạn vật đã thành thuộc như người ta tuổi trung niên tráng kiện, có thể lập công, trợ giúp đất nước. 6. Suy : vạn vật đã có mầm mống suy yếu như người ta đã qua tuổi cực thịnh. 461 7. Bệnh : vạn vật đã khốn đốn, như người ta suy nhược nhiều, bắt đầu có bệnh. 8. Tử : vạn vật chết như người ta khí đã tan hết, chỉ còn thể xác không hồn. 9. Mộ : vạn vật tàng ẩn trong kho, như người ta chôn trong mộ. 10. Tuyệt : vạn vật d trong dất, không còn hình hài, như người ta khí trước đã tuyệt đé hình thành khí sau. 11. Thai : đó là sự giao khí trong trời đất để hun đúc thành vật, bắt đầu hình thành khí, như người ta bắt dầu hình thành khí phôi thai trong cha mẹ. 12. Dưỡng : vạn vật bắt đầu hình thành trong đất như người ta bắt đầu hình thành thai trong mẹ. Cứ thế lại tiếp tục vòng trường sinh tuần hoàn trên. BẢNG : SINH, VƯỢNG, MỘ, TUYỆT CỦA NGŨ HÀNH CÁC ĐỊA CHI Bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông " hành Trạng thái Hỏa Kim Thủy Trường sinh Dán §§I2SJỒ Tỵ Thân Mộc dục Tỷ Măo Mão Ngọ Dậu Quan đới Sửu Thìn Thìn Mùi Tuất Lâm quan Dần Tỵ Tỵ Thân Hợi Đế vượng Mão Ngọ Ngọ Dậu Tý Suy Thìn Mủi 1 p Tuất Sửu Bệnh Tỵ Thân Hợi Dấn Tử Ngọ Dậu Dậu Tý Mão Mộ Mủi Tuất Tuất Sửu Thìn Tuyệt Thân Hợi Hợi Dấn Tỵ Thai Dậu Tý Tý Mão Ngọ Dưỡng Tuất Sửu Sửu Thìn Mùi Trong trường sinh đế vượng cùa ngũ hành, hỏa trường sinh ỏ dần, hỏa dược mộc sinh, quẻ là ly hỏa, nhờ dược tháng hay ngày dần, mão sinh mà vượng. Kim trường sinh ở tỵ, đó là mối quan hệ tương khắc, vì sao lại lâm trường sinh ? Nó mâu thuẫn với vượng tướng, hưu tù thì làm sao ? Trong dự đoán theo tượng quẻ và theo sáu hào, cả hai cái đại thể không mâu thuẫn nhau, chi khác nhau ồ chổ : các quẻ càn, đoài ngũ hành thuộc kim 462 và các hào thân, dậu ngù hành thuộc kim, khi gặp tháng tỵ hay ngày tỵ thì không thể hiểu một cách đơn giản. Khi đoán theo sáu hào, nếu dụng thần là hào thân kim lại doán sự việc vào tháng tý, căn cứ kim trường sinh ở thủy, tra bảng sinh, vượng, mộ, tuyệt của ngù hành ta thấy nếu kim tử ở tý tức hào thân kim rơi vào tử dịa hưu tù, như thế đủ biết tốt hay không tốt. Ví dụ : dụng thần là hào. thân kim và đoán sự việc vào thàng dậu, càn cứ kim trường sinh ở tỵ, tra bảng ta thây kim đế vượng ở dậu, tức hào dậu kim ở vượng địa như thế đủ rõ xấu hay không xấu. 2. Không vong của lục giáp Không vong của lục giáp là : trong tuần giáp tý, tuất và hợi không vong; tuần giáp tuất, thân và dậu không vong; tuần giáp ngọ, thin và tỵ không vong; tuần giáp thin, dần và mão không vong; tuần giáp dần, tý và sửu không vong. Qua bảng bên ta thấy rõ bảng 60 giáp tý gồm có sáu tuần, cứ 10 thiên can một tuần, tức là từ ngày giáp tý đến ngày quý dậu, các thiên can đây 1 tuần’ cho nên trong mười hai địa chi, tuất và hợi không có trong tuần đó, do dó tuất và hợi là không vong. Tuất và hợi trong tuần sau, tức tuần giáp tuất thì nó xuất hiện, từ ngày giáp tuất đến ngày quý mùi, thiên can lại đây 1 tuần, thân và dậu trong mười hai địa chi không rơi vào tuần đó nên gọi là không vong. Cứ lần lượt sắp xếp như thế mài cho đên dủ 60 giáp tý là đây một vòng. Mười hai địa chi trong sáu tuần giáp đều có không vong, nên gọi là lục giáp không vong. BẢNG : "KHÔNG VONG" CỦA LỤC GIÁP Ngũ can 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Không vong Tuần Giáp Ất Binh Định Mậu Kỷ Canh Tàn Nhâm Quỷ Tuất thứ nhất tý sửu dẩn mảo thin tỵ ngọ mùi thân dậu hợi Tuần Giáp Ất Bính Định Mậu Kỳ Canh Tàn Nhâm Quý Thân thứ hai tuất hợi tỷ sủu dán mão thin ty ngọ mùi dậu Tuấn Giáp Ất Bính Định Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quý Ngọ thủ ba thản dậu tuất hợi tý sửu dần mão thin tỵ mùi Tuấn Giáp Định Mậu Kỳ Canh Tân Nhâm Quý thứ tư ngọ dậu tuất hợi tỷ $ửu dẩn măo IU Tuấn Giáp Ất Bính Định Kỷ Canh Tân Nhảm Quý lĩẵis thứ nàm thin tỵ ngọ mùi dậu tu át hợi tý sủu 2 ESI Ất Kỷ Canh Nhâm Quý Tý H mão mùi thân tuất hợi sủu 463 Nếu đoán quẻ vào ngày ất sửu, ất sửu thuộc ngày thứ hai của tuân giáp tý, nhưng hào tuất hoặc hào hợi trong quẻ ở trong tuần giáp tý là không vong. Cho nên hào tuất hoặc hào hợi là hào không vong, nếu hào tuất trong que là người xuất hành hay là người mà mình muốn gặp, ngày đoán lại chính là can chi của ngày không vong trong tuần giáp tý. Gặp trường hợp như thê có thê đoán là người đó chưa đến ngay, mà phải chờ đến ngày giờ xuất không thì mới dêh. Chân không : vì việc cần đoán có cát, có hung, nếu hào không vong không dược nhật thin hay nguyệt kiến sinh vượng hoặc hào đó tù không dược trợ giúp thì gọi là chân không. Khi đoán việc nếu hào ^ ng J A ° i n f u ^ dụng thần thì ứng vào việc xấu, ngược lại nếu hào chân ^ ôn 5 gặ P nhật J' h ^ hoặc nguyệt kiến hoặc được nhật, nguyệt sinh trợ, hoặc là hào dộng tức là hao không vong vượng tướng thì khồng còn là chân không- nũra, giờ, ngay, tháng, nàm xuất khỏi không vong thì dụng thần xuất không sẽ gặp tốt. Ví dụ : chán không ứng vào việc hung : tuần giáp tý, tuất, hợi là không vong, ngày đinh mão tháng dần, doán việc cho mình gieo được quẻ huynh đệ tuất tho trì thế, ngày dinh mão gặp tuất hợi không vong, nay hào thế là không vong lại bị ngày mão khắc, tháng dần khắc (nếu ià s tháng thân dậu hoặc tháng hợi, tý đều là hưu tù), như thế gọi là chân không. Huynh đệ là thần kiếp tài, nếu hào huynh đệ không bị chế ngự thì hiện tại vẫn chưa có việc gì nhưng đến ngày, giờ, tháng, năm xuất không thì diều xấu sẽ ứng nghiệm. Ví dụ : chân không ứng vào việc cát : nếu việc cần đoán cổ hào tài trì thế, tuy là chân không, những không bị Ịdiắc lại có sinh thì đến ngày, già, tháng, năm xuất không sê ứng nghiệm diều tôt. Muốn nhớ tuần không vong không khỏ, ví dụ tuần giáp ngọ thì thin, tỵ là không vong. Chi cần biết dược hai ngói à phía truóc cùa tuần đó là được Khi đoán việc vào một ngày nào đó nhưng lại không biết ngày đó tuần nào thì có thể tính theo hình bàn tay. Dưới đây giới thiệu hình bàn tay để bất cứ lúc nào cũng có thể tìm dược hào không vong. Ví dụ : đoán vào ngày đinh tỵ, nếu không biết nó thuộc tuân nào, thì chỉ cần đặt đầu ngón cái tay trái vào ngôi ty, từ tỵ đêm ngược đên đinh : ngôi thin đọc là "bính", ngôi mão đọc là "ất", ngôi dần đọc là ' giáp'. Ngừng ở đó, hai ngôi tý, sửu d sau theo chiều ngược chiều kim dồng hô sẽ là hai ngôi không vong. Khi đã biết được tý sửu ỉà không vong thì tự nhiên cũng sẽ biết dinh tỵ thuộc can chi của ngày trong tuần giáp dần. 464 IV. NHỘT THÌN, NGUVệT KIỀN, Hào TĨNH, HỈÍO ĐỘNG, Hho BlấN 1. Nhật thin, nguyệt kiến 1) Nhật thin : trong dự đoán trong tượng quẻ nhật thin là lấy vượng tướng, hưu tù của ngủ hành dể quyết định vượng, suy của quẻ thượng và quẻ hạ. Trong dự đoán theo 6 hào nhật thin 'quyết định sự vượng, suy của mỗi hào. Sự vượng, suy dó là căn cứ theo sinh, vượng, mộ, tuyệt của ngũ hành đế dánh giá. Đối với dốì tượng dự đoán tức đụng thần mà nói, nhật thin và dụng thần tương sinh, tương hợp thì sự việc dự đoán sẽ vừa ý. Nhật thin khắc dụng thần thì sự việc dự đoán trắc trở, không thuận lợi. Ví dụ, ngày giáp tuất, tháng nào đó gieo quẻ, ngày tuất chính là nhật thin. Nguyên thần, dụng thần, kỵ thần, cừu thần trong nhật thin ở vào trạng thái như thế nào thì chính là sự vượng, suy của chúng cùng dã được quyết định. Như dụng thần là hào thin thổ, là lâm nhật thin mà vượng. Phàm ngũ hành thuộc thổ (thin, tuất, sửu, mùi) đều vượng. Nguyên thần là ngọ hỏa hoặc tỵ hỏa là hỏa ở dất hưu. Kỵ thần là dần, mão mộc là ở đất hưu. Cừu thần là hợi hoặc tý thủy là ở tử địa. Đó là lấy nhật thin làm chuẩn. Phàm sinh cho nhật thin, khắc nhật thin hoặc bị nhật thin khắc đều là ở đất huu tù, tử tuyệt, những hào đó không có lực. Neu dụng thần là hào thin thổ, nhật thin là ngọ hỏa thì dụng thần nhờ có nhật thin sinh mà vượng. Vì hào hỏa trong quẻ là nguyên thần, nguyên thần lâm nhật thin mà vượng để sinh dụng thần, cho nên dụng thần nhất định có lực. Kỵ thần là hào mộc, nhật thin là ngọ hỏa thì kỵ thần ở đất hưu. Cừu thần là hào thủy, nhật thin là ngọ hỏa nên cừu thần ở đất tù. Kỵ thần, cừu thần đều rơi vào hưu tù, không có lực để khắc dụng thần. Tóm lại phàm dụng thần lâm nhật thin hoặc được nhật thin sinh vượng là dụng thần có Lực, các thần khắc hại khác không có lực. Ngược lại thì dụng thần sẽ rơi vào hưu tù, tử tuyệt, không có lực nên bị khắc. 2) Nhật phá và ám động Nhật phá là chỉ dụng thần hoặc các hào khác hưu tù hoặc tuần không hoặc hào tĩnh lại tương xung với nhật thin. Sự tương xung đ6 lại đúng theo từng cặp địa chi như tý với ngọ, sửu với mùi, dần thân, mão dậu, thin tuất, tỵ hợi. Trong sáu hào, nếu hào nào đó cùng với nhật thin làm thành cặp đôi xung lại ơ hưu tù hoặc tuần không, hoặc hào tĩnh thì gọi là hhật phá. Ví dụ, tháng dậu, dụng thần là dần mộc gặp ngày mậu thân tức vừa hưu tù còn gặp tuần không, dần mộc và thân kim đối xung nhau, như thế gọi là nhật phá. Ám động : là chỉ hào tĩnh vượng tướng đối xung với nhật thin, đã xung thì động. Nhật phá là hưu tù gặp xung nhưng không dộng được, còn ám động 465 là gặp xung thì dộng. Khi đoán quẻ hào ám động gặp xung cũng coi như hào động. Ví dụ, tháng thân ngày mào, hào tĩnh là dậu kim, dậu kim lâm nguyệt kiến mà vượng, lại dối xung với mão, nên hào dậu kim này không còn là hào tĩnh nữa mà trở thành hào ám động. Thông thường khi đoán quẻ hào ám động ở trong quẻ chủ, còn d trong quẻ biến thì không cổ sự biên động nào. 3) Nguyệt kiến và nguyệt phá Nguyệt kiến tức là lệnh tháng. Trong dự đoán theo tượng quẻ ta đã biết gieo quẻ lấy tháng âm lịch là chuẩn, doán quẻ là lây lệnh tháng cua ngày đoán quẻ lam chuan. Ở đây cần nhấn mạnh rằng nguyệt kiến đối với đoán quẻ theo sáu hào và xác định độ chuẩn của thời gian ứng nghiệm có một vai trò quan trọng. Trong dự đoán theo sáu hào, sự vượng suy, mạnh yếu của dung thân và các hào khác không những dùng nhật thin làm tiêu chuẩn để đánh giá mà còn dùng lệnh tháng dể đánh giá. Hơn nữa so với nhật thin thì lệnh tháng còn là đề cương của hào nắm quyền sinh sát. Trong các hào, quan hệ tương quan giữa lệnh tháng và nhật thin thường là vừa thong nhất lại vừa mầu thuần. Điều này làm cho nhiều độc giả rất khó khăn rúc đoán quẻ. Dưới đây nói rõ mối quan hệ tương quan cơ bản nhât giữa lệnh tháng và nhật thin. Thứ nhất là : Hào gặp nguyệt kiến thì dù có bị nhật xung cũng không tan, gặp khắc cũng không bị tổn hại. Hào gặp nhật kiến nếu bị nguyệt xung cũng không bị phá, nguyệt khắc cũng không bị thương, gặp hào động, khắc không bị hại, gặp quay đầu lại khắc cũng không nguy hiểm. Hào gặp nguyệt kiến bị nhật thin xung, dáng lẽ bị tan nhưng thực tẽ không tan. Đó là vì nhật xung hào hưu tù tức là nhật phá nhưng nhờ được nguyệt kiến mà vượng nên là hào ám động, cho nên khồng bị tan, khong bi khắc. Hào gặp nhật kiến bị nguyệt kiến xung, đáng lẽ bị phá nhưng thực ra không bị phá. Đó là vì nguyệt kiến xung hào hưu tù gọi là nguyệt phá, nhưng hào đó nhờ nhật kiến mà sinh vượng cho nên thực tế bị phá mà có cứu. Nguyệt phá : Nguyệt kiến tương xung với hào gọi là phá. Tháng giêng kiến dần, hào thân gặp phải gọi là phá; tháng hai kiến mão, hào dậu gặp phải là phá; tháng ba kiến thin, hào tuất gặp phải là phá; tháng tư kiến tỵ, hào hợi gặp phải là phá; tháng 5 kiến ngọ, hào tý gặp phải là phá; tháng 6 kiến mùi, hào sửu gặp phải là phá; tháng 7 kiến thản, hào dan gặp phải là phá; tháng 8 kiến dậu, hào măo gặp phải là phá; tháng 9 kiến tuất, hào thin gặp phải là phá; tháng 10 kiến hợi, hào tỵ gặp phải là phá; tháng 11 kiến tý, hào ngọ gặp phải là phá; tháng 12 kiến SỬU, hào mùi gặp phải là phá. 466 Dụng thần lâm nguyệt phá thì trong tháng đó vừa không được sinh lại phải đề phòng bị hại. Nếu gặp nhật thin tương trợ thì cũng chỉ là có cứu. Tuy trước mắt dang bị phá nhưng ra khỏi tháng là hết phá. Nhật phá cũng tương tự, hôm nay bị phá ra khỏi tuần không là hết phá, hoặc nói cách khác gặp ngay hợp là hết phá. Chì khi hào đó tĩnh lại không có nhật thin hay hao đọng sinh trợ lại rơi vào tuần không hưu tù võ khí, còn gặp phải nguyệt kiến hoặc nhật thin hoặc hào động khắc hại thì nhất dịnh bị phá. Thứ hai là : nguyệt sinh nhật khắc thì phải xem sự xung khắc dó ra sao, ngoài ra còn phải xem có hào xung khắc dụng thần không, nếu có thì đá hại càng suy. Nhật sinh nguyệt khắc thì phải xem có hào động sinh phù dụng thần không. Nếu có thì càng vượng. 2. Hào tĩnh, hào động, hào biến Phương pháp dùng cỏ thi để gieo quẻ của Chu dịch dã dùng hơn 3.000 năm. Sau đó đến đời Đường mới giản hóa thành dùng 3 đồng tiền gieo quẻ. Gieo quẻ bằng đồng tiền, nếu có một đồng sấp là thiếu dương, hai dồng sấp là thiếu ám. Hào thiếu dương, thiếu ảm sẽ không biến nên gọi là hào tĩnh. Nếu có 3 đồng ngửa gọi là hào X là lão âm; có 3 đồng sấp là hào o là lão dương. Hào X và hào o đều có thể biến thành hào khác của quẻ biến. Các hào lão âm, lão dương này gọi là hào động. Hào động là cầu nôi của quẻ chủ và quẻ biếu. Khi gieo quẻ, quẻ có hào động gọi là quẻ chủ. Hào động này từ âm biến thành dương, từ dương biến thành ảm có cùng ngôi và cùng vối hào tĩnh làm thành qưẻ biến. Trong quẻ chủ có mấy hào động thì các hào tương ứng trong quẻ biên có từng ấy hào thay đổi. Cho nên, các hào biến ra được gọi là hào biến. Hào tĩnh, hào động, hào biến cấu tạo thành quẻ chủ và quẻ biến. Vậy quan hệ lực lượng giữa ba loại hào đó ra sao ? Nếu quẻ gieo được không có hào lảo âm, lão dương tức không có hào động, quẻ đó gọi là quẻ sáu hào tĩnh. Sáu hào đều tĩnh thì lâm nhật thin, nguyẹt kiến hoặc được nhật thin, nguyệt kiến sinh, hoặc được nhật thin, nguyệt kiến hợp mà trở thành hào có lực gọi là hào vượng. Hào vượng có thể sinh, có thể khắc những hào khác. Nêu dụng thần là hào vượng là việc tốt, ngược lại là xấu. Đó là quan hệ lực lượng giữa hào tĩnh với hào tĩnh. Ví dụ : ngày bính ngọ, tháng hạ gieo dược quẻ "Địa thủy sư’ 467 Phụ mẫu dậu kim — ứng Huynh dệ hợi thủy — Quan quỷ sửu thổ —■ Thé tài ngọ hỏa — thế Quan quỷ thin thổ - Tử tôn dần mộc — Khi dụng thản là quan quỷ sửu thể thê tài ngọ hòa là nguyên thần, nguyên thân được nhật, nguyệt kiến sinh vượn.g, dụng; thần đã lâm nhật zs Mèn lại cồnrđược nỊụyênthần sinh là hào "V****^*^? hay cầu quàn đều dề được. Nếu đoán việc khác lây hào tử tôn hoặc tóo phụ mảu làm dung thần thì đều bị nhật, nguyệt khắc làm xi hơi, rơi vào đất h tù cho nên bất lợi. Nếu trong què cỏ hào động thì hào dộng Bê chế phục: bất kỳ hào tĩnh nào cho dù hào tình dó vượng hay J*?ãg a** đãng nẽu hào tĩnh là hào có lực lại gặp nhật thin xung đế' t rà thành hào im động thì tính chất của nó cũng như hào dộng Hào ám động: và hào động cùing ngang lực nhau. Đó là mối quan hệ giữa h&ọ động và hào tĩnh hào động và động. Trong v° dụ trên hào dầu cua quẻ "Địa thụy sư" là động, tức; hào tầ tôn dln ‘hhftuv ndm ^ % vượng tưởng của hào tinh quan quỳ. Hào quan quỷ sữụ 'hồ ^y nắm lệnh có Ihể chế phục được thần kiếp tài huynh đệ, nhưng hàLO quan quỷ sửuthồ bị hào động khắc cho thương tổn nên không còn lực đê chế ngự thủy. Cho dù giữa hai hào dộng khắc nhau có một hào Ichiếm ưu thế nhung nó vẫn bi sự chế ngự của nhật thin và nguyệt kiẽh. Nếu như hàọ đõng bị hào động chiếm ưu thế hơn Utắc nhmĩg lâm dược idiật tUm nguyệt kiênHtoặc đửạc nhặt thin, nguyệt kiến sinh thỉ cuối cùng hào chiêm 1*1' ^ ẵ " khắc nổi hào dộng đó. Đó là mối quan hệ Ịực Ịự?ng giữa hào động vđi nhật thin và nguyệt kiến, là do nhật thin, nguyệt kiên quyêt định. Trong vi dụ trên, hào tử tôn dán mộc không những dộng mà hào quan quỳ sưu thổ cũng dộng. Trong quan hệ 1 rrH khõc gịíĩrr hai tuy bị dần mộc khác, lực lượng chiếm ưu thế, nhung sùru thỏ được nhật thin, nguyệt kiến sinh cho nên dầu mộc không khắc nổi sửu thô. Nếu hào biến cùa qaẻ biến có thể giúp đa dụng thần sự giúp đa cỏ ích là tốt, ngược lại là có hại. Đó cùng gọi là sự hóa sinh trỏ lại hoặc hóa khắc trở lại. Hoa sinh trở lại hoặc hóa khắc trờ lại cũng cú vai trò quyết dinh trong việc đoán cát hung cùa quẻ. Ví dụ : ngày mậu ngọ, tháng thân có người đoán về bặnh tật được què ••Cấu" của que Thiên sơn độn" (hào thế và hào ứng cùa quẻ biến khi đoán quẻ không cần tham khảo nên ở đây không ghi). 468 QUẺ CHỦ (ĐỘN) Phụ mầu tuất thổ - Huynh đệ thân kim - ứng Quan quỷ ngọ hỏa - Huynh đệ thân kim - Quan quỷ ngọ hỏa — thế, động Phụ mẫu thin thổ — QUẾ BIẾN (CẤU) Phụ mẫu tuất thổ - Huynh đệ thân kim - Quan quỷ ngọ hỏa - Huynh dệ dậu kim - Tử tôn hợi thủy - Phụ mầu sửu thổ — Hào quan quỷ trì thế là thân bất an, vượng động hóa thành hào tử tôn hợi thủy khắc trở lại cho nên bệnh càng xấu. Còn có một trường hợp, ví dụ hào quan quỷ không phải là hào thế, khi doán bệnh dụng thần là quan quỷ, động hóa khắc trở lại tức là khắc mất quỷ bên cạnh mình, cho nên ngược lại, lại là tốt. Phương pháp đoán quẻ phức tạp như trường hợp trên đây ta gặp rất nhiều. Đối với những người mới học, nếu chưa nắm vững các yếu lĩnh cơ bần để doán quẻ thì ngay một lúc không thể nào lĩnh hội ngay được. V. TIỄN THỔN, THOIÍI THỔN, PHI THỔN, PHỤC THỔN 1. Tiến thần, thoái thần Tiên than là chỉ hào động của quẻ và hào biến ra có cùng địa chi ngủ hành. Như dần hóa mão, tỵ hóa ngọ, thân hóa dậu, hợi hóa tý, sửu hóa thin, thin hóa mùi, mùi hóa tuất, tuất hóa sửu. Tiên thần đại biểu cho xu hướng phát triển thêm một bước mà gặp được cát thần là sự việc sẽ có tiên triển và kết quả. Gặp phải hung thần thì không lợi cho dụng thần hoặc hào thế. Căn cứ vào sự vượng suy của nó, tiến thần có 3 trường hợp dưới dây : 1) Hào dộng và hào hóa tiến là hào vượng tướng thì sẽ hóa vượng. Ví dụ : doán quẻ vào tháng dần, hào động của quẻ chủ là dần, hào biến hóa tiến của quẻ biến là mão, vì dần mộc trường sinh ồ tháng hợi, còn ồ tháng dần thì rơi vào dất lâm quan, mão ở tháng dần là đất vượng địa. Như thế gọi là hào vượng tướng hóa vượng. 2) Hào động và hào hóa tiến đều ở đất hưu tù, tuy là hóa tiến nhưng phải chờ đến lúc vượng tướng thì mới là hóa tiến chân chính. Ví dụ : tháng thân đoán quẻ, hào động là dần, hào hóa tiến là mão. Kim trường sinh ở tỵ, dần mão ở tháng thân là ở đất tuyệt, thai, tức là hưu tù, vì vậy phải chờ đến tháng mộc vượng, tức tháng 12 và tháng dần, mão thì hào dần, mảo mới lâm vượng và khi đó hào hóa tiến mới vượng. 469 3) Hào động, hào tiến trong đó có một hào gặp tuần không bị phá, tuy là hóa tiến, nhưng phải chờ đến lúc hào đó xuất không thì mới biến thành hóa tiên chân chính. Ví dụ hào động của quẻ chủ là dần mộc, hào biến là mão mộc, đoán việc vào ngày mậu thân. Trong tuần giáp thin, mậu thân gặp dần, mão là tuần không, đối với mậu thân mà nói, dần, mão là tuần không, dân phá thân gọi là bị tuần không phá, cho nên phải chờ đến mão xuat không thì mới dược. Thoát thon ĩ thoái thân ỉà chỉ hào động của quẻ chủ biến ra hào biến làm thành hào thoái có cùng ngũ hành của địa chi. Như mão hóa dần, ngọ hóa tỵ, dậu hóa thân, tý hóa hợi, thin hóa sửu, sửu hóa tuất, tuất hóa mùi, mùi hóa thin. Thoái thần là nói sự vật mà nó đại diện có sự tụt lùi hoăc xu thế di xuống. Phán đoán thoái thần ngược với tiến thần. Trong thoái thần, nếu cát thần hóa thoái thi cát thần bị xấu đi; hung thần hóa thoái thì hung thần không xấu nữa. Ví dụ : gặp hào thin thồ động hóa thành hào tuất thổ, lúc dó xem như hóa tiến, vì thực chất là đă cách ngôi mùi thổ hoặc sửu thồ nên sự hóa đó không còn là tiến hay lùi nừa mà là hóa xung. Nếu tuất thổ lâm nhật thin hoặc nguyệt thin thì không những là hóa xung mà còn là hóa phá. 2. Phi thẩn, phục thẩn Trong phần phôi trí lục thân đă từng nói đến lục thân của tám quẻ thuần là dầy đủ. Tuy nhiên nếu lục thân của một quẻ nào đó thuộc cung nào đó không đầy đủ thì khi chọn dụng thần sẽ không có. Do đó có thể tìm trong quẻ đâu của cung đó để mượn dụng thần. Ghi hào mượn đó bên cạnh hào cùng ngôi thiêu dụng thần. Dụng thần vay mượn này gọi là phục thần, còn hào của quẻ chủ thiếu dụng thần gọi là phi thần. Dụng thần hùn dụng là tốt, điều kiện của nó phải thỏa màn một trong 6 trường hợp sau : Dưới đây nêu ví dụ để nói rõ. PHONG THIÊN TIỂU súc Huynh đệ mão mộc - Tử tôn tỵ hỏa - Thê tài mùi thổ — ứng Quan quỷ dậu kim : Thê tài thin thổ - Huynh đệ dần mộc - Phụ mầu tý thủy - thế Ví dụ đoán về công danh, lấy hào quan quỷ làm dụng thần. Nhưng trong què tiểu súc không có hào quan quỷ, nên phải mượn dụng thần. Tiểu súc là quẻ thuộc cung Tôn. Ta có thể tìm ở hào thứ ba của quẻ đầu cung tín để mượn 470 hào quan quỷ dậu kim làm dụng thần. Ta viết quan quỷ dậu kim vào bên trái hào ba của quẻ chủ. Phục dưới hào thê tài thin thổ phi thần, nên hào quan quỷ dậu kim là phục thần. 1) Phục thần được Iihật thin, nguyệt thin sinh, ví dụ nhật thin hoặc nguyệt kiến là thổ, lúc đó phục thần dậu kim được thổ của nhật thin hoặc nguyệt kiến sinh nên phục thần hữu dụng. 2) Phục thần vượng tướng, ví dụ nhật thin hoặc nguyệt kiến là thổ hoặc kim. Ngoài ra phục thần hợp với nhật thin hoặc nguyệt kiến cũng gọi là vượng và hữu dụng. 3) Phục thần dược phi thần sinh, ví dự trong quẻ "Tiểu súc" thê tài thin thổ là phi thần, tài sinh quan là phi thần sinh phục thần. Như thế gọi là phục thần được phi thần sinh mà hừu dụng. 4) Phục thần được hào động sinh, ví dụ hào động là thé tài mùi thổ, thổ sinh kim. Như thế gọi là phục thần nhờ hào động mà có sức nên trở thành hừu dụng. 5) Phục thần được nhật thin, nguyệt kiến, hào dộng xung khắc phi thần, ví dụ phi thần không phải là thê tài thin thổ mà là tử tôn ngọ hỏa. Lúc đó nhật thin, hoặc nguyệt kiến, hoặc hào dộng là tý thủy. Rõ ràng là phi thần bị xung khắc. Phi thần bị xung khai, do đó phục thần dậu kim không bị phi thần ngọ hỏa khắc hại nữa nên trở thành hừu dụng. 6) Phi thần bị tuần không, phá, hưu tù, nhập kho, ví dụ phi thần là tử tôn ngọ hỏa gặp ngày bính tuất là vừa bị hưu tù khồng vong, lại nhập mộ kho, như thế là thực không, thực phá nên không có lực để khắc hại phục thần nữa, phục thần đương nhiên là hữu dựng. Phục thần vô dụng là không tốt. Dưới đây cử ví dụ về năm mặt để giải thích vấn đề, độc giả căn cứ lý luận như trẽn mà tự hiểu. 1) Phục thần hưu tù vô khí. 2) Phục thần bị nhật thin hoặc nguyệt kiến xung khắc. 3) Phục thần bị phi thần vượng tướng khắc hại. 4) Phục thần bị mộ tuyệt ở nhật thin hoặc nguyệt kiến hoặc phi thần. 5) Phục thần hư tù tuần không. Năm trường hợp trên phục thần đều là vô dụng, tức là dụng thần vừa không hiện trong quẻ lại vừa vô dụng, cho nên việc cần đoán không có hy vọng gì. 471 VI. THỔN vft SÓT THƯỜNG DÙNG CỦA sáu HAO Thần, sát là một cặp thần cát hung. Trong quẻ gặp được cát thần, thông thường là chỉ thiên ất quý nhản, tức là được quý nhân phù trợ. Trong quẻ có hung thần ác sát, tất nhiên là không tốt. Vì sát thần trong đoán quẻ ứng dụng không nhiều cho nên ở đây chỉ giới thiệu cát thần. 1. Thiên ất quý nhân Giáp, mậu đi với trâu, dê; Ât, kỷ đi với chuột, khỉ; Bính, đinh đi với lợn, gà; Nhâm, quý đi với thỏ, rắn; Canh, tân đi với hổ, ngựa; Đó là các quý nhân. Trong đự doán theo sáu hào giáp, mậu đi với trâu, dê là chỉ ngày giáp hoặc ngày mậu là thiên can dụng thần lâm sửu thổ hoặc mùi thổ hoặc nguyên thần để sinh trợ dụng thần, hoặc có trong hào biến, như thế đều gọi là quý nhân giúp đỡ. Nếu quẻ đã tốt thì càng tốt, nếu gặp hung cũng sẽ hóa thành tốt. Kỵ nhất là quý nhân gặp phải kỵ thần giúp dỡ đối phương để khắc lại dụng thần, nếu gặp phải như thế thì đã xấu càng xấu. 2. Mã tinh Thân, tý, thin : mã ở dần; dần, ngọ, tuất : mã ở thân; ngọ Tỵ, dậu, sửu : mã ở hợi; hợi, mão, mùi : mã ở tỵ. Mã tinh như là ngựa chủ về chạy khỏe, tượng về động. Trong dự đoán theo sáu hào mã tinh chủ yếu dùng để dự đoán sự động tĩnh của người đi xa. Nhất là ngày nay đất nước đang ind cửa, thầy Thiệu Vĩ Hoa đã dùng mã tinh để đoán cho những người ra nước ngoài dạy học, tham quan đă rdt được rát nhiều kinh nghiệm, đoán rất thành công. Thân, tý, thin : mă ở dần là nối khi đoán vào các ngày thân, tý, thin mà dụng thần 472 là dần, tức là quẻ có mã tinh. Nếu mâ tinh gặp hào dộng lại có lợi cho dụng thần thì mã tinh là tôt. Nhừng trường hợp khác cũng suy luận như thế. Cách nhớ là : chỉ cần nhớ trong thân, tý, thin hào đối xung của thân là dần, thì dần là mã tinh; trong dần, ngọ, tuất hào đối xung của dần là thân, thân là mã tinh; trong tỵ, dậu, sửu hào đối xung của tỵ là hợi, hợi là mấ tinh; trong hợi, mão, mùi, hào đối xung của hợi là tỵ, tỵ là mã tinh, về tam hợp cục của thân, tý, thin trước đây đã có giới thiệu, nay giới thiệu thêm hình bàn tay biểu thị mà tinh. 3. Đào hoa Dần, ngọ, tuất kiến mão; Tỵ, dậu, sửu kiến ngọ; Thân, tý, thin kiến dậu; Hợi, mão, mùi kiên tý. Trong dự đoán theo sáu hào, và tài vận. Dần, ngọ, tuất kiến mão là nói khi đoán việc nào các ngày dần hoặc ngọ, tuất nếu dụng thần là mão tài thì dụng thần gặp đào hoa. Boán khi nào có người yêu, khi dụng thần vượng thì đó là lúc có người yêu hoặc là lúc thành hôn. Nhừng trường hợp khác cũng tương tự. Cách nhớ là chỉ cần nhớ trong dần, ngọ, tuất ngôi sau dần là mão, tức là dào hoa. Trong tỵ, dậu, sửu, ngôi sau tỵ là ngọ, ngọ là đào hoa. Trong thân, tý, thin ngôi sau thân là dậu, tức dậu là đào hoa. Trong hợi, mão, mùi, ngôi sau hợi là tý, tức tý là đào hoa. Xera hình bàn tay. đào hoa chủ yếu dùng dể đoán hôn nhân Đào hoa Đào hoa Hlnh bàn tay tam hợp cục dào hoa. 4. Hoa cái Dần, ngọ, tuất kiến tuất; tỵ, dậu, sửu kiến sửu; thận, tý, thin kiến thin; hợi, mão, mùi kiến mùi. Sao Hoa cái trong dự đoán theo sáu hào thường dùng để chỉ người xuất gia. Nếu quẻ gặp hoa cái thì trong mười người phải có đến 8, 9 người xuất gia tu hành. 473 Dần, ngọ, tuất kiến tuất là nói đoán việc vào các ngày dần, ngọ, tuất, dụng thần có tuất, tức quẻ gặp sao Hoa cái. Những trường hợp khác cũng được hiểu tương tự. Cách nhớ là : trong dần, ngọ, tuất : tuất là cuối cùng, trong thân, tý, thin là thin... Hoa cái ngọ 474 chương 7 ĐOÁN HÀO Cưô'i đời Đường, đầu đời Tông tươn'g truyền có thầy Trần Chuyên giỏi về tướng thuật, là danh nhân thuật số trong lịch sử Trung Quốc. Cách đoán quẻ Hỏa Chư Lâm của ông đã nêu ra "căn cứ dể quyết định quẻ là lấy lục thân làm chủ . Ong chủ trương dùng sinh khắc hình hại, hợp mộ vượng không của ngũ hành để đoán quẻ. Lý luận đó là kế thừa lý luận của nhà dịch học Kinh Phòng. Nó đã đặt nền tảng vững chắc cho việc truyền bá đoán quẻ về sau này. Phương pháp dó cùng là tiền thân cho phương pháp đoán quẻ theo sáu hào hiện nay. Phương pháp của sách "Hỏa Chu Lâm" thiên về khảo sát mối quan hệ giữa các yếu tố hợp thành quẻ, nguyên tắc cơ bản của 11 Ó là căn cứ vào sinh, khác, chế, hóa của ngũ hành. Nói một cách khái quát là phương pháp đoán quẻ cúa sách Hỏa Chu Lâm là căn cứ vào sự xuât hiện của các nhân tô như dụng thần, nguyên thần, kỵ thần, tiến thần, thoái thân, phi thần, phục thần, hào động, hào biên ở trong quẻ, đồng thời khầo sát vị trí các ngôi và thời gian xuất hiện của chúng, cũng như môi quan hệ sinh phù tương hợp, hình xung khắc hại giữa chúng để xác định so sánh lực lượng giữa các yếu tố, lấy đó làm xu thế phát triển của sự việc cần đoán. Trong chương này chúng ta ngoài việc giới thiệu các kiến thức về sáu hào và quy luật dể nắm vừng và ghi nhớ chúng còn giới thiệu công dụng của chứng. Dưới đây sè quy nạp thành hệ thống hoàn chỉnh để tiện cho độc giả dễ hiểu. I. Clk ouv TÁC ĐOÁN QUẻ 1. Quy tắc xác định dụng thẩn Dụng thần là hào chủ sự, là nhân tố quan trọng nhất trong các nhân tố. Xác định không đúng dụng thần sẽ đoán quẻ không chính xác. 1) Dự doán cát hung thì lấy hào thế làm dụng thần, dụng thần là mình, hào ứng Ịà người khác. 2) Phàm đoán những vật hay người che chỏ cho mình đều lấy hào phụ mẫu làm dụng thần. 3) Phàm những vật hoặc người gò bó mình đều lấy quan quỷ làm dụng thần. 475 I 4) Những người cùng thế hệ với mình thì lấy hào huynh đệ làm dụng thần. 5) Đoán những vật hoặc nhừng người bị mình sai khiến bao gồm cả đoán cho .vợ và những người phụ nữ ngang vai vợ thì lấy hào thê tài làm dụng thần. 6) Đoán về con cháu, lấy hào tử tôn làm dụng thần. 7) Khi què xuất hiện hai dụng thần nói chung là chọn hào vượng tướng làm dụng thần, bỏ hào suy nhược hoặc không có lực. 2. Quy tắc xác định dụng thẩn không vong Khi việc cần đoán gặp không vong thì khó dược cứu. Nếu những việc cần tránh hoặc xấu gặp không vong thì tốt. Ngoài dụng thần không vong ra thì các hào khác gặp không vong đều có thể dùng được, lúc đó không thể đoán là khỏng có gì. Vì vậy quy định dụng thần gặp không vong gồm có các trường hợp sau : 1) Hào gặp hào tuần không lại bị nguyệt kiến xung. 2) Hào không vong là hào tĩnh. 3) Phục thần không vong lại còn bị khắc. Đối với hào đích thực là không vong quy định như sau : 1) Thổ của mùa xuản là chản không. 2) Kim của mùa hạ là chân không. 3) Mộc của mùa thu là chân không. 4) Hỏa của mùa đông là chân không. 5) Các tháng thin tuất sửu mùi thì thủy là chân không. 3. Điều kiện của sình khắc Giữa các ngủ hành đều có mối liên hệ tác dụng lẫn nhau. Tuy nhiên khi đoán quẻ không thể sử dụng hết các mối quan hệ giữa các ngũ hành, vì như thế sẽ tuần hoàn mãi và không phân biệt dược cái chính cói phụ, tức là không xác định dược đầu mối. Do đó khi đoán quẻ cần phải nắm vững các mối quan hệ chủ yếu và bỏ qua các mối quan hệ thứ yếu. Đối với nguyên thần sinh dụng, hoặc kỵ thần khắc dụng thần, củng như mối sinh khắc giừa các hào trong quẻ và sự sinh khắc của nhật thin, nguyệt kiên đểu là có diêu kiện. Cụ thể như sau : 1) Nguyệt kiến, nhật thin có thể sinh khắc các hào trong quẻ, còn các hào thì không thể sinh khắc nguyệt kiến, nhật thin. 476 2) Hào động có thể sinh khắc hào tĩnh, còn hào tĩnh thì không thể sinh khắc hào động. 3) Hào được biến ra trong quẻ biến có thể quay dầu sinh khắc hào động trong quẻ chu đã biến ra nó. Hào biến trong quẻ biến không thể sinh khắc các hào khác trong quẻ biến. 4) Hào vượng tướng có thể sinh khắc hào suy nhược, còn hào suy nhược không thể sinh khắc hào vượng tướng. 4. Lục hợp : Phải có đầy đủ các điều kiện sau : ơ phần trên đã nói, có lục hợp là tam hợp thành cục. Đầu tiên ta bàn về lục hợp. Nói chung quẻ được hợp thì mọi việc được bền vững, có đầu có đuôi. Nhưng cần phải chú ý : đôi với việc tốt nên gặp hợp, hợp thì sự việc dễ thành; đối với việc xấu không nên gặp hợp, gặp phải hợp việc càng khó giải quyết. Cho nên lục hợp phải có dầy đủ các điều kiện sau mới có thể phán doán là tốt hay xấư. 1) Nhật thin, nguyệt kiến có thể hợp với các hào trong quẻ. Khi nhật nguyệt hợp với hào tĩnh của quẻ gọi là sự hợp lại. Hào tĩnh bị hợp có nghĩa là vượng tướng. Khi nhật nguyệt hợp với hào động trong qué thì gọi là hợp chặt, nó khiến cho hào động không thể phát động để gây tác dụng. 2) Trong quẻ hào hợp với hào thì cả hai hào phải đều dộng. Nếu trong đó có một hào không động thì không thể gọi là hợp dược, cả hai hào đều tĩnh càng không thể thành hợp. Hai hào đều động để thành hợp thì gọi là sự hợp tốt, làm cho dựng thần càng vượng tướng, cỏ sức. 3) Hào do hào động hóa xuất ra có thể hợp với hào động dó, ví dụ hào sửu động hóa xuất thành hào tý, tý sửu tương hợp với nhau gọi là sự hóa xuất sinh phù, tức là hào hóa xuất sự tương phù. 4) Sáu quẻ trong hào, 3 hào quẻ nội hợp với 3 hào quẻ ngoại gọi là quẻ gặp lục hợp, cho dù các hào dó động hay tĩnh. 5) Quẻ lục xung biến thành quẻ lục hợp cho dù hào động hay hào tĩnh đều được cả. 6) Quẻ lục hợp biến thành lục hợp được gọi là hợp từ đầu đến cuối. 5. Điều kiện tam hợp thành cục Tam hợp thành cục có cát có hung, không thể chĩ nói một cách đại khái là trường hợp nào cũng tốt. Ví dụ đoán quẻ cầu mưu thì việc đang băn khoăn lo lắng nên hợp thành cục, như thế có nghĩa là sự việc được lâu dài bền bỉ. Nếu đoán về kiện tụng mà việc dương băn khoàn lo lắng lại hợp thành cục 47 ? thì sự việc sẽ rất khó khăn. Khi đoán công đanh hợp thành quan cục gọi là quan vượng; hợp thành tài cục thì có thể đoán sự việc được phát triển, dó đều là những điềm tốt. Nhưng nếu hợp thành tử tôn cục, vì tử tôn làm thương hại quan, nên sự việc sẽ không thành. II. BhN về SINH KHÁC ©lơn LỤC THỐN cóc HAo ĐỘNG Trong phần bàn về sự phối xếp lục thân, chúng ta đã có hiểu biết sơ bộ về quan hệ dối với lục thán. Trong phần bàn về nguyên thần, dụng thần, kỵ thần, cừu thần chúng ta cũng đã có nhận thức bước đầu. Nay bước sang phần đoán quẻ hào chúng ta phải kết hợp chúng lại đế dộc giả nắm vừng được toàn diện hơn và dễ thực hiện. 1. Sự sinh khắc của Igc thản Trong tiết này trước khi bàn về sự sinh khắc của hào động, để tiện đối chiếu, ta lấy lục thân làm dạng thần và tổng kết mối quan hệ của nó với nguyên thần, kỵ thần, cừu thần như sau : DỤNG THẨN NGUYÊN THAN KỴ THAN cừu thẩn Hào phụ mẫu Quan quỷ Thê tài Tử tôn Hào huynh đệ Phụ mẳu Quan quỷ Thê tài Hào tử tôn Huynh đệ Phụ mẫu Quan quỷ Hào thê tài Tử tôn Huynh đệ Phụ mẫu Hào quan quỷ Thê tài Tử tôn Huynh đệ Lục thân tương sinh ; Phụ mẫu- > Huynh đệ-> Tử tôn- > Thê tài -> Quan quỷ-» Phụ mẫu. Đó là mối quan hệ tương sinh tuần hoàn. Lục thân tương khắc : Phụ mẫu- > Tử tôn-> Quan quỷ-> Huynh đệ-» Thê tài-> Phụ mầu. Đó là mốỉ quan hệ tương khắc cách ngôi. Cái sinh ra dụng thần là nguyên thần, khắc dụng thần là kỵ thần, bị dụng thần khắc là cừu thần. 2. Sinh khắc của lục thân và hào động Quẻ có sáu hào lại phân ra hào dộng và hào tĩnh, có hào động ít có hào động nhiều. Trong các sách "Bốc phệ chính tôn - Túy Kim Phú" và "Chu dịch đự doốn học" đã bàn khá tỷ mỉ về sự có lợi và bất lợi, cũng như cát hung của hào động. Sau khi dọc phần đó chắc độc giả đã có khái niệm sơ bộ về cầt hung của các hào, đồng thời biết được mối quan hệ sinh khắc của lục 478 t ^ âl ỉ .’ỷ dây xin giới thiệu rÕ hơn mối qưan hệ sinh khắc giữa hào động với các hào ở những mức nặng nhẹ khác nhau như sau : T? động . si ^ tài ’ không " ên hị phụ mẫu kiềm chế". Hào tử tôn là phúc , thần , củ ? tài - Do đó hào tử tôn phát động là lợi lớn cho hào tài, cầu tài gặp được là đại cát. Hào phụ mầu là kỵ thần của hào tử ton. Cho nên khi hào tử tôn phát động thì hào phụ mẫu không nên động, vì động tất sè khắc hào tử tôn. "^ uynh độ . ng i ki rá c tài ’ tử đ Ô n ể có thể giải cứu". Hào huynh đệ là họa kịêp tài, cho nên khi hào huynh đệ phát động thì không lợi cho cầu tài, cầu hầ0 . h T h dệ và hà0 tử tôn dồng thờ * phát động thì hào .TL áệ ^ ng nhừng , kh . Òng kiế P tài khắc thê mà còn có lợi cho hào thê ?*«***« h “ ynk đệ đ png sinh tử tôn, tử tôn động sinh thê tài tức la hên tục tương sinh. Cho nên người ta nói thê tài mừng được hào huynh đệ và hào tử tôn đều động để tương sinh. . ,' TàÌ độn s sinh quỷ, kỵ nhất huynh đệ dộng". Hào tài là nguyên thần cua hào quan quỷ. Đoán cầu danh hoặc quan vận nên gặp hào thê tài phát. tì n i * mh , quan \ Hà ° huynh đệ là thần kiếp tài ’ là họa phá tài, cho nên khi hào tài động, thì hào huynh đệ tĩnh mới là tốt. " wí Ôĩl , kí ỉ ắC ? uan quỷ ’ nếu hà0 tài dộng thì có thể khắc phục được". H *° tô ” la ky ' lhần của quan quỷ. Do đó khi đoán cầu danh hoặc quan ^f n ’ nk f t ỉlà ° tử tÔn pkát dqng ‘ Nhưng nếu hai hào tử tôn và the tài đêu động thì tứ tôn động sinh tài, tài động lại sinh quan, tức là liên tục tương sinh. "Phụ động sinh huynh, kỵ nhất bị tài tương khắc". Hào phụ mẫu là nguyên thần của hào huynh đệ, hào tài là kỵ thần của hào phụ mau. Do đo hào phụ mâu phát động, hào tài cũng dộng thì nhờ tài dộng khắc phụ mầu nên phụ mầu không thể sinh trợ được hào huynh đệ. d P“ g huynh đệ, phụ mầu động có thể làm xì hơi". Hào quan Tl !. à kỵ th f n , của *? à0 huynh dệ * Khi đoán về việc anh em thì kỵ nhất là hào quan quỷ phát động. Còn nếu hào quan quỷ và phụ mẫu đều đọng thi nhờ có quỷ động sinh phụ, phụ dộng lại sinh huynh liên có lợi cho việc cua anh em. Quỷ động sinh phụ, kỵ nhất là xuất hiện hào tử tôn trùng lăp". Hào quan quỷ là nguyên thần của hào phụ mẫu. Đoán các việc về phụ mau hoăc v ^ĩ thị f' tốt nhất là gặp hào quan quỷ động để sinh trợ. Hào tử tôn là kỵ quan D ụ dó hà0 tử tôn phát động sẽ khắc Chế hào quan quỷ ll kh i Ô ! lg J íỉ lể ? in ? tT ? hằ0 phụ mẫu - Cho nên quăn quỷ động có thể sinh phụ mâu, lúc đó nên kỵ hào tử tôn phát động. " T , ài d f ng ^ phụ, quy động CÓ thê sinh tr( ? phụ"- Hào thê tài là kỵ thán của hào phụ mẫu. Tài động tất sè khắc phụ mầu. Nếu hào tài và quan 479 quỷ đều dộng, thì nhờ có tài sinh quan, quan sinh quỷ tức là mừng gặp được sự tương sinh liên tục. "Huynh động sinh tử, kỵ nhất là quan quỷ cũng dộng". Hào huynh đệ là nguyên thần của hào tử tôn. Cho nên huynh đệ dộng thì sẽ sinh tử tôn. Hào quan quỷ là kỵ thần của hào huynh đệ, cho nên khi hào huynh dệ động thì hào quan quỷ nên yên tĩnh là tốt. "Phụ động khắc tử, huynh đệ động không đáng ngại". Phụ mẫu là nguyên thần của hào huynh đệ. Khi nào phụ mẫu phát động thì hào huynh đệ cũng nẽn động. Vì phụ mẩu động sinh huynh đệ, huynh đệ động lại sinh tử tôn. Đó gọi là trong khắc có cứu nên không đáng ngại. 'Tử hưng khắc quỷ, phụ động sẽ kiềm chế; nếu huynh dệ dộng thì quan quỷ tất sẽ bị tổn thương'. Hào tử tôn là kỵ thần của hào quan quỷ, tử tôn phát dộng tâ't. sẽ khắc hại quan quỷ. Nhưng nếu được hào phụ mẫu cũng động thì sẽ chế ngự được hào tử tôn, nên hào quan quỷ không bị phương hại. Nếu cả ba hào : phụ mẫu, huynh đệ, tử tôn đều động thì quan quỷ tất nhiên sẽ bị khắc hại tổn thương. "Tài động khắc phụ, có huynh đệ động thì không đáng lo nữa. Nếu tử tôn cũng động thì khó mà bảo đảm được an toàn cho hào phụ mẫu". Hào thê tài là kỵ thần của hào phụ mầu. Hào tài phát động sẽ khắc hào phụ mầu. Nếu có hào huynh đệ phát dộng để kiềm chế hào thê tài là tốt nhất. Vì vậy mà nói : huynh đệ động khắc tài là phụ mẫu có cứu. Nếu trong quẻ cả 3 hào : thê tài, huynh đệ, tử tôn đều phát động ta sẽ có huynh đệ động sinh tử tôn, tử tôn động sinh thê tài. Hào tài dược sinh lại động khắc hào phụ mẫu, khi đó khó mà bảo đảm an toàn cho phụ mẫu. "Phụ động khắc tử, nêu có tài dộng thì vô sự; nếu hào quan quỷ hưng vượng thì hào tử tôn tất sẽ bị tổn thương ". Hào phụ mẫu là kỵ thần của tử tôn, hào tài là kỵ thần của phụ mẫu. Hào phụ mầu động, lại có cả hào tài động, nhờ hào tài động mà chế khắc phụ mầu, nên có thể cứu dược tử tôn. Quan quỷ là nguyên thần của phụ mẩu, là cầu thần của từ tôn. Cho nên quan quỷ vượng và phát động sẽ sinh hào phụ mầu. Phụ mẫu được sinh lại càng khắc tử tôn mạnh, nên tử tôn bị tổn thương khắc hại. "Quỷ hưng khắc huynh, nhờ tử tôn động để cứu; nếu thê tài xuất hiện trùng lặp thì hào huynh đệ không được lâu bền", Hào quan quỷ phát dộng sẽ khắc hào huynh đệ, lúc dó nếu hào tử tôn cũng động thì nó sẽ khắc hào quan quỷ, tức là trong khắc có cứu. Nếu cả ba hào tử tôn, thê tài, quan quỷ đều phát động, tức nhờ tử tôn dộng sinh tài, tài động sinh quỷ, quỷ nhờ được tài giúp dở nên hào huynh dệ tất sẽ bị khắc hại. "Huynh hưnj^khắc tài, nhờ có quỷ hưng thì không dáng lo nữa; nếu hào phụ mẫu hưng thì hào thê tài tất bị khắc hại" Huynh đệ hưng vượng sẽ khắc 480 thê tài. Nếu có hào quan quỷ hưng vượng để khắc chế hào huynh đệ thì hào thê tài bình an vô sự. Nhưng nếu cả ba hào quan quỷ, phụ mẫu, huynh đệ đều động, tức là quẻ động sinh phụ mẫu, phụ mẫu động sinh huynh đệ, huynh đệ được sinh vượng tất nhiên thê tài bị khắc hại. III. xtic ĐỊNH THỜI GIẠN ỨNG NGHIỆM 1. Thời gian ứng nghiệm của sự sinh khắc Sáu hào của quẻ phối với lục thân, lục thân lại có quan hệ với dụng thần. Hào thế là mình, hào ứng là người khác, dụng thần là việc cần đoán. Xác định thời gian ứng nghiệm của việc cần đoán chủ yếu lấy hào thế và dụng thần làm chủ, xem hào nào sinh cho hào thế và sinh cho dụng thần. Đối với việc là cát hay hung mà nói, hào thế và dụng thần nên được tương sinh, không nên bị khắc, dược tương sinh là tốt, bị khắc là xấu. Nguyên thần lâm trường sinh đế vượng để sinh hợp với hào thế hay dụng thần là phúc lộc dược bội tăng; kỵ thần lâm trường sinh đế vượng để khắc hào thế và dụng thần thì tai họa rất lớn. 2. Thời gian ứng nghiệm khi hào thế và dụng thẩn được sinh 1) Thời gian ứng nghiệm khi hào thê và dụng thân được sinh Phàm đoán các việc vui mừng, hào thế và dụng thần nên gặp nhật thin, nguyệt kiến, hào động và hóa sinh trở lại. Cách xác định thời gian ứng nghiệm của chúng như sau : - Khi dự đoán bệnh cho mình, nếu lấy hào thế sửu thổ làm dụng thần, hào tỵ, ngọ hỏa là nguyên thần thì thdi gian ứng nghiệm là lúc tỵ, ngọ hỏa sinh sửu thổ, lúc đó bệnh sè khỏi. - Nếu nguyên thần tỵ, ngọ hỏa không xuất hiện thì phải chờ đến lúc xuất hiện mới ứng nghiệm. - Nếu nguyên thần tỵ, ngọ hỏa là hào tĩnh thì phải chờ sau híc gặp lại tỵ, ngọ hỏa mới ứng nghiệm. - Nếu nguyên thần tỵ, ngọ hỏa bị hào hợi thủy khắc thì phải chờ xung mất hào hợi thủy, hoặc lúc hợi, tý thủy nhập kho, đó là lúc bệnh khồi. - Nếu tỵ, ngọ hỏa là tuần không nguyệt phá thì phải chờ lúc xuất không gặp hợp, bệnh mới khỏi. - Nếu tỵ, ngọ hỏa tham hợp quên sinh thì phải chờ đến lúc gặp xung, bệnh mới khỏi. - Nếu tỵ, ngọ hôa nhập hóa kho mộ thì phải chờ đến lúc xung mất kho, thời gian mới ứng nghiệm. 481 2) Thời gian ứng nghiệm của hào thế bị khấc và dụng thần bị khắc: Đoán cát hưng, hào thế và dụng thần bị khắc là xấu. Nhưng không thể nhất loạt cho rằng cứ hào thế, dụng thần bị khắc đều là xấu, mà muốn biết xấu hay tốt thì phải xem việc cần đoán là gì. Ví dụ đoán người di xa khi nào trở về thì phải xem "dụng thần khắc hào thế là người sẽ về". Đó là một kinh nghiệm rất quý báu. Trường hợp dụng thần không khắc hào thế, là người chưa quay về. Nếu đoán về việc kiện tụng, lấy hào quan quỷ làm dụng thần. Quan quỷ là người ta khắc mành, nếu dụng thần quan quỷ bị khắc, thì không những không xâu mà ngược lại là tốt. Cái khắc hào thế, dụng thần là kỵ thần. Hào thế, dụng thần là mộc thì kỵ thần tất phải là kim của thân dậu. Cho nên đúng lúc thân dậu xuất hiện tất sẽ ứng nghiệm phát sinh điều xấu. Ví dụ đoán về bệnh tật, hào thế là mão mộc, thân kim là kỵ thần thì tất nhiên khi lám ngày, tháng thân, dậu thì sẽ bị khắc. Nếu thân, dậu là kỵ thần được cừu thần ngày, tháng, hào động sinh, như thế gọi là lúc ứng nghiệm bị khắc. Nếu kỵ thần hóa trường sinh hoặc lúc lâm trường sinh thì việc bị khắc cũng sẽ ứng nghiệm. Nếu kỵ thần hóa dậu kim, thì khi gập dậu kim chính là lúc bị khắc. Kỵ thần hóa kỵ xung, dậu kim động hóa thành thân, thì lúc gặp dần xung động là lúc ứng nghiệm, hoặc thán xung cùng là lúc ứng nghiệm. Tóm lại, doán việc xấu kỵ thần nên gặp kho, nhập kho, hóa kho hoặc lâm vào đát hưu tù tử tuyệt, hoặc hóa thoái, hóa tuyệt, hóa tử, hóa hợp là tốt nhất. 3. Thời gian ứng nghiệm của tuần không Tuần không có cát có hung. Phàm đoán cát hung, gặp trường hợp hào thế, dụng thần là tuần không, thì đến năm, tháng, ngày giờ xuất không sự việc sẽ ứng nghiệm. Nếu là việc xấu, đúng năm, tháng, ngày, giờ xuất không tai họa sẽ đến. Ví dụ đoán cầu tài ở trong tuần giáp thin, được hào dần, mão mộc tài là dụng thần, tất phải chờ đến ngày xuất không thì mới được của; nếu đoán bệnh tật, dần, mão là kỵ thần, chờ đến lúc dần, mào xuất không thì tai họa sẽ đến. Dụng thân tuần không phát động thì phải chờ ra khỏi tuần trực nhật thì sự việc sẽ ứng nghiệm. Dụng thần động mà gặp không, hóa không thì phải chờ đến lúc xuất không sự việc sẽ ứng cát hoặc hung. Dụng thần tuần không lại gặp hợp thì phải chờ đến lúc xung khai cát hung mới ứng nghiệm. Dụng thần tuần không mà gặp khắc thì phải chờ đến lúc xuất không hoặc chế sát được thì sự việc mới ứng nghiệm. Dụng thần tuần không mà nhập kho thì phải chờ đến lúc xung mất kho mới ứng nghiệm. 4. Thời gian ứng nghiệm của gặp hợp Khi gặp hợp thì phải phân biệt tam hợp với lục hợp. Phàm đoán việc vui mừng, gặp tam hợp hay lục hợp là tốt. Phàm đoán việc lo lắng không 482 may, xuất hành, người đi xa thì không nên gặp hợp. Đoán điều lo mà gặp hợp thì khó giải, khó kết quả. Đối với người xuất hành hoặc đi xa nếu gặp hợp là bị trói chặt, không động được, hoặc muốn trở về nhưng còn bị ràng buộc. Tam hợp, lục hợp mà sinh hay hợp cho hào thế, cho dụng thần là tốt, nếu xung khắc hào thế hay dụng thần là xấu. Nguyên thần, dụng thần nhập cục là tốt; kỵ thần, cừu thần nhập cục là xấu. Cho nên nói tam hợp, lục hợp có cát có hung. Tam hợp, ví dụ thân, tý, thin hợp thành thủy cục. Khi dự đoán nếu quẻ trong ngày dó mà dụng thần động đé thành tam hợp cục, hoặc lâm nguyệt kiến, nhật thin để thành tam hợp cục, thì sự cát hung sẽ ứng nghiệm ngay trong ngày đó. Nếu tam hợp cục có một hào bị phá thì phải chờ đèn lúc hào đó gặp hợp, cát hung mới ứng nghiệm. Nếu hào tĩnh gặp tuần không hoặc bào động hóa không thì phải chờ đến lúc xuất không cát hung mới ứng nghiệm. Ví dụ một hào tình, 2 hào động thì phải chở hào tĩnh lâm nhật thin hoặc nguyệt kiến cát hung mới ứng nghiệm. Nếu hào tuần không gập hợp, hào tình mà gặp hợp thì phải chờ đến lúc xung khai sự việc mới ứng nghiệm. Có tam hợp tự hợp, mộ và nhật, nguyệt hợp thì phải chờ đến lúc xung khai sự hợp dó thì việc mới ứng nghiệm. Nếu nhập kho hoặc động mà kho thì phải chờ đến lúc xung khai khỏi kho sự việc mơi ứng nghiệm. Nếu hóa tuyệt hoặc có một hào rơi vào tuyệt thì phải chờ đến lúc sinh vượng, sự việc mới ứng nghiệm. Chủ ý : Hào thế và dụng thần ồ trong cục hoặc cục sinh hợp với hào thế; dụng thần là tốt. Cục khắc hào thế, dụng thần là xấu. Lục hợp đại loại như tý hợp với sửu. Ví dụ dụng thần lâm mão mộc phát động, sau đó lúc gặp mão tuất là lúc sự việc ứng nghiệm. 5. Thời gian ứng nghiệm của gặp xung Xung ở đây là chỉ lục xung, lục xung có điều tốt, có diều kiêng kỵ. Phàm đoán việc vui thì không nên gặp xung, xung tất sẽ làm tan vỡ. Phàm đoán việc kiện tụng, lo buồn thì nên gặp xung, xung thì sẽ tiêu tan do đó là tốt. Đoán bệnh tật nếu mới mắc bệnh mà gặp xung thì sẽ khỏi; mắc bệnh lâu gặp xung sẽ chết. Dụng thần gặp xung, lúc gặp trở lại hợp việc sẽ ứng nghiệm. Dụng thần bị xung tuần không, lúc xuất không sự việc sẽ ứng nghiệm. Ví dụ ; dụng thần là dần bất động, sau lại gặp ngày, tháng dần, thản chính là lúc sự việc ứng nghiệm. 6. Thời gian ứng nghiệm của tam hình Tam hình chủ về các việc xấu, tai họa. Quẻ gặp phải thì họa không nhỏ. Tam hình có loại hai hào tương hình nhau, có loại 3 hào tương hình nhau. 483 1 Ví dụ : dần hình ty, t x hình thân, thân lùnh tỷ, Đó gọi là hai hào hình nhau Nếu trong quẻ 00, dản tỵ, thân hình 3 mò, 3 mao ihnh 1 tý gọi là ba hào tưưng hình nhau Hào thế, dụng thần gặp hình thi dúng ngày tháng trực nhật *âư sê í£ Si£Ị£ h^Lo Tmt hào httts hào da sinh vưọng thì việc Xấu sẽ ứng nghiệm. IV. HỌC Dự ĐOÓN vft cóc ví DỤ cụ THể Trong dư đoán theo sáu hào, đối vđi những “| uòi “?ị^ để dự đoán khỏi lúng túng. Bước 1: 1 . Xem sự vượng suy, sinh khắc của dụng thần. Trong 1 quẻ ngoài việc đoán cát hung theo hào thế và hào ư„g dó là Z đoan Cho nhang vl ệ c cd liên ZZZT2 vượng, không nén tuân không không nên b, kMng phh , hât nguyệt ở vượng địa hoặc được nhật nguyệt sinh không^nên bị nhật nguyệt xung khắc; nên được hào dộng sinh, không nên bị liuHSiSri smh trợ, hoặc dụng thần lâm nhật, nguyệt kiến. 2. Hoặc xem sự vượng suy, sinh khắc của hào thế và hào ứng ềẵễẵmễềẽ AQA sinh vượng, nên được hào ứng sinh, kỵ nhất là hào thế rơi vào tử mộ bị khắc hại. Hào ứng như là dối phương hay sự việc cần đoán. Hào ứng vượng dể sinh hào thế là tốt, vượng mà khắc hào thế là rất xấu. Hào thế khắc hào ứng là lợi cho mình, hào ứng khắc hào thế là lợi cho đối phương. Hai hào thế, ứng ngang hòa thi việc gì cũng có thể thành công. Hào thê tuần không là mình không có thực lực, hào ứng tuần không là đối phương không thành thật. Hào thế dộng là mình biến đổi, hào ứng động là đối phương biến đổi, biến thành tốt hay thành xấu thi phải xem ngũ hành sinh khắc có lợi cho ai. 3. Hoặc xem sự vượng suy, sinh khắc của phi thần, phục thần. KHÍ quẻ không có dụng thần, phải mượn dụng thần trong quẻ đầu của cung đó. Dụng thần mượn gọi là phục thần, hào cùng ngôi trong quẻ chủ ở bên cạnh phục thần gọi là phi thần. Phục thần khắc phi thần thì sự việc xuất hiện nhanh, (sự việc xấu mà đến nhanh); phi thần khắc phục thần là bản thân bị tổn hại. Phục thần sinh phi thần là mình bị xì hơi, phi thần sinh phục thần là mình dược trường sinh. Phục thần khắc phi thần là bình an vô sự, phi thần làm hại phục thần là không yên ổn. Tóm lại : phục thần nên vượng không nên suy, nên được phi thần sinh, không nên bị phi thần khắc. Bước 2 : Xem dụng thần có bị tuần không hay không. Trong quẻ có lúc không những hào thế, hào ứng bị tuần không mà dụng thần cũng có thể bị tuần không. Tuần không mà vượng thì không phải là tuần không. Động cũng không phải là tuần không, hoặc dược nhật thin, nguyệt kiến sinh trợ, được hào động hóa không, phục thần vượng tướng, hoặc đến ngày xuất không thì dều không còn là tuần không nữa. Tuần không là : bị nhật phá, bị hưu tù vô động, phục thần bị khắc, bị chân không. Chân không tức là : hào thổ của mùa xuân, hào kim của mùa hạ, hào mộc của mùa thu, hào hỏa của mùa đông. Dụng thần, nguyên thần không nên tuần không; kỵ thần, cầu thần tuần không là tốt nhất. t Bước 3 : Xem nguyên thần. Sau khi lập được 6 hào, muốn biết việc sẽ tốt hay xấu, thành hay bại thì còn phải xem sự vượng suy của nguyên thần và nguyên thần phát động hay không. Nguyên thần nêm vượng khống nên suy, nên động không nên tĩnh, nên gặp nhật thin, nguyệt kiến, không nên bị tuần không phá hại. Nếu nguyên thần sinh vượng và phát động dể sinh trợ dụng thần thì mọi việc dều rất tốt. 485 Bước 4 : Xem kỵ thần. Kỵ thần là cái khắc chế dụng thần. Do đỏ kỵ ph f; tử mộ tuyệt không xiên sình vữạng, nên tinh không nên động, nên bị khắc chế không nên bị sinh phù. Bước 5 : Xem nhật thin. Nhặt thin tức là lênh ngày, tức nhật kiến. NhậỊ.thin không nhang là tiêu chí cụ thể của sinh vượng tử tuyệt cùa sáu hào, mà còn là căn cứ qu trọng để dự đoán sự thành bại của sự việc. Trong què, dụng thần vượng lại dược nhật kiến thì càng vượng d V ng tha“n g z TI z kiến Zh thl như cây khô <h*c«p hung hóa cát. Nguyên thần đuọc nhật lệnh sinh để sinh trọ dụng thản thi vạn sự như ý. x Dụng thần bị nhật lệnh xung khắc hình hạ.làxâu. Nếu dụng thần dưạc nguyẹt kfên vượng tlg tw r vô sự, t*u ị 0« *â» •^* £ 5 như dã tuyết lại còn thêm suông tuyết, dã xấu lạ càng xỉu thím. Tỏm lại, hào tuy r g nhưng nhậTkièn có thể khắc r u .^, hình hạb Hào vugmg tưáug gàp nguyệt “ung không pha, nhặt khắc“khõng bị thưong gặp hào dộngUiá cãng khong bị hại, gặp hào hóa khắctrả lại cũng không dến nôi xấu. Tác dụng của nguyệt kiến cùng giống như nhật kiến. Bước 6 : Xem sự động, tĩnh của sáu hào. Ngoài môi quan hệ sinh khắc của các hào dộng dã bàn tất ca 6 hào đeu tĩnh thì phai xem nhật thin Nêu nhẶt tM " k h ^° • c hí Ịng thần thỉ coíìg ù*> íng. Nếu duọc nguyên thần lảm nhật thin dể sinh trợ dụng thần là tốt. . Sau hào díu động là loạn dộng có nghía 16 viỊc sẽ lặp di Ịặl.lại. w>6ng rõ. không thuận Nêu dụng thản vượng tữdug lại được nguyên thần sính trự SS" n^ỵT^h Su dộng dể sinh tV là tạ Ngưọc lại dụng than dã suy lại còn bị khắc ìà xâu. Bước 7 : Xem lục hợp và tam hợp cục. Nếu cùng dụng thần dế hạp thành cục lặ rắt tết. Hợp thành nguyên thần cuc de có thể sinh trạ dụng thần là tốt. Ky nhất l ă tùng với J a hạp thành cục dể khắc dụxxg thân hoặc khâc hào thế vì như thế là xấu Dưđi đây sẽ phân tích một số ví dụ cụ thể, bao gồm cả, sự dự đoán tổng hon theo tưầng que dê bạn dộc tham khảo. Trong độ có cặ những ví dụ trước ^doĩn l chưa w-t đưưc dụng thần, dể - ^ sự khó. khàn khi phãi ^ọn dụng thán, dồng thài đó cậng ìr^tntóng ^ thực tế. Cho nên chúng ta vừa doán vừa suy luận, dê qua ó ê ê ọ so điểm cần chú ý trong dự đoán. *oc 1. Chọn phương pháp lập quẻ Để đoán quẻ, phần nhiều dùng hai hình thức : lập quẻ theo thời gian và lập quê theo gieo đồng tiền. Phương pháp lập quẻ theo thời gian tiện lợi ở chổ khi trong người không sẵn có 3 đồng tiền, hoặc lúc gặp việc vội vàng cần đoán ngay sự cát hung qua tượng quẻ. Lúc đó chỉ cần biết ngày tháng âm lịch là có thể lập được quẻ dễ dàng. Nói chung phương pháp gieo đồng tiền để lập quẻ, có khi hào dộng nhiều hoặc ít. Đối với những người trình độ phán đoán còn có hạn, yếu lĩnh còn non thì khó đoán được chuẩn. Cho nên đôi với người mới học dùng phương pháp lập quẻ theo thời gian là thích hợp nhất. Có lúc vừa nhận được tin nhưng dương sự lại không có mặt ở đó để gieo quẻ, mà lại muôn biết ngay việc đó đại thể tốt hay xấu thì dùng phương pháp lập quẻ theo thời gian, kết quả doán sẽ khá chính xác. Lập quẻ theo thời gian có thể căn cứ vào thời gian nhận được thông tin hoặc thời gian sự việc phát sinh. Ví đụ, mất nhẫn có mặt đá quý có thể tim lại được không, ở đây là trường hợp như thế. Ngày 6 tháng 12 âm lịch năm 1992 tôi nhận được một cú điện thoại đường dài của một người bạn gái họ Vương từ đảo Hải Nam gọi tới. Cô ấy bảo vì không cẩn thận nên đánh mất chiếc nhẫn có mặt đá quý trong nhà ăn khách sạn, hòi có khả năng tìm lại được không. Lập quẻ được quẻ "Tổn" của quẻ "Khuê". Giờ canh ngọ, ugày kỷ mão, tháng quý sửu, năm nhâm thân. HỎA TRẠCH KHUÊ Phụ mẫu tỵ hỏa - Thé tài tý thủy : Huynh đệ mùi thổ — Tử tôn dậu kim - thế, động Huynh đệ sửu thổ — Quan quỷ mão mộc - Phụ mẫu tỵ hỏa - ứng LỤC THẦN Câu trần Chu tước Thanh long Huyền vũ Bạch hổ Phi xà VI nhẫn quý là hào thê tài, dụng thần không hiện trong quẻ nên không xem quẻ biến, mà mượn phục thần ò cung gốc của quẻ chủ. Hào thê tài tý thủy phục dưới hào huynh đệ mùi thổ. Trước hết hào tài không hiện trong quẻ dã là điều không hay, nguyên nhân tử tôn dậu kim lại bị nhật phá, tuy nhiên hào đó động nên không còn bị phá nữa. Nhưng dậu kim lại rơi vào hưu tù, còn gặp tuần không nên không có lực để sinh trợ phục thần, còn kỵ thần huynh đệ mùi thổ là phi thần, đúng vào giờ ngọ là lúc hào thê tài tý thủy gặp xung, nhưng ngược lại là lúc hào huynh đệ mùi thổ nhờ hợp mà vượng. Đó lại là hào 5 là đường đi nên có thể đoán như sau : nhẫn mất vào 48 giờ ngọ ở trên lối đi của nhà ăn, tức bị người khác nhạt mất, là tượng khó tlm lại dược. Nếu xem tượng quẻ ta còn biết được : quẻ thượng là quẻ ly ỉà quẻ dụng, h f N Ị à q “ ẻ doàí là quẻ thể ’ hỏa khắc kim tức dụng khắc thể, nên chắc chân là bị tổn hao. ha ' IIBày f au ’ ngườ ‘ bạn đó . bá ° ^ vât dáng giá trị trên nghìn dồng, nhưng không tim lại được. Lúc quay lại tìm thì có người nói : nhìn thấy có kẻ nhặt được trên lôi đi. ' _ “ ày ph ỉ , thần khắc phục thần, hào thê tài lại không hiện trên quẻ, *“ đề “ là không tốt. Tuy nhiên về mặt tượng quẻ là vượng tướng nê n ?__ ể ^ ! ại đượ i c ’ nhưnẽ vì ngu y ẻu thần gặp nhật phá lại hưu tù không vong nên không thể ngay ngày giờ đó tìm được. Hào tý thủy lại gặp ngo T! ng ’ lír m f l . vừa dúng hào huynh đệ kiếp tài nên chắc chắn là khó tìm lai dược Như thế dại thể là quẻ tổn tài, lại khó tìm được, cho nên dù hào thê tài vượng thì sự vượng dó cũng chỉ là biểu thị vật bị mất có giá trị cao mầ thỏi Còn quẻ trước xung sau hợp hay trước hợp sau xung muôn biết vật mất ™ t ì™ ìạ ì dượ< \ h f y khỒng CÒn . cẩn kết h ?p VỚ1 xem lục thân để phán đoán. ỵỉ .7 ụ \ý 0ắn t về , hô f ? nhân ' tình y ẻu thì trước hợp sau xung là quy luật tư nhiên. Tổm lại là phải xem sự việc cụ thể để đoán. Cò * phương pháp lập quẻ theo gieo quẻ nói chung dùng khi người muốn Khi gieo quẻ, phải đặt ba đồng tiền nằm phẩng trong íờng bàn tay, hai bàn tay úp vào nhau dề yên độ 1 phút, đồng thời tập trung ý mệm vào sự việc mình muốn đoán. Ví dụ đoán cho một vụ buôn bán thì ý n *ị m J p t ^ l f lg và ° đạt két quả hay khôn S ? Cho nên việc lập quẻ theo phương ráng tiền thường dùng cho trường hợp người đoán quẻ có mặt. Gặp rí T?!, đÓ mặt thì phải tlm người Tuột thịt- Ví dụ đoán mất con thì ^^ĩ là ^ m t gie0 quẻ ’ vì thê thông tin sẽ chuẩn hơn so với bất ky người nào khác. Hay muốn đoán người nhà thất lạc, hoặc trẻ con bị bắt cáp hiện ở đâu có thể tìm về được không thì người nhà phải tập trung toàn bộ ý niệm vào đó để có thể phát ra thông tin trong quẻ. Mỗi quẻ đoán cho một yiệc Lúc gieo quẻ tính cả đồng tiền rơi xuống đất. Kỵ nhất là một người Ịjf n , lủliều quẻ đoán nhiểu sự việc. Chúng ta có thể qua ví dụ dưới dây đế thấy được cách đoán quẻ độc dáo của thầy Thiệu Vĩ Hoa. 1Li _ Sáng ngà y tinn, tháng canh thân, tôi (Trần Viên) ra phố mua hàng, ri Ôn ? ”“? y ! úc ằẩy . cửa bị đổ kính vỡ nát > ròn bị thương vào chân. Lúc trở vé tôi nói với thầy Thiệu : "Hôm nay tôi thật không may..." _ Thi ê u liền bảo : ™ng nói, đừng nói, để tôi rút quẻ xera sự việc ra sao ! ĩ hầy Thi f u vừa rtt quẻ trong bộ thẻ dự đoán theo sáu hào và nói : Khi cô đi ra ngoài, tôi thấy trong lòng "nhảy " nhót một cái và có cảm 488 giác bất an, muốn biết kết cục có gặp gì không- Vì lúc đó chỉ một mình cô đi ra ngoài, nên quẻ này đương nhiên là có liên quan đên cô. Thầy Thiệu rút thẻ được quẻ như sau : ĐỊA HỎA MINH DI LỤC THAN Phụ mẫu dậu kim — động Chu tước Huynh đệ hợi thủy - - Thanh long Quan quỷ sửu thổ — thế Huyền vũ Huynh đệ hợi thủy - Bạch hổ Quan quỷ sửu thổ — Phi xà Tử tồn mão mộc - ứng Câu trần Trước; hết hào quan quỷ trì thế là thân bất an, điều đó chứng tỏ lòng tôi nhảy thót là rất có lý. Quẻ "Minh di" vừa lập xong tức biết được cô sẽ bị thương, hơn nửa dụng thần là hào tử tôn mão mộc là cô bị hào phụ mâu động khắc. Hào đầu là chân, nên cái bị khắc là chân. Phụ mẫu dậu kim ở quẻ Khôn động, khôn là âm khí nặng, là tượng không tốt. Cụ thể cái gì làm chân bị thương ? Quẻ Khôn có ba hào âm giống như một hàng cửa trên mặt đất, điều đó chỉ có thể là những cánh cửa kính ở tầng hầm của cửa hàng. Hào thượng ở quẻ ngoại động, tức là khi cửa bị đẩy ra ngoài đồ vỡ làm cho chân bị thương. Hào thượng là dậu kim chứng tở không phải cửa làm bằng gỗ mà là cửa khung kim loại lắp kính. Còn bị thương nặng hay nhẹ thì có thể xem quẻ thể sinh quẻ dụng nên biết dược bị thương không dáng kể. Ngoài ra, từ hào thượng phụ mẫu động còn có thể biết thêm lá đơn tôi nộp để xin thành lập "Trung tâm Dự đoán Thiệu Vĩ Hoa” đã được phê chuẩn. Đến ngày thân dậu phụ mẫu văn thư động thi sẽ có kết quả. Quả nhiên ngày thân tôi nhận được một bức thư gửi nhanh báo tin đã được phê chuẩn. Theo thông lệ, dự đoán thì phải đoán cho từng việc một. Thầy Thiệu VI Hoa chủ yếu mỗi quẻ đoán cho một việc nên thông tin rất tập trung, đặc biệt là khi lập quẻ bằng gieo quẻ thì lại càng như thê. Song, sau khi lập dược quẻ trong quá trình đoán còn có thể thấy thêm được một số thông tin khác, nên không những thỏa mãn được vấn đề cần hỏi cho người đoán, mà còn có thể dự báo cho họ một vài thông tin khác. Quẻ lập theo thời gian thường thể hiện được thông tin nhiều mặt. Chỉ cần tìm đúng dụng thần là có thể đoán được cho một số việc. Tuy nhiên người đoán phải trên cơ sở tông kêt rât nhiều kinh nghiệm trong thực tiễn thì mới có thể vừa đoán trọng tâm cho một việc, dồng thời kết hợp nói thêm vài việc khác. 2. Khí nào thì chọn dụng thẩn, hay chọn hào thế ? Trong dự đoán theo sáu hào, nhiều dộc giả viết thư đến hồi khi nào thì trực tiếp lấy dụng thần trong lục thân, khi nào thì dùng hào thế, hào ứng ? 489 Thồng thường bí quyết chọn như sau : nếu đoán một sự việc cụ thể nào đó thì có thể chọn dụng thần trong lục thân. Ví dụ dự đoán những thông tin có liên quan đến cha mẹ, tài liệu, sách vở, vàn thư, thư từ, điện báo, hợp đồng, v.v... thì lấy dụng thần là hào phụ mẫu. Tóm lại là đoán cho việc cụ thể hay người cụ thể thì lấy dụng thần trong lục thân. Khi đoán những việc có liên quan với mình thì dùng hào thế, hào ứng để đoán. Hào thế là minh, hào ứng là đối phương. Đối phương có thể là người đại diện cho đơn vị hợp tác, cũng có thể là một vụ buôn bán. Tóm lại đôi phương có thể là đối tượng chưa biết. Ta có thể thông qua quan hệ sinh khắc chế hóa giữa hào thế và hào ứng để biết đối phương thật hay giả và xu thê phát triển của sự việc. Có một số độc giả cảm thấy cùng một quẻ nhưng kết quả xem theo cách lấy dụng thần và xem theo cách hào thế, hào ứng lại không gióng nhau. NÓI chưng không thể như thế. Mấu chốt là ở chỗ kỹ thuật chọn dụng thần có chính xác hay không. Dưới đây qua ví dụ (qua tín hiệu từ Ngạc Châu truyên đến) là trường hợp chưa biết nên chọn đụng thần ra sao, nhưng qua phán đoán tổng hợp đối với các hào nên dã tìm ra được dụng thần cần chọn và cuối cùng dã dự đoán chính xác. Giờ thin, ngày kỷ sửu, tháng mậu ngọ, tức là 2 giờ trước lệnh tháng 6 ngày 18 tháng 5 âm lịch, thầy Thiệu Vỉ Hoa nghe máy điện thoại tút tút và đoán biết là diện thoại đường dài từ quê gọi đến. Thầy Thiệu e rằng bà mẹ tuổi cao, sợ có việc gì đó, nên bảo tôi gieo quẻ để đoán. Tôi cãn cứ theo thời gian lập được quẻ "Phủ" của quẻ "Tụng". QUẺ CHỦ : TỤNG Tử tôn tuất thổ - Thê tài thân kim - Huynh đệ ngọ hổa - thế Huynh đệ ngọ hỏa — Tử tôn thin thổ - Phụ mẫu dần mộc — ứng QUẺ BIẾN : PHÚ Tử tôn tuất thổ - Thê tài thán kim - Huynh đệ ngọ hỏa - Phụ mầu mão mộc — Huynh đệ tỵ hỏa — Tử tôn mùi thổ — Đầu tiên thử lấy hào phụ mầu làm dụng thần. Phụ mầu dần mộc tuy không có nguyên thần sinh trợ, lại còn ở đất hưu tù hóa thành xì hơi, nhưng không có dấu vết gì là bị khắc (thê tài là hào khắc phụ mẫu, đòi hỏi thê tài thân kim phải lâm lệnh tháng 7 tức là lúc kim vượng thì mới có tượng khắc phụ mẩu). Do đó bỏ cách xem theo dụng thần, xem theo cách hào thế, hào ứng : huynh đệ trì thế, tôi đoán là việc cần tiền hay việc tiêu tiền. Hào thê hào ứng tương sinh là tượng khi nào cũng tốt. Thầy Thiệu gọi điện đường dài hỏi ngay quả nhiên là cô em út gọi diện hỏi về Un có nhà tư bản nước ngoài nào dầu tư cho quê hương không. Khi hỏi tin về cha mẹ thì dược biết 490 diều bình thường, riêng bà mẹ áp huyết hơi cao một tý đang uống thuốc. Ngày 7 tháng 7 tháng thân ồ quê lại gọi diện nhắn tin đên. Thầy Thiệu gieo quẻ, quả nhiên là có những tin không lợi cho mẹ : QUẺ CHỦ : TIẾT QƯẺ BIÊN : TRUNG PHÙ Huynh đệ tý thủy - - động Tử tôn mão mộc - Quan quỷ tuất thổ - Thê tài tỵ hỏa - Phụ mau thân kim - - ứng . Quan quỷ mùi thổ - - Quan quỷ sửu thổ — Quan quỷ sửu thô Tử tôn mão mộc - Tử tôn mão mộc - Thê tài tỵ hỏa - thê Thê tài tỵ hỏa - Dụng thần là phụ mẫu thân kim mộ ở nhật thin, quan quỷ bốn lần xuất hiện, bủa vây phụ mầu nhiều lớp, đó là tượng bệnh tật nhiều. Quan quỷ sửu mùi tuất là tam hình đều có. Thổ quỷ là bệnh tỳ vị. Khi đoán bệnh, quan quỷ là bệnh, hiện nay thổ nhiều vùi lấp kim là tượng không có quan quỷ để sinh phụ mau, ià tình hình nguy kịch. Nhưng may phụ mẫu thân kim lâm nguyệt kiến, lại có bạch hố lâm dụng thần nên được giúp đỡ, ngày dần có thể xung động hào phụ mẫu, ngày mùi xung khai hào sửu, tức tam hình mộ kho bị phá, ngày mùi thố vượng có thể sinh thân là bệnh sẽ tốt dần. Qua diện thoại quả nhiên mẹ thầy Thiệu vì bệnh dạ dày nên đi ỉa chảy hôn mé. Thầy Thiệu yêu cầu cô em lập tức đưa bà mẹ vào bệnh viện cấp cứu, nếu tình hình biến xấu phải gọi diện ngay. Gần một tuần lễ sau, em trai gọi điện báo : ngày hôm sau đã đưa mẹ vào viện (ngày dần xung động hào phụ mẫu thân kim). Sau đó bà mẹ đa ngừng ỉa chảy và bệnh đỏ' dần, hôm nay ra viện. Hôm nay đúng ngày mùi, quẻ Trung phù của quẻ Tiết dã sớm lộ rõ thông tin đó. 3. Cách chọn các hào trong quẻ Trong dự đoán theo sáu hào có những hào cỏ mô'i quan hệ tôt hoặc xấu với dụng thần, hào thế, như nguyên thần sinh trợ dụng thần, hào thê; kỵ thần khắc chế dụng thần, hào thê, đôi với cừu thân thì phải xem no đọng để giúp ích hay có hại cho dụng thần hay hào thế. Những mối quan hệ sinh khắc này ở phần trên đã giới thiệu, nhưng trong thực tế ứng dụng có một sô hào dù là hào dộng nhưng vì nó khống có quan hệ lợi ích thiết thân với dụng thẩn và hào thế, có một số hào động như cừu thần không có nguyên thân hoặc kỵ thần cùng động nên cũng không có tác dụng gì. Đối với dự đoán theo tượng quẻ thì việc chọn tượng loại của vạn vật cũng tương tự như thê, then chốt là phải thành thạo, điêu luyện, sau đó mới có thể linh hoạt vận dụng Dưới đây dề cử một số ví dụ để nói rồ : làm thế nào để chọn được dụng thâ hoặc tượng loại cua quẻ một cách hợp lý để đoán đúng sự việc cần đoán 491 Cuối cùng là cách tổng hợp các thông tin như thế nào để đi đến những kết luận một cách khoa học, đầy sức thuyết phục. Sáng ngày tân mùi, tháng canh thân, dưới tầng một báo tin lên có điện báo. Thầy Thiệu xuống lấy đồng thời bảo tôi, gieo quẻ xem việc gì. Tôi theo thời gian lập dược quẻ Tụy, sáu hào động. QUẺ CHỦ : TRẠCH ĐỊA TỤY Phụ mẫu mùi thổ — động Huynh đệ dậu kim - ứng Tử tôn hợi thủy - Thê tài mão mộc - - Quan quỷ tỵ hỏa — thế Phụ mẫu mùi thể — QUẺ BIẾN : THIÊN ĐỊA PHỦ Phụ mẫu tuất thổ - Huynh đệ thân kim - Quan quỷ ngọ hỏa - Thê tài mão mộc — Quan quỷ tỵ hỏa - - Phụ mẫu mùi thổ — Vi là hdi sự việc, chưa rõ cát hung nên tạm thời chưa nói đến thời gian ứng nghiệm. Đầu tiên chưa xem đến quẻ biến để tránh đoán quẻ bị nhieu. Nêu là chưa có tin điện báo đến, từ hào phụ mẫu động cùng có thể thấy rõ là việc văn thư. Từ toàn quẻ mà nói chứng tỏ thồng tin của quẻ rất rõ ràng. Ta bắt đầu xem từ tượng quẻ. 1) Qua tượng quẻ thấy rõ : quẻ dụng là đoài, quẻ thể là khôn. Quẻ thể sinh quẻ dụng là chủ về việc hao tổn. Đoài là tranh cãi, Khôn là không có gi. Thể sinh dụng là vì một việc không đâu mà có tranh cãi cho nên là việc hao tển. 2) Xét theo 6 hào mà nói, hào quan quỷ trì thế tương sinh hào phụ mẫu động tất nhiên là chuyện văn thư của phía đối phương. Phân tích đến đây thì đại thể việc cần hỏi đã ro ràng. Ta lại xét đến quẻ biến : 1) Theo tượng quẻ mà xét : quẻ biến vẫn là thổ sinh kim tức có thể dự đoán không có điều gì xấu, yên tâm. 2) Theo sáu hào mà xét : hào phụ mẫu động hóa tiến, vì tượng quẻ của quẻ biến vẫn là sự hao tổn nhưng không có điều gì xấu cho nên sự hóa tiến ở dây không có ý nghĩa gì nhiều trong thực tế, mà thực chất chỉ có ý hóa thành không (ngày tân mùi gặp tuất hợi là không vong). Nếu xét đến hào từ của Chu dịch thì ta thấy : hào từ của hào thượng quẻ Tụy nói : không gặp tai họa gì. Thầy Thiệu vừa lên đến nhà tôi lập tức nói : là việc của Bưu điện phải không ? Thầy Thiệu nói : Cô đã đoán như thế nào ? Để đánh giá sự phán đoán của tôi, nên thầy Thiệu vẫn giữ nguyên sắc mặt không biểu lộ ý gì. Cho đen khi toi thuât lại toàn bộ quá trình, thầy mdỉ nói là tôi đoán đúng. Nguyên 492 là s ự việc như sau : hai hôm trước thầy Thiệu cá đánh một bức diện về nhà. “ “ B “ 5 í n ™ h f" , g ỉ mà Bưu diện “Xtaí tìm dược địa chỉ. nên phTa Bưu điện trả lời thầy Thiệu bằng một lá thư: địa chi thất lạc không gửi dược. - i h í“ g . mà nói - Uli n s he tin c ° điện báo thì phần nhiều là ở ĩỉ® phụ mẵu tr0ng què Iại dỘDgl nên r &ăễ liên tưởng f iê .“ ? ua ," vứi . cha mẹ ' Nhưng theo t^n* quỉ hào phụ mâu lrlw, 0à Ằ.l ỘI ỉfl. <d6 là dấu hiệu hỒO phụ mẫu khôn « PMí ià cha mạ mà là ^ tư ; <*“ Đ “ à í tron « tượng loại là tranh cãi, tức là trên thư tín có việc tranỊi ^. NỊur thế tức là càn cứ vào tượng loại của quẻ để bàn đến sự việc ^ dng , bàn đên con n Z ưdl ; Quê thể không nên được hiểu theo tượng loại “ . m , ẹ ’ mà phải hiêu 1218,1 là klrôug- Quẻ thể Khôn sinh cho què dụng Đoài tức Ịà thư tín cố liên quan đến không có địa chỉ. Thề sinh dụng !' .1 ,, CÓ ,. ha0 r. tÔn '.. Hà0 , thế à tnmg sấu hào là dun * thần cùa sự việc, quan ^ phỵ mẫu động đưạc hào quan quỷ sinh cho nén .uf-- f.. thư tín của Bưu diệo ' Hào P h P mầu dộng hỏa không chứng to đó là !; hân f và tưọng q uè dã chỉ ra - Lại theo hào từ chứng tỏ là việc không co ■ ’ tức là phí mât m ột bức điện đánh đi mà không đạt kết quả gì. 4. Cách chọn hào từ . Ui NÓ i đên . hào từ ’ trong ' Chu dịch có 64 q uẻ > gồm 386 hào. Mỗi hào dều có hào từ nói rõ cát hung. Thông thường cách chọn hào từ là : khi dă có ten th ì ý nghĩa sự vi ! c . cát hung cơ bản đã được xác định. Đối với người mới r? c ™ à nói thường rát khó xác định cách chọn hào từ thích hợp, đặc biệt là rrL k fu TÍ dự doán i he0 tượngquẻ và theo sáu hào mâu thuẫn'nhau thì cang kho đmh đoạt. Cho nên dối với những người chưa thành thạo không nên dùng hào từ dể đoán. r phầi i ÌUL CÁC ví DU Mới VẺ ĐOAN QUĨ CÙA THIỆU Vĩ HOA Ở Phần Ba của sách này tối chọn ra 20 quẻ trong sô' các quẻ của thầy Thiệu Vĩ Hoa đoán trong hơn một năm nay. Trong số thí dụ đó có quẻ đoán theo tượng quẻ, có quẻ đoán theo sáu hào. Đê giúp những bạn mới học tham khảo, bao gồm cả những quẻ lấy lục thân làm dụng thần. Ví dụ, hào phụ mẫu là dụng thần, có quẻ đoán về cha mẹ, nhưng lại cũng có quẻ đoán về việc văn thư. Ngoài ra còn có các quẻ lấy thê tài, quan quỷ hoặc tử tôn, hay huynh đệ làm dụng thần. Có những quẻ rất bình thường, nhưng củng có những quẻ ý nghĩa rất điển hình; có những quẻ rất giản đơn, nhưng ngược lại có những quẻ rát thần kỳ. Trong các ví dụ cô' gắng phân tích, chú giải cách phán đoán từ đơn giản đến phức tạp. Từ góc độ người và sự việc được đoán mà nói thì đủ các màu sắc, các tầng lớp, các địa phương. Qua đó ta càng có dịp để kiểm nghiệm và so sánh đoán người và sự việc hiện tại so với các thí dụ cổ, tức cũng là một dịp để hoàn thiện và phát triển kinh nghiệm dự đoán cho cuộc sống hiện đại ngày nay. Mong rằng qua các ví dụ này sẽ là một gợi ý cho những học giả mới nhập môn. Ví dụ 1. Đêm nay nhâ't định có điện thoại. Có một vị cóng chức cao cấp ở một Cục nào đó của Bắc Kinh, ngày 23 tháng 5 âm lịch năm 1993, con gái bỏ nhà đi. Đã hơn nữa tháng vẫn bặt vô âm tín. Ong bô rất nóng ruột xin nhờ đoán quẻ. Vì đã trải qua nhiều người đoán, cuối cùng mới tìm được thầy Thiệu Vĩ Hoa dể nhờ doán con gái hiện ở đâu ? và có quay về không ? Ngày giáp dần, tháng kỷ mùi, gjeo được quẻ Cấn. QUẺ CẤN : Quan quỷ dần mộc - thế Thê tài tý thủy — Huynh đệ tuất thổ — Tử tôn thân kim - ứng Phụ mẫu ngọ hỏa — Huynh đệ thin thổ — 494 Đầu tiên thầy Thiệu V! Hoa nhờ tôi lập tứ trụ của cô gái ấy. Sau khi cán băng các thông tin trong tứ trụ, thầy Thiệu nói với người đó : cháu gái bó đi với một bạn trai. Người bố nguyên chỉ nói là vì thi đại học không đỗ, tụ gia đình phê bình nên bỏ đi. Nhưng khi nghe thầy Thiệu nói đứng sự thật thì đã thừa nhận đúng thế. Thây Thiệu tiếp tục xem quẻ, rồi nói : Không nên nóng ruột. Nếu muồn vê ngay thì cô ấy cũng chưa về, nhưng nếu không nhắc gì thì cô ấy cũng vẫn quay vê. Theo quẻ ở đây thì rất tốt, cháu gái nhất định sẽ trở về, vì dụng thần khắc thê, tức là phải chờ. Trong vòng 2 ngày sẽ quay về. Người đến đoán tuy ngưỡng mộ thầy Thiệu mà đến, nhưng thấy con gái đi đã lâu, mà nay theo quê lại ứng nghiệm nhanh đến thế thì có vẻ lưỡng lự nghi ngờ. Thầy Thiệu nói tiếp : tối nay, trước 11 giờ bác nên gọi diện thoại đường dài vé quẻ, sẽ có tin tức của cháu gái. Khi nào cháu về thì nhớ báo lại cho tôi biết. Người đó ra về vẫn còn bán tín, bán nghi. Hai ngày sau, thầy Thiệu nhận được điện thoại qua giọng nói Tất xúc động được biết : cô gái dó hôm qua đã vê thành phô', nhưng không dám về nhà ngay, mà chỉ gọi điện thoại về, tỏ ra rất hối hận về hành động của mình. Từ góc độ quẻ lục xung mà nói, là người đi ra ngoài đang đi rất nhiều nơi, chưa có hiện tượng quay trở về. Nhưng quẻ này tốt ở chỗ, dụng thần tử tôn thán kim ám động khắc hào thế chứng tỏ là con đă sắp trở về. Sở dĩ dạn gọi điện trước 11 giờ là vì sau 11 giờ thì không còn là ngày dần nữa, cho nên phải đúng trong ngày dần mới có tin. Quẻ này là quẻ sáu hào tĩnh. Phàm quẻ sáu tĩnh thì tin tức khá ổn định, chứ không thay đồi bất thường như quẻ sáu hào động, vì thế việc đoán đươc dễ dàng. Ví dụ 2. Elâ đi qua nhiều sồng núi, đền miếu. Cố một đồng chí công an thành phố có con gái 17 tuổi, ngày mồng 6 tháng 3 nhuận âm lịch năm 1993, vì tức giận mà bỏ đi. Bố mẹ đã nhờ rất nhiều người tìm kiếm, cũng nhờ nhiều người dự đoán nhưng tin tức rất lung tung vì vậy việc tìm kiếm không có phương hướng. Cuối cùng tìm đến thầy Thiệu, hy vọng sẽ biết được con còn sống hay chết. Thầy Thiệu sau khi xem qua tứ trụ nói : cháu bé này rất hiếu thắng, năm sinh lại là mã tinh, 4ai vận là mâ vận, năm nay tiểu vận lại gặp mã tinh Trong mệnh có mã tinh lại gặp xung nên việc đi là tất nhiên đễ hiểu. Cho dù có trở về thì vẫn còn đi, cho nên phải quản lý giáo dục tốt, nếu không dê cổ chuyện. Sau đó, lại căn cứ vào quẻ gieo được là quẻ Bôn của quẻ Ly (ngày quý mão, tháng đinh tỵ). 495 QUẺ CHỦ : LY Huynh đệ tỵ hỏa - thê Tử tôn mùi thổ — Thê tài dậu kim - Quan quỷ hợi thủy - ứng Tử tôn sửu thổ — Phụ mẫu mão mộc - QUẢ BIẾN : BÔN Phụ mẫu dần mộc - Quan quỷ tý thủy — Tử tôn tuất thổ — Quan quỷ hợi thủy - Tử tôn sửu thổ — Phụ mẫu mỗo mộc - Hào tử tôn xuất hiện hai lần tức có hai dụng thần. Chọn tử tôn mùi thổ hào năm gần hào thế làm dụng thẩn. Dụng thần được nguyệt kiến sinh vượng nên người dang sống. Hào thế lâm nguyệt kiến, vượng để sinh dựng thân là sẽ quay về. Thầy Thiệu nói rất rõ ràng và có cãn cứ nên bố mẹ cháu gái rất phân khởi vì được biết con còn sống và có khả năng trở về. __ Theo tượng quẻ mà nói trong quẻ Ly có tượng quẻ đại khảm (ST=V Khả™ là thủy, sau khi động biến thành cấn là núi, là đền miêu. Cho nên đoán co này đa vượt qua nhiều núi sông và qua những chỗ có đền miêu. Xác định ngày về : là lấy ngày dụng thần được sinh. Trong quẻ thời điểm dụng thần được sinh là ngày Hỏa vượng, nên đoán thời gian quay ve có thể vào lúc giao thời tiết lệnh của tháng 4 và tháng 5 muộn nhất không quá tháng 6 tưc tháng mùi là lúc hỏa dang còn hư khi Ngày về gần đây nhất có thể là từ mồng 4 đến mồng 6 tháng tư, hoặc 16 đẽn 18 tháng tư. Tâm thành nên rất ứng nghiệm. Quả nhiên ngày 16 tháng tư thì tìm đươc và ngày 18 tháng tư thì lên đường, ngày 19 về tới nhà. Qua mây ngàỵ sau gia đinh đã báo lại cho thầy Thiệu biết. Thầy Thiệu còn căn dặn : cô gái không nên đi nữa. Cô ấy hầu như cũng rất hiểu đạo lý, chẳng qua vì không biết mệnh của mình nén không tự kiềm chế mà thôi. Trong ví dụ này, hào động thê tài dậu kim động hóa sinh trỏ lại. Khi đoán quẻ này mối quẻ sinh khắc đối với dụng thần khống có ảnh hưởng trực tiếp gì, nên không lấy đó làm cơ sở để đoán. Độc giả trong cách chọn dụng thân đe đoán theo hào cần phải chú ý phán đoán hợp lý sự việc đê tìm được cách chọn dụng thần chính xác. Ví dụ 3. Trước phá sau hợp thì mới đoán bỏ nhà đi. Ngày mồng 1 tháng mười năm 1992 có một người ỗ Quảng Đông nhờ ban đón thầy Thiệu về dể đoán việc. Nguyên là người yêu của anh ấy sau khi cãi vã nhau, giận hờn mà bỏ đi. Đến nay đã hơn 20 ngày, anh tasợ người yêu nong nổi làm điều dại dột nên vội vàng muốn tìm được cô ếy ở đâu dê đưa về và để dễ bề ăn nói với bố mẹ cô ấy. Ngày canh tuất, tháng kỷ dậu đoán được quẻ Phủ của (quẻ Tụy. 496 * QUẺ CHỦ : TỤY Phụ mẫu mùi thổ — Huynh đệ dậu kim - ứng Tử tôn hợi thủy - Thê tài mão mộc — Quan quỷ tỵ hỏa — thế Phụ mẫu mùi thổ — QUẺ BIẾN : PHỦ Phụ mẫu tuất thổ - Huynh đệ thân kim - Quan quỷ ngọ hỏa - Thê tài mão'mộc — Quan quỷ tỵ hỏa — Phụ mẫu mùi thổ — Trước hết quẻ Tụy là tượng cát, như vậy què tốt đã rõ. Lại xem sáu hào : căn cứ thê tài làm dụng thần, dụng thần thê tài mão mộc gặp không, chứng tỏ người nừ trẻ tuổi này chưa kết hôn. Thê tài là hư là không. Người nữ này đi ra chưa trở về cũng có nghĩa là không, hào của quẻ lại gặp nguyệt phá nên đôi với cô này rất bất lợi. Nhưng may nhờ dựng thần hợp nhật thin, đáng lẽ ỉà phá thân nhưng vì người đă bỏ đi xa cho nên không còn là nạn phá thân nữa. Hợp là hợp chặt, hợp thì vượng, hợp sẽ không bị phá tức là phá có cứu. Do đó người đang sống, đi về phía đông. Mấy ngày nữa hào thê tài được sinh vượng, nhất định sè trở về. Ngày mồng 7 tháng 7 xuất không, lại gặp hợp, ngày đó nhất định sẽ về. Sau khi đoán được ba ngày thì người bạn nhận được điện báo cô ấy dã về tối hôm qua, đúng vào ngày hợi. Nguyên thần tử tôn hợi thủy vượng nên sinh lợi cho hào thê tài mão mộc. Thông thường đoán người đang đi xa, vì đầu tiên ra đi nên sau đó mới có chuyện quay trỏ về, cho nên trước tiên quẻ phải ứng gặp xung hoặc phá, sau đó mới bàn đến hợp. Nếu đoán cho hôn nhân có bền chặt hay không, nếu dã kết hôn thì trước tiên là hợp, sau đó mới xem có bị xung hoặc phá không (đương nhiên cũng có trường hợp đă ly hôn sau đó lại hỏi có quay trở lại với nhau không, gặp trường hợp dặc biệt như thế thì phải xem quẻ có xu hướng hợp hay không). Trong ví dụ này có vấn đề mệnh lý, và vấn đề trước xung sau hợp vì vậy khá phức tạp. Mong rằng đằy là ví dụ có nhiều gợi ý để độc giả tham khảo mà phán đoán cho linh hoạt và sát với thực tế hơn. Ví dụ 4. Có một công chức, ông bố lần đầu đến Thâm Quyến. Có một hôm đi bách bộ quanh nhà, vì thành phố đông người nên đã lạc đường về. Ông cụ tuổi đã ngoài 80, sức nhớ kém nên không nói rõ được địa chì nhà mình. Gia đình rất hoảng hốt nhờ bạn tìm đến thầy Thiệu nhờ đoán. Thầy Thiệu gieo quẻ xong, liền an ủi nói : Không can gì. Ngày 9 tháng 2 cụ sẽ trở về, muộn nhất là ngày 26 tháng hai âm lịch, tức trước ngày 8/1 dương lịch sẽ tìm thấy cụ. Còn dặn thêm nên dán những tờ thông báo tìm người về phía tây bắc và đông bắc. Người con rất mừng, vội về làm ngay. Hai hôm sau quả nhiên có người dẫn ông cụ tới tận nhà, hỏi đầu đuôi mới biết nguyên cụ nhìn thấy thờ thông báo tìm mình liền ngồi ngay dưới dó chờ đợi. Có người tốt 497 bụng nhìn thấy cụ giống ảnh dán ở thông báo liền hỏi rỏ đầu đuôi và giúp dẫn về nhà. Quẻ này ngày mồng 6 tháng 2 âm lịch năm 1994, (tức ngày mậu dần, tháng giáp dần) là ngày bị mất cụ già liền đến gieo quẻ. Tượng qué là quẻ Phong hỏa gia nhân. QUẺ : GIA NHÂN Huynh đệ mãơ mộc - Tử tôn tỵ hỏa - ứng Thê tài mùi thổ — Phụ mẫu hợi thủy - Thê tài SỬU thổ — thế Huynh đệ mão mộc - Dụng thần là hào phụ mẫu hợi thủy, hợp với nhật thin nguyệt kiến mà vượng, là tượng có thể quay về. Đoán ngày mồng 9 tháng hai âm lịch là vì ngày tỵ vượng xung mát hợi thủy. Kêt quả đả về trước đó một ngày vì đâ bo qua ngày thứ ba là ngày canh thin có hợi thủy nhập kho là tượng vê nhà. Đoán thời gian quay về muộn nhất là trước ngày mồng 8, đó là ngày hào phụ mẩu lâm vượng. Giấy thông báo tìm người nên dán d phía tây bắc vì đó là phương hợi thủy vượng, hợp với dần phương dó là đông bắc cùng vượng. Ví dụ 5. Người đến dược chỉ vì nguyên thần xuất không. Ngài Sài Đôn Kỳ là biên tập viên ở Hồng Kông đã hẹn trước với tôi sẽ đến Thâm Quyến để bàn về bản thảo. Sau giờ cơm trưa vẫn chưa thấy đên, không biết còn có thể đêh không, nên theo ngày mậu tý, tháng canh thân gieo được quẻ "Dự” của quẻ "Tấn”. QUẺ CHỦ : TẤN QUẺ BlẾN : Dự Quan quỷ tỵ hỏa - động Phụ mẫu mùi thể — Huynh đệ dậu kim - thế Thê tài mão mộc — Quan quỷ tỵ hỏa — Phụ mẫu mùi thổ — ứng Phụ mẫu tuất thổ — Huynh đệ thân kim — Quan quỷ ngọ hỏa - Thê tài mão mộc — Quan quỷ tỵ hỏa — Phụ mẫu mùi thổ — Ông Sài là bạn nên lấy hào huynh đệ dậu kim làm dụng thần. Dụng thần lâm nguyệt kiến vượng để trì thế, thì đáng lẽ người phải đến. Nhưng quan quỷ tỵ hỏa động nên cùng với hào phụ mẫu mùi thổ liên tục tương sinh để sinh hào thế, nhưng tỵ hỏa động mà hóa kho nên giờ tỵ vẩn chưa ra khỏi nhà được. Ngày mậu tý gặp ngọ mùi tuần không, giờ ngọ xuất không, nhưng hào quan quỷ ngọ hỏa trong quẻ biến đang lúc lâm vượng nên khắc hào thế 498 huynh đệ cho nên giờ dó vẫn không đi nổi, phải chờ đến giờ mùi hào phụ mẫu mùi thổ xuất không lâm vượng thì mới có thể sinh cho hào thế. Cho nên giờ mùi xuất không người sẽ đến. Thầy Thiệu Lại lập quẻ, theo gieo quẻ thấy cũng ăn khớp với quẻ lập theo thời gian, đều là giờ mùi thì người đến. Quả nhiên ông Sài đến đúng giờ mùi và nói : do ở nhà khởi hành muộn. Sau khi nghe kể lại, ông Sài nói : thầy Thiệu gieo quẻ thật thần kỳ. Thầy đoán tôi 1 giờ rưỡi chiều thì đến. Tôi đến trước cửa là lúc 1 giờ 35 phút. Cô Trần mở cửa liền reo lên : lần này thầy Thiệu đoán sai giờ. Thực tế thì tôi đến lúc 1 giờ 30, chẳng qua còn dứng trước cửa nói chuyện với khách nên chưa ấn chuông mà thôi. Quẻ này gọi là nguyên thần xuất không sinh dụng thần. Ví dụ 6. Hào huynh đệ hóa thoái là dấu hiệu em gái quay về. Ngày mồng 5 tháng 7 (tức ngày ất hợi, tháng canh thân), năm 1993, em gái tôi sông ở Hồng Kông hẹn sẽ đến thăm tôi. Trời đâ chiều mà người vần chưa đên. Tôi liền gieo một quẻ dược quẻ "Tiểu quá” của quẻ "Hàm". QUẺ CHỦ : HÀM Phụ mẫu mùi thổ •— ứng Huynh đệ dậu kim - động Tử tôn hợi thủy - Huynh đệ thân kim - thế Quan quỷ ngọ hỏa — Phụ mẫu thin thổ — QUẺ BIỂN : TIỂU QUÁ Phụ mầu tuất thổ — Huynh đệ thân kim — Quan quỷ ngọ hỏa - Huynh đệ thân kim - Quan quỷ ngọ hỏa — Phụ mẫu thin thể — Lây hào huynh đệ dậu kim làm dụng thần, dộng mà hóa thoái nhất dính là ngày chủ nhật người dông quá không qua được hải quan nên quay trở về. Thầy Thiệu Vĩ Hoa ngồi bẽn cạnh bổ sung thêm : hào huynh đệ dậu kim gặp không hóa thoái, chắc chắn là không đến. Quả nhiên dứng thế, về sau tôi nhận được điện báo xin lỗi thất hẹn, vì qua cửa khẩu người dông quá, hẹn ngày khác sẽ đến thăm. Quẻ này hào huynh đệ xuất hiện hai lần, tức có hai lần dụng thần. Chọn hào dậu kim động bỏ hào thế thân kim vì huynh đệ dậu kim ở hào năm là đường đi dộng mà hóa thoái, tức là chọn hào dộng, nên chọn hào này làm dụng thần là phù hợp với thực tế. Ví dụ 7. Đang xa nhà, nếu quẻ gặp lục xung là không thuận. Ngày 1 tháng 11 (tức ngày giáp dần, tháng tân hợi) năm 1992 có 1 học viên đưa đến một quẻ vừa gieo ngày hôm đó để nhờ thầy Thiệu đoán. Ông ấy nói là : vợ hôm qua đã lên tàu đáng lẽ sáng nay dến nhà, nhưng người ở nhà nói hiện nay vẫn chưa về, không hiểu trên đường có xảy ra diều gì không. Ong ấy gieo được quẻ "Bôn” của quẻ "Ly". 499 QUẺ CHỦ : LY Huynh đệ tỵ hỏa - thế Tử tôn mùi thổ — Thê tài dậu kim - Quan quỷ hợi thủy - ứng Tử tôn sửu thổ — Phụ mẫu mảo mộc - QUẺ BIẾN : BÔN Phụ mẫu dần mộc - Quan quỷ tý thùy — Tử tôn tuất thổ — Quan quỷ hợi thủy — Tử tôn sửu thổ — Phụ mẫu mão mộc - Căn cứ quẻ gieo hôm nay mà nói thì buổi sáng nên về đến nhà, nhưng quẻ Ly là ngọ hỏa, giờ ngọ tàu hỏa vẫn còn dang chạy. Quẻ Ly là quẻ lục xung, chứng tỏ giờ ngọ còn chưa đến ga cuối cùng, tức tàu chạy đến chậm giờ. Người đi xa, quẻ gặp lục xung là không thuận. Song yên tâm, hào thê tài động hóa sinh trở Lại, giờ tuất nhất định sẽ đến nhà. Ngày hôm sau, học viên đó báo lại vợ dã về đên nhà vào giờ tuat. về chậm' vì trên đường có một chuyến tàu hàng đến gần Thiều Quan của Quảng Châu bị hỏa hoạn, cho nên các chuyến tàu trên tuyến đó đều chậm giờ. Thời gian ứng nghiệm của ví dụ này là giờ dụng thần dộng hóa sinh trở lại. Ví dụ 8. Hào tài không hiện trên quẻ là vật mất không thể tìm lại được. Ngày 21 tháng 1 năm 1993, có một thanh niên vì không cẩn thận đánh rơi dây chuyền vàng trị giá hơn 5 nghìn nhân dân tệ. Muôn doán xem có tìm lại được không. Theo ngày giáp tý, tháng giáp dần, lập được quẻ "Càn' của quẻ "Tiệm". QUẺ CHỦ : TIỆM Quan quỷ mão mộc - ứng Phụ mẫu tỵ hỏa - Huynh đệ mùi thổ — động Tử tôn thân kim - thế Phụ mẫu ngọ hỏa — động Huynh đệ thin thổ — động QUẺ BIẾN : CÀN Huynh đệ tuất thổ - Tử tôn thân kim - Phụ mẫu ngọ hỏa - Huynh dệ thin thổ - Quan quỷ dần mộc - Thè tài tý thủy - Hào tài không hiện trên quẻ thi đoán vật mất không tìm lại dược, nêu là cầu mưu thì việc cũng chẳng thành. Trong quẻ biên có hào thê tài tý thủy bi hào huynh đệ của quẻ chủ dộng kiếp tài nhập thin kho, hào hai phụ mầu của quẻ chủ cũng động hóa sinh trở lại cho hào huynh đệ nên kiêp tài càng hưng. Hào tài bị hào huynh đệ thin thổ cưđp đi và giấu mất. Hào tài là tý thủy cũng là mất vào giờ tý. Từ tượng quẻ mà xét, tốn mộc khắc cấn thổ, tôn là trưởng nữ, là bị người phụ nữ lấy mất. Cậu Lâm nói : xét sự việc diễn biến đúng là như thế. Buổi tối quay về hơi muộn, lúc rửa mặt đả bỏ dây chuyền trên bồn rửa, lúc quay vào nhà quên mất. Gia dinh bên cạnh cũng 500 dùng chung bồn nước với tôi có một người phụ nữ bình thường vần hay cắp vặt, lần này mười phần thì có đến tám chín phần là bà ta nhặt được, nhưng vì không có chứng cứ gì, nên đành chịu mất. Ví dụ 9. Mất chứng minh thư, biết, tìm ở đâu ? Ngày 4 tháng 4 {tức ngày nhâm ngọ, tháng ất tỵ) năm 1992 Vương Văn Vinh là người bạn láng giềng hôm sau sẽ lên máy bay mà chứng minh thư bị mất đâu chưa tìm thấy. Vội quá không biết làm cách nào tôi liền bảo anh ta lắc một quẻ để xem có mâ't thật không. Được quẻ "Sư" : QƯỀ:Sư Phụ mẫu dậu kim — ứng Huynh dệ hợi thủy — Quan quỷ sửu thổ -— Thê tài ngọ hỏa — thế Quan quỷ thin thổ - Tử tôn dần mộc — Thầy Thiệu bước đến xem quẻ thấy trong quẽ dụng thần phụ mẩu gặp không, nhưng quẻ không có hào động chứng tỏ sự việc chưa có gì thay đổi. Phụ mầu dậu kim tuy tuần không nhưng dược nguyệt kiến và hào quan quỷ sửu thổ hợp thành kim cục vượng. Ngày hóm nay tuần không, xuất không thì có. Cho nên đến ngày hoặc giờ thân, dậu thì sẽ tìm được. Trong quẻ, quẻ thượng là khôn là vật mềm, hào sáu là dụng thần cho nên chứng minh thư nén ồ trong vật mềm chỗ cao. Vương Văn Vinh nghe xong liền quay về tìm, quả nhiên chứng minh thư kẹp trong một cái túi để trên nóc nhà. Ví dụ 10. Hợp lâu tất sẽ phân, vật phát triển đến cực điểm tất sẽ quay lại. Ngày 21 tháng 11 năm 1992 (tức ngày quý hợi, tháng nhâm tý) có một anh họ Đỗ dược người bạn dẫn đến nhờ đoán xem bản hợp đồng làm biển quảng cáo ở nhà ga Thám Quyến có hoàn thành được hay không. Thầy Thiệu gieo được quẻ "ích" của quẻ "Hằng". QUẺ CHỦ : HẰNG Thê tài tuất thổ — ứng Quan quỷ thân kim — Tử tôn ngọ hỏa - Quan quỷ đậu kim - thế Phụ mẫu hợi thủy - Thê tài sửu thổ — QUẺ BIỀN : ÍCH Huynh đệ mão mộc - Tử tôn tỵ hòa - Thê tài mùi thổ —' Thê tài thin thổ — Huynh đệ dần mộc — Phụ mầu tý thủy - Quẻ này sáu hào đều dộng. KhL gieo quẻ đã làm cho người ta có cảm giác sự việc không rõ ràng. Nhưng quẻ ngang hòa là tượng việc dề thành, 501 hào thê, hào ứng tuy tương sính cho nhau, nhưng trong sinh có hại, cho nên là việc tương hại. Hào thế là mình có dậu kim hóa thin thổ, hào bốn ngọ hỏa và hào hai hợi thủy đều động, hình thành sự tự hình, tức sự tương hại đó !à phía mình tạo nên. Thìn dậu hợp với kim, hào thế dậu kim động hóa sinh trở lại, hợp với thin thổ là phía mình tự hợp chặt lấy thê tài. Lục hợp hóa lục hợp, hợp lâu tât sẽ phân, vật phát triển đến cực đỉnh tất sẽ quay lại, cho nên nói quẻ này dại cục là tương hại đã rỗ ràng. Việc này kết quả cụ thể như sau : khi bên B xây dựng xong biển quảng cáo thi phía ông Đỗ không căn cứ hợp đồng trả khoản tiền còn lại đúng thời gian cho bên B. Bên B không chịu và đã phản đối bằng cách gỡ di bảng quảng cáo, chỉ đề lại giá khung. Đối phương nới : khi nào chi khoản tiền cuối cùng thi mới lắp lại biển. Người bạn mang ông Đỗ đến khi nhìn thấy chúng tôi đoán quẻ như thế thì rất hôi hận và nói rằng, nếu biết sớm sự việc như thế này thì trả quách tiền cho xong để khỏi chuốc lấy hậu quả rắc rối. Bản thân tôi thầm nghĩ : chính anh cũng đã biết được hậu quả sẽ như thế rồi sao ! Ví dụ 11. Ngày được tài là ngày có thể đòỉ nợ. Ngày dinh hợi, tháng quý mão năm 1992, có một người họ Ngụy đến thăm và xin đoán quẻ xem có đòi nợ được không. Lập đươc quẻ "Vô vong" của quẻ "Phệ hạp". QUẺ CHỦ : PHỆ HẠP Tử tôn ty hỏa - Thê tài mùi thổ — ứng Quan quỷ dậu kim - Thê tài thin thổ — Hũynh đệ dẩn mộc — thế Phụ mẫu tý thủy - QUẺ BIỂN : VÔ VỌNG Thê tàí tuất thổ - Quan quỷ thân kim - Tử tôn ngọ hỏa - Thê tài thin thổ — Huynh đệ dần mộc — Phụ mẫu tý thủy - Thê tài mùi thổ là hào ứng, gặp tuần không lại hóa xì hơi, cho nên món tiền đó hiện tại chưa có. Thìn thổ của hào tài lại ở tử địa là có tiền nhưng không nhiều. Hào thê khắc hào tài là mình đi đòi tiền nhưng hôm nay tiền chưa có, phải chờ dến ngày sửu mới có và lúc đó mới đòi được. Sô' tiền của món nợ này cụ thể là bao nhiêu, ta có thể đoán như sau : Hào tài mùi thổ là sô 5 cho nên có thể đoán 5 nghìn đồng. Quả nhiên ngày sửu đòi được món nợ 5.000 đỏla Hồng Kông. Ví dụ 12. Đồng Mác táng giá tự hiện trong quẻ. Ngày 11 tháng 2 năm 1992, ông Diệu giára đốc công ty tập đoàn quốc tế của Hồng Kông muốn giữ lại số tiền đồng Mác (của Tây Đức) nhưng không yên tâm nên muôn đoán dể biết đồng Mác Tây Đức bao giờ thì lên giá ? Ngày kỷ sửu, tháng quý mão gieo được quẻ "Tụng" của quẻ "Gia nhân". 502 QUẺ CHỦ : GIA NHÂN Huynh đệ mão mộc - Tử tôn tỵ hỏa - ứng Thê tài mùi thổ — Phụ mẫu hợi thủy - Thê tài sửu thổ — thế Huynh dệ mão mộc - QUẺ BIẾN : TỤNG Thê tài tuất thổ - Quan quỷ thân kim - Tử tôn ngọ hỏa - Tử tôn ngọ hỏa — Thê tài thin thổ - Huynh đệ dần mộc — Quẻ được hào tài sửu thổ trì thế lại lâm nhật kiến hỏa thành tiến thần thin thổ. Mùi thổ tuy lâm nhật phá, nhưng động hóa thành ngọ hỏa, sinh trở lại để hợp, thành hào .vượng tướng. Vì động nên không còn bị phá, vượng cũng là không bị phá, hựp lại với nhau càng vượng, đó là vượng cát, là tượng đồng Mác lên giá. Trong quẻ này hào động rất nhiều, động tức là không có lợi, tức là tượng không thuận. Quẻ này xuất hiện hai dụng thần vì là cầu tài nên có thể đoán có thể làm hai vụ buôn bán trở lên. Từ hôm nay đên trước cuối tháng 6 âm lịch thì sự việc sẽ thành. Sau khi đoán quẻ, thầy Thiệu hỏi ông đó có định giữ lại đồng Mác chờ tăng giá không, ông ấy nói, khi chưa đoán đã định làm thê rồi, nay đoán xong lại càng quyết tâm làm. Đến tháng 6 âm lịch đồng tiền châu Ằu giảm giá rất nhiều, trực tiếp ảnh hưởng đến kinh tế châu Au, duy có đông Mác Đức là vẫn đứng vững, nên ông Diệu đã thu được một món lớn. Ví dụ 13. Huynh đệ nhiều là kiếp tài, chỉ vì máy mắt. Ngày 27 tháng 3 nhuận năm 1993, có một học viên đã máy mắt nhiều hôm mà không làm sao ngừng được. Do đó ông ta tự gieo một quẻ và đưa đến nhờ thầy Thiệu đoán (ngày kỷ hợi, tháng đinh tỵ). QUẺ CHỦ : THÁI QUẺ BlẾN : TỈNH Tử tôn dậu kim — ứng Thê tài hợi thủy — Huynh đệ sửu thổ — Huynh đệ thin thổ - thế Quan quỷ dần mộc - Thê tài tý thủy - Thê tài tý thủy — Huynh dệ tuất thổ - Tử tôn thân kim — Tử tôn dậu kim - Thê tài hợi thủy - Huynh đệ sửu thổ — Hào huynh đệ trì thế là chủ về việc kiếp tài, hao phí. Hào tài hai lần xuất hiện lại đều động là chủ về tài không thuận. Hào huynh đệ cũng hai lần xuất hiện, được nguyệt kiến sinh vượng, lại gặp hào thê tài hợi thủy, động hóa thành hào huynh đệ khắc trở lại, anh em đông là tượng kiếp tài. Hào huynh đệ thin thổ tuy gặp tuần không nhưng vượng nên không còn là không, xuất không thì sẽ kiêp tài. Nhưng quẻ này tốt ở cho nhờ được hóa hợp nên mất của ít. Quả nhiên ngày thin đúng là lúc xuất không và ngày tỵ 503 hào thê tài hợi thủy gặp lúc nguyệt phá nên đã mất hai món tiền nhưng không lớn lắm. Ví dụ 14. 50 triệu đôla thật hay giả ? Ngày 9 tháng 2 (tức ngày tân tỵ, tháng giáp dần) nàm 1993 một bà giám đốc rất linh lợi tháo vát ở Thâm Quyến suýt bị lừa, vì một ngân phiêu trị giá 50 triệu đôla muốn đổi thành ND tệ, có nên đổi hay không ? Vì thầy Thiệu thấy bà giám dốc này gây dựng cơ nghiệp rất vất vả nên đã đáp ứng lời mời của bà nhận làm cố vấn. Khi thầy Thiệu đoán về việc này, qua quẻ phát hiện thấy có thông tin giả liền kịp thời cảnh báo khuyên bà. Ban đâu bà không tin là giả và nói chiều hôm nay sẽ quyết định trả lời. Thây Thiệu lại khẳng định một lần nữa, nếu không tin thì bà chờ xem. QUẺ CHỦ : LỮ QUẺ BIẾN : KHẢM Huynh đệ tỵ hỏa - Tử tôn mùi thổ — Thê tài dậu kim - ứng Thê tài thản kim - Huynh đệ ngọ hỏa — Tử tôn thin thổ — thê Quan quỷ tý thủy — Tử tôn tuất thổ - Thê tài thân kim — Huynh đệ ngọ hỏa — Tử tôn thin thổ - Phụ mầu dần mộc — Trong trường hợp không rõ thực chất của đối phương, tốt nhất lấy phía mình làm hào thế, đối phương làm hào ứng dể đoán việc. Trong ngày tân tỵ thì thân dậu là tuần khống, hào ứng là dối phương là hào thê tài hưu tù gặp không lại hóa thoái cho nên dù thực chất đói phương ra sao, có thành y hay không thì kết quả đều là giả, là không. Sau đó bà giám đô'c với tình cảm rất xúc động báo lại cho thầy Thiệu biết, nhờ lời cảnh tỉnh của ông, qua kiểm tra phát hiện thấy ngân phiêu gia. May không thì sẽ mắc lừa, tổn thất không bao giờ bù nổi. Ví dụ 15. Đoán xem có mượn được 50 triệu đồng không. Ngày 22 tháng 5 bà giám đốc ở ví dụ trên lại nhờ thầy Thiệu đoán xem, định mượn ngán hàng một khoán tiền lớn không biết có kêt quả không. Ngay giáp ngọ, tháng kỷ mùi, gieo dược quẻ Lâm của quẻ Đoài. QUẺ CHỦ : ĐOÀI Phụ mẫu mùi thổ — thế Huynh đệ dậu kim - Tử tôn hợi thủy — Phụ mẫu sửu thổ — ứng Thê tài mão mộc - Quan quỷ tỵ hỏa - QUẺ BIỂN : LÂM Huynh đệ dậu kim — Tử tôn hợi thủy — Phụ mẫu sửu thổ — Phụ mẫu sửu thổ Thê tài mão mộc - Quan quỷ tỵ hỏa - 504 Quẻ lục xung là tượng không thành, nhưtog xem kỹ ra thấy hào huynh đệ vượng động, sinh hào tử tôn hợi thủy, hợi thủy lại động, sinh thê tài mãố mộc, lại là tượng có thể thành. Như thế gọi là kỵ thần sinh nguyên thần, nguyên thần lại sinh dụng thần, dộng liên tục, sinh liên tục nên đoán là vượng và việc sẽ thành. Thời gian được tài là : thứ nhất lúc kỵ thần sinh vượng; thứ hai lúc nguyên thần động hóa khắc trở lại không lợi cho việc sinh trợ dụng thần, nên cần phải chờ đến lúc hào biến sửu thổ bị xung khai; thứ ba là lúc nguyên thần sinh vượng, hơn nữa bản thân phải nỗ lực. Sau đó bà giám đốc thông báo lại khoản tiền này đã mượn được của tĩnh Hà Bắc và tỏ lời cảm ơn thầy Thiệu. Bà nói : Mấy lần thầy đoán đều ứng nghiệm, nói việc sẽ thành là sau đó có kêt quả, việc không thành là không thành. Bây giờ nếu gặp việc lớn không đoán thì cảm thấy không an tâm, không dám hành động mù quáng. Đoán xong nếu được liền tìm thời cơ quyết tâm làm, nếu biết việc không được thì không tiếc ré, và không hao tâm tổn lực vào đó. Kỳ thực thì đây là tâm lý chung và cũng là bài học của các nhà tư bản ỏ hải ngoại và vùng ven biển lục địa. Vì đó là sự nghiệp của họ, của cải cua họ, đồng tiền kiếm được không dễ, nên khi mất rất đau lòng. Họ hiểu được răng, giá trị của dự đoán là giừ được của cải và đề phòng khỏi bị mất. Dưới dây là một ví dụ : Giám dốc công ty đã được khuyên nhiều lần nhưng không chịu nghe đã gặp phải thất bại. Ví dụ 16. Nhiều lần không thành, muôn biết lần này có thành không. Ngày 27 tháng 3 nãm 1993 có một giám đốc công ty muôn đi Hà Nam để ký một hợp đồng, hỏi xem có đạt kết quả không. Ngày kỷ tỵ, tháng bính thin gieo được quẻ Chấn của quẻ Qui muội : QUẺ CHỦ : QUI MUỘI Phụ mẫu tuất thổ — ứng Huynh đệ thân kim — Quan quỷ ngọ hỏa - Phụ mẫu sữu thổ — thế Thê tài mão mộc - Quan quỷ tỵ hỏa - QUỀ BIẾN : CHẤN Phụ mẫu tuất thổ — Huynh đệ thân kim — Quan quỷ ngọ hỏa - Phụ mẫu thin thổ — Thê tài dần mộc — Tử tôn tý thủy - Vị giám đốc này là bạn của thầy Thiệu đã từng nhiều lần thấy giá nhà lên cao nhưng thầy Thiệu khuyên ngán nói : sốt nhà đất rồi sẽ xuống, hơn nữa còn bảo ông trong mệnh không nên buôn bán về bất động sản. Nhưng ông ấy vẫn thiết tha nhờ đoán mây lần, thầy Thiệu đều nói không được, kết quả đi khắp duyên hải và nội địa vần tay không trở về. Cũng may mà việc không thành, nêu không chẳng khác gì một công ty bao bì, khi trung ương bắt đầu chấn chỉnh ngành ngân hàng, sô' tài khoản bị thu hồi lâm vào tình trạng không trả được nợ nên bị ngồi tù. Lần này ông lại quyết tâm và tin tưởng rằng chẳng ai tính toán được bằng trời, may là được (chú thích : khi trong quẻ chỉ có một hào động thì có thể căn cứ theo sự sinh khắc của quẻ thể và quẻ dụng để đoán cát hung). Hào hai động, quẻ hạ là Đoài kim khắc quẻ thượng là Chấn mộc. Dụng khắc thể là việc không thành, nếu thành thì có hại. Theo sáu hào mà xét, hào thế là mình, hào phụ mẫu trì thế hóa tiến, nếu làm thì nhất định sẽ gian khổ. Hào -thê tài mão mộc khắc hào thê là tài tìm đến minh. Thầy Thiệu nói với ông ta : Tuy là đối phương chủ động đến để tìm ông hợp tác, nhưng thê tài động mà hóa thoái là tài không phát, là tượng hao tam tổn lực mà tài bị thương. Quẻ biến là Chấn là xung, là tán còn là tượng việc không thành. Vị giám đốc đó vẩn quyết tâm ra di, kết quả tay không trở về. Ví dụ 17. Việc bán dấu giá không thuận chỉ hòa vốn. Ngày 12 tháng 8 năm 1992 (tức ngày bính thin, tháng kỷ dậu có một công ty ở Thâm Quyến chuẩn bị di Bắc Kinh để tổ chức một cuộc bán đấu giá, muốn đoán xem kết quả ra sao. Gieo được quẻ Gia nhân của quẻ Ly. QUẺ CHỦ : LY QUẺ BlẾN : GIA NHẰN Huynh đệ tỵ hỏa - thế Phụ mẫu mão mộc - Tử tôn mùi thổ — Huynh đệ tỵ hỏa - Thê tài dậu kim - Tử tôn mùi thổ — Quan quỷ hợi thủy - ứng Quan quỷ hợi thủy - Tử tôn sửu thổ — Tử tôn sửu thổ — Phụ mầu mão mộc - Phụ mẫu mão mộc - Hào tài dậu kim là dụng thần, hào thế khắc hào tài là mình đi cầu tài. Tài vượng động hóa sinh trở lại, tài bị hợp tài động lại sinh hào ứng hào ứng là quan quỷ là đôi phương được tài và giừ chặt. Hào thê huynh đệ là tượng tổn hao. Quẻ gặp lục xung là việc không thuận nên cuộc đấu giá này không nên đầu tư nhiều vào đó. Việc xong được báo lại kết quả không thuận mà chỉ hòa vốn. Nguyên nhân là vì lúc đó gặp phải lúc đồng tiền châu Âu hạ giá, kinh tê suy thoái, gáy ra một số lớn bức họa của các danh nhân bị bán tháo, ỏ trong nước cũng rất nhiều bức họa được đưa sang Hồng Kông. Hồng Kông từ thị trường bán trở thành thị trường mua. Vì cỏ nhiều tranh nhập vào nên giá không lên, do đó cuộc đấu giá không thuận lợi. ông ta cho rằng dó là nguyên nhân chính làm cho cuộc dâu giá không thành công. Ví dụ 18. Bệnh tạp chứng nan y, bệnh lạ mà quẻ cũng lạ. Cha cậu Tống gặp phải chứng nan y, thuốc đông, tây y đều đã dùng đủ, nhưng vẩn không biến chuyển. Đúng lúc đó cậu Tống có duyên gặp được thây 506 Thiệu, kể lại sự việc và muôn nhờ thầy đoán xem bệnh gì, có thể chữa khỏi không. Ngày kỷ mùi, tháng bính thin gieo được quẻ Truân của quẻ ích. QUẺ CHỦ : ÍCH QUẺ BIẾN ; TRUÂN LỤC THẦN Huynh đệ mão mộc - ứng Phụ mẫu tý thủy — Câu trần Tử tôn tỵ hỏa - Thê tài tuất thổ - Chu tước Thê tài mùi thổ — Quan quỷ thân kim — Thanh long Thê tài thin thổ — thế Thê tài thin thổ — Huyền vũ Huynh đệ dần mộc — Huynh đệ dần mộc — Bạch hổ Phụ mầu tý thủy - Phụ mẩu tý thủy - Phi xà Tượng quẻ vừa lập xong, cậu Tống liền hỏi : "Có thể biết được bệnh gì không ?". Thầy Thiệu thấy trong quẻ không có hào quan quỷ, nhưng trên hào dụng thần phụ mẫu tý thủy tìm thấy lục thần là phi xà nên nói : "Bệnh của bố anh có phải có liên quan với rắn không, có phải có hình rắn quần trên người ?". Cậu Tống kinh ngạc gật đầu nói : "Bệnh của bố tôi đông, tây y đều nói là bệnh "rắn quấn người", tức ở vùng thắt lưng có một đường hằn giông rắn, từ thăn thắt lưng chạy quanh ra phía rốn, một dầu giông đầu rắn, đầu kia giống đuôi rắn". Thầy Thiệu hói : Cậu nên lo liệu chữa cho bố ngay, vì bệnh phát triển đến mức đó là rất nguy hiểm, chỉ cần đầu và đuôi rắn nối nhau thì người sẽ chết. Thầy Thiệu đương nhiên là đọc nhiều, biết rộng, còn nói : Còn có một loại bệnh gọi là "rắn quân cổ" rất nguy hiểm. Còn có một loại nữa gọi là 'Tắn quấn ngón tay" tức ngón tay loét thành quầng như rắn quân, thuốc gì cũng không chữa được. Duy có cách này có thể cứu được : dừng lông nhím đâm vào hai điểm đen giống hai mắt rán trên đầu ngón tay, lúc đó nó sẽ chảy ra chất mủ, song lại nhúng ngón tay đó vào nước luộc lông nhím đă để nguội thì sẽ lấy được chất độc ra ngoài. Cậu Tông hỏi : cách này có chữa được cho bệnh của bô' cháu không ? Thầy Thiệu nói : Tôi không dám chắc, nhưng cứ thử xem sao. Vì trên quẻ này là quẻ ngang hòa nên may ra có thể dược. Trong ví dụ này đả căn cứ vào lục thần dể đoán bệnh. Thông thường sau khi gieo quẻ thường phôi thêm cả lục thần để tham khảo trong khi đoán, dùng đến lục thần hay không là tùy cơ ứng biến, phải căn cứ vào thực tiễn để rút ra kình nghiệm, càng vận dụng nhiều thì kỹ thuật càng nâng cao. Ví dụ lấy phương pháp đoán quẻ của thầy Thiệu mà nói, thấy phi xà lâm dụng thần để đoán là bệnh rắn quấn, nhưng nếu lâm bạch hổ thì lại đoán là bị hổ vồ thì thật buồn cười, và dễ bị người khác lợi dụng cho là trò cười mê tín. Vì vậy khi đoán phải thận trọng khiêm tốn, phải hợp tình hợp lý, dó lại là nghệ thuật cách diễn đạt ngôn từ sao cho thích hợp. Kỳ thực thì tượng xà trong quẻ này đã có dấu hiệu là : quẻ Tốn ở quẻ thượng chính là có ý ấy. Tục ngữ có câu : "Một lần bị rắn cắn, mười năm sau còn sợ dây thừng”. Trong tượng quẻ Tôn là dây thừng, là tượng xà. 507 Vĩ dụ 19, Tuy đã được rồng, chó cứu chữa nhưng còn phải tôn trọng pháp luật. Ngày 13 tháng 7 âm lịch, năm 1993, giờ dần, cháu của giám dốc Trương bị Sỏ công an bắt. Chú của ông Trương nhờ người tìm đến thầy Thiệu nói là bị bắt đo bị liên đới, bị oan. Tôi theo ngày giờ bị bắt lập quẻ, thấy quẻ tốt nên đoán là sự việc không đến nổi trắc trở. Sau đó tôi lại sắp tứ trụ và lấy vận trình thì thấy kết quả cũng thế. Lúc đó giám đôc Lâm là người cùng đẽn liền nói : chúng tôi có cần kể lại sự việc không. Tôi nói không cần. Ông ta hỏi thầy Thiệu : Có thế biết được việc phạm án là do liên quan với việc gì không. Thầy Thiệu căn cứ vào bảng tứ trụ của tôi sắp xếp khẳng định nói : "nếu không liên quan với phụ nữ thì là việc tiền tài", sau đó lại khẳng định luôn : "đây là việc liên quan đên tiền tài". Ong Lâm lại hỏi thầy có thể cho biết được tiền tài về việc gì không ? Thầy Thiệu nói : Là việc buôn bán gỗ. Lần này nói đúng việc nên ỏng Lâm gật đầu ngay. Thầy Thiệu lại nói tiếp : cậu này còn đánh người nữa. Ong chú thừa nhận : người khác bị mất gỗ, khi phát hiện lại còn bị đánh, cậu này đánh người chủ bị mất, rồi lại bị người ta đánh cho thừa sống thiêu chêt, sau đò bị công an bắt. Thầy Thiệu còn nói thêm : cậu này sau khi được ra còn phải giải cứu và phải tuân thủ pháp luật, nếu không từ nay đến trước 42 tuổi sẽ còn phạm pháp, ông chú đã tiếp thu lời khuyến cáo đó rất thành khẩn. Sau đó ông chú lại hỏi, làm sao để cứu được cháu ra ? Thầy Thiệu xem lại quẻ rồi nói : cậu này sẽ được một người thuộc tuổi rồng, một người thuộc tuổi chó giúp đỡ. Giám đốc Lâm nói ngay : Tôi chính là tuổi rồng, như vậy là còn thiếu một người thuộc tuổi chó. Qua mấy hôm sau giám đôc Làm gọi điện thoại báo : cháu ông dược sự giúp đỡ bảo lãnh của một người bạn thuộc tuổi chó nên đã được thả ra và đang chữa vết thương ở nhà. Dưới đây ta sẽ xem xét vì sao trong quẻ lại chứa đựng những thông tin đó. Theo thời gian bị bắt gieo được quẻ Tiêt thuộc quẻ Nhu (ngày quý mùi, tháng canh thân). QUẺ CHỦ : NHU QUẺ BlẾN : TIÊT Thê tài tý thủy — Thê tài tý thủy — Huynh dệ tuất thổ - Huynh đệ tuất thổ - Tử tồn thân kim — thế Tử tôn thân kim — Huynh đệ thin thổ - động Huynh đệ sửu thổ — Quan quỷ dần mộc - Quan quỷ mão mộc - Thê tài tý thủy - ứng Phụ mẫu tỵ hỏa - Tôi đoán sự việc không can gì vì đại tượng quẻ cát và trong sáu hào tử tôn thân kim vừa là dựng thần, lại lâm nguyệt kiến vượng mà trì thế. Tử 508 tôn trì thê thì tai họa gì cứng đều không đáng kể. Huống hồ hào huynh đệ ở quẻ thượng và quẻ hạ đều sinh cho hào thế nên nếu gặp nạn mà gập được quẻ này là không gì tốt bằng, tức là quẻ có cứu. Còn vì sao thầy Thiệu lại nói hai người giúp đỡ thuộc tuổi chó và tuổi rồng là vì cái sinh cho hào tử tôn thân kim là thin và tuâ't. Như vậy dủ thấy các thông tin cùa bát quái vừa rất bí ảo, nhưng lại cũng rất rõ ràng. Ví dụ trên đây ta thấy rõ nếu người đoán quẻ thành thạo thì chẳng khác gì trong tay có chìa khóa và mở ổ khóa một cách đơn giản nhẹ nhàng. Vỉ dụ 20. Vừa phải hiểu rõ mình, vừa phải thuận theo lẽ tự nhiên. Đêm 27 tháng 9 năm 1991, Đài truyền hình trung ương phát đi bản tin sách của thầy Thiệu Vĩ Hoa là sách xấu. Như vậy sách thầy Thiệu bỗng nhiên rơi từ trên cao xuống đáy. Bạn bè và độc giả đều lo lắng cho thầy Thiệu. Các sách Chu địch ứng dụng tuy đứng trước 1 tình thế khó khân, nhưng không phải là điều gì bị bất ngờ chưa lường trước. Đô'i với thầy Thiệu, người đã nắm vững vận mệnh của mình và biêt được các mặt khác như phong thủy, thuật sô', y bốc... tuy hơi cảm thấy có một sô' khó khăn trở ngại, gập gềnh, nhưng cũng tin tưởng rồi sẽ qua đi và tin trong những năm trước mắt là năm vận mình dang vượng. Với thái độ phụ trách về mặt nhận thức dối với khoa học này, thầy Thiệu đã đoán quẻ mong biết rõ viền cảnh của sự việc. Ngày canh tý, tháng đinh dậu gieo được quẻ Khiêm của quẻ Tiết. QUẺ CHỦ : TIẾT QUẺ BIẾN : KHIÊM LỤC THẦN Huynh đệ tý thủy — Phụ mẫu dậu kim — Phi xà Quan quỷ tuất thổ - động Huynh đệ hợi thủy — Câu trần Phụ mẫu thân kim — ứng Quan quỷ sửu thổ — Chu tước Quan quỷ sửu thổ — động Phụ mầu thân kim - Thanh long Tử tôn măo mộc - động Thê tài ngọ hỏa — Huyền vũ Thê tài tỵ hỏa - thế, động Quan quỷ thin thổ — Bạch hổ. Quẻ có nhiều hào động là tượng không thuận. Hào phụ mầu là văn chương thư tịch, chu tước chủ về việc cải vã thị phi, chu tước gặp hào phụ mâu là dâu hiệu có sự cãi nhau về văn thư. Hào quan quỷ xuất hiện ba lần làm cho ta liên tưởng đến ví dụ trước, tuy đều là hào phụ mẫu bị hào quan quỷ trùng diệp vây chặt, nhưng ở ví dụ trước là đoán bệnh, quan quỷ là bệnh tật, quan quỷ nhiều ỉà bệnh bám chặt lấy thân, là tượng không tô't, nên cần phải xem quẻ có cứu hay không. Còn ở ví dụ này, tuy cũng bị quan qụỷ trùng vây, nhưng dụng thần phụ mẫu hóa mộ kho, cũng là tượng sách bị cấm, song đây không phải là đoán bệnh. Nếu thổ nhiều vùi lấp kim, kim lại yếu thì tai vạ khôn lường. Nhưng hào phụ mẫu thân kim lâm nguyệt kiến mà vượng và hóa sinh trở lại (dụng thần thân kim hóa sửu thổ tức là hóa mộ kho, nhưng 509 trong thin, tuất, sửu, mùi chỉ có kim mộ kho, tức trong mộ có sinh, các ngũ hành còn lại : như mộc mộ là mùi, là hóa khắc; thủy mộ là thin là nhập kho; hỏa mộ là tuất là xì hơi; thổ gặp thổ là hóa hình xung tiến thoái) do đó, quan quỷ ba lần xuất hiện là nhiều sao bên trăng. Thân kim như trăng vằng vặc giữa trời, chiếu rọi khắp nơi. Năm 1992 là năm thân kim, năm 1993 là năm dậu kim vượng, năm 1994 hào năm tuất thổ sinh kim, "Chu dịch dự đoán" không những từ đáy sâu nẩy lên mà còn được sự hưởng ứng rộng rãi. Quả nhiên, sách vừa được xuất bản thì độc giả đón đọc khắp nơi. về sau sách dược bình là bộ sách văn hóa ưu tứ, không những không bị xem là mê tín mà dược xem là một lĩnh vực vừa cổ, vừa mới. Nhân dịp này quay nhìn lại què gieo năm 1991, càng làm cho người ta thấy được công năng dự đoán thần kì của Chu dịch, tuy về mặt khoa học còn là điều bí ẩn nhưng nó đả thực sự phục vụ tốt cho cuộc sống ngày nay. 510 PHỤ LỤC BẢNG CÃN CỨ NGÀY GIÁP TÝ SUY RA CAN CHI CÁC NGÀY KHÁC 1. Giải thích cấu tạo bảng Hàng trên cùng của bảng là từ tháng giêng đến tháng 12 âm lịch. Cột dầu tiên bên trái là can chi của các năm từ 1890 - 2020. Ta lấy nồm 1993 làm ví dụ để giải thích. Hàng trên là ngày âm lịch của tháng đúng với ngày giáp tý (mỗi vòng giáp tý cách nhau 60 ngày). Ví dụ năm Quý Dậu - 1993, ngay 21 tháng giêng âm lịch là ngày giáp tý. Hàng dưới của ngày giáp tý ỉà ngày âm lịch giao tiết của lệnh tháng, tất cả có mười hai lệnh tháng, bao gồm cả tháng nhuận. Ngày lập xuân tháng giêng là ngày giao tiết thứ nhất. Năm Quý Dậu 1993, ngày đó là ngày 13 tháng giêng. Tháng hai âm lịch không có ngày giáp tý nên hàng trên bỏ trống. Hàng dưới chỉ tiết kinh trập là ngày 13 tháng 2 âm lịch. Tháng ba âm lịch ngày giáp tý là ngày 22, hàng dưới chỉ tiết thanh minh vào ngày 14 tháng ba. Vì năm 1993 nhuận tháng ba, nên lập hạ tháng tư, tuy là giao tiết thứ tư nhưng rơi vào ngày 14 tháng ba nhuận, do đố vẫn ghi vào cột thàng ba. Tháng ba chỉ có 29 ngày nên là tháng thiếu. Vì tháng ba âm lịch nhuận nên ngày giáp tý là ngày 23 tháng 4 âm lịch và tiết mang chủng tháng năm rơi vào ngày 17 tháng 4 âm lịch. Tháng năm âm lịch không có ngày giáp tý, ngày 18 của tháng năm là ngày tiểu thử - giao tiết của tháng 6. Tháng sáu ngày 24 là giáp tý. Ngày 20 tháng 6 lập thu. Tháng bảy âm lịch không có ngày giáp tý. Ngày 21 là tiết bạch lộ - giao tiết với tháng 8. Ngày 25 tháng 8 ám lịch là ngày giáp tý, ngày 23 là tiết hàn lộ, giao tiết của tháng 9. Tháng 9 không c<5 ngày giáp tý. Ngày 23 tháng 9 là lập đông - giao tiết của tháng 10. Ngày 26 tháng 10 là ngày giáp tý. Ngày 24 là tiết đại tuyết, giao tiết của tháng 11. 511 Thàng 11 không có ngày giáp tý. Ngày 24 là tiết tiểu hàn, giao tiêt tháng 12. Ngày 27 tháng 12 là ngày giáp tý. Ngày 24 là ngày lập xuân năm giáp tuất, tức ngày 4 tháng 2 năm 1994. Qua bảng năm 1993 ta có thể thấy : tiết lệnh của âm lịch (tức lệnh tháng) không phải cố dịnh xuất hiện ở từng tháng, đó là do có tháng nhuận tạo nên. Tôi lấy xuân, hạ, thu, đông để biểu thị lập xuân lệnh của tháng giêng, lập hạ lệnh của tháng tư, lập thu lệnh của tháng bảy, lập đông lệnh của tháng mười thì cho dù có tháng nhúận cũng không đến nổi sai lệch. Dấu ở trong bảng này để biểu thị tháng đó không có tiết lệnh, nguyên nhân vì trong âm lịch, tháng trước sắp kết thúc nhưng tháng sau vẫn chưa bắt đầu, nên dùng chấm nhỏ để biểu thị những ngày âm lịch không có tiết lệnh thì tiết lệnh vẫn được tính trong đó. Chữ "thiếu" là để chỉ tháng đó thiếu, tức chỉ có 29 ngày. Tháng đủ 30 ngày không cần ghi nữa. Tác dụng của nó là : khi một tháng nào đó không có ngày giáp tý thì phải dếm từ ngày giáp tý tháng trước đến tháng sau, và phải chú ý số ngày của tháng thiếu không phải là bội số của 10, nên lúc tính ngày phải thêm vào một can chi ngày (phần dưới có ví dụ để nói rõ hơn). 2. Giải thích cách sử dụng bảng 1. Căn cứ ngày giáp tý dể tính can chi ngày sinh của một người nào dó là căn cứ vào quy luật khoảng giữa hai ngày giáp tý có chứa ngày sinh của người đó. Vì địa chi trên hình bàn tay cố định, nên chỉ cần tính ra thiên can, sau suy ra chi rồi hợp can chi lại là được. Cách suy cụ thể như sau : Bắt đầu từ ngày giáp tý đếm cách ngôi ngược chiều kim đồng hồ (tức sau ngày giáp tý mười ngày là ngày giáp tuất, sau giáp tuất 10 ngày là ngày giáp thân, ví dụ ngày mồng một là giáp tý, sau, 10 ngày, ngày thứ 11 ià giáp tuất; qua 10 ngày nữa, ngày thứ hai mươi mốt là ngày giáp thân. Mỗi tháng không thể quá 30 ngày, nên trong bảng tháng nào mà có ngày giáp tý thi tính đến ngày giáp thản là đã đủ lắm rồi, số dư thì thuận chiều kim dồng hồ đếm đến ngày sinh hoặc đếm đến ngày dự đoán theo âm lịch. Lấy tháng 9 âm lịch năm 1994 làm ví dụ. Nếu muốn biết trụ ngày của ngày mồng 4 tháng 9 ám lịch năm 1994 thì trong bảng : tháng 9 âm lịch của năm 1994 tra ra ngày giáp tý là mồng 1, từ bàn tay trái, lấy ngón cái đếm : "ngôi tý làm mổng một giáp tý, ngôi sửu là mồng hai ất sửu, ngôi dần mồng ba bính dần, mão là mồng bốn đinh mão". Như vậy sẽ biết được mồng 4 là đinh mão. Muốn biết can chi ngày mười lăm tháng 9 : từ ngôi tý tính ngày giáp tý là máng 1, cácỊi ngôi đếm ngược đến tuất suy ra ngày giáp tuất là ngày 512 11, sau dó đếm thuận theo : "hợi là ngày 12 ất hợi, tý là 13 bính tý, sửu là 14 đinh sửu, dần là 15 mậu dần". Như vậy là biết được người sinh ngày 15 tháng 9 âm lịch năm 1994 có can chi ngày là mậu dần. Muốn biết can chi ngày 25 thì tính như sau : từ tý đến giáp tý mồng 1, cách ngôi đếm ngược lên tuất, tính giáp tuất ngày 11, lại cách ngôi dếm người lên thân tính giáp thân ngày 21, sau đó đếm thuận : dậu ngày 22 là ất dậu, 23 bính tuất, 24 là đinh hợi, 25 là mậu tý". Như vậy can chi của ngày sinh hay ngày doán việc của 25-9 âm lịch năm 1994 là mậu tý. 2. Tháng 12 nảm 1994 khồng có ngày giáp tý thì làm sao ? Nhìn vào bảng ta đã biết ngày mồng 2 tháng 11 năm 1994 là ngày giáp tý, từ dó dể lây căn cứ mà suy. Ví dụ muốn biết can chí ngày mồng 7 tháng 12 năm 1994 là gi, ta bắt đầu tính ngày 2 tháng 11 là giáp tý, suy ra ngày 12 tháng 11 là giáp tuất, ngày 22 tháng 11 là giáp thân. Trong bảng đã cho biết tháng 11 năm 1994 là tháng thiếu, tức chỉ có 29 ngày, nên suy ra ngày 3 tháng 12 là giáp ngọ. Bây giờ ta đếm xuôi : ngày 4 là ất mùi, ngày 5 là bính thân, ngày 6 là đinh dậu, ngày 7 là mậu tuất. Vậy can chi ngày 7 tháng 12 âm lịch năm 1994 là mậu tuất. 3. Trước khi muôn xác định số tuổi để lấy vận cho một người nào dó thì đầu tiên phải kê ra 12 lệnh tháng theo thứ tự để dễ tra : tháng giêng lập xụân, tháng hai kinh trập, tháng ba thanh minh, tháng tư lập hạ, tháng năm mang chủng, tháng sáu tiểu thử, tháng bảy lập thu, tháng tám bạch lộ, tháng chín hàn lộ, tháng mười lập đông, tháng mười một đại tuyết, tháng mười hai tiểu hàn. Bảng dơn giản giới thiệu từ năm 1890 - 2020 này chủ yếu dùng cho dự đoán tứ trụ. Tứ trụ là từ gọi tổng quát cho năm, tháng, ngày, giờ sinh, còn gọi là "Tám chữ". Lấy vận số để dự đoán theo tứ trụ là chỉ dại vận được bắt dầu từ mây tuổi. Dấu V ở trong bảng là ký hiệu dể chĩ rõ ngày cuối cùng tháng đó chưa vượt qua lệnh tháng. Ví dụ tháng sáu ốm lịch năm 1994, ngày cuối cùng của nó vẩn thuộc tiết lệnh tiểu thử, nhưng vi tiểu thử là ngày 29 tháng 5 nên lập thu rơi vào ngày 2 tháng 7. 513 BÀNG CÀN Cứ NGÀY GIÁP TÝ SUY RA CAN CHI CÁC NGÀY KHÁC c c c c 3 c T.12 ■2 <0 <0 Ví) vo 3 ra 5 co X “3 CO o co T- ã| ■o co ra £ 3 vi X = co 1^ ra co C\J T— co co co 3 3 vu £ to ơ> co co Vg xr in -o ư> OJ co co co ỊỊ CM cõ o i*3 râ c 3 3 \a> O) c râ c 3 3 '<D co co n XI o co co o O -<D XI co o XI Ị-l CJ co *- co- Ol o 2 h- o ~ co co CO ^ TÍ CNJ Ol Ol Ò> ■ ra ra OI h' E 3 £ 3 c 3 c c co co o '•to ■° 5 27 đô co co ?! CO *- ơi ^ co Tt CO *- co co co 3 3 0-1 co £ •o V2> to r- ư> co co co 9 18 ư> Oi X- co o co BỊP r~ £ £ o> HU y~ CO CÒ => 3 'o 3 i -C N 3 t"» *•© jc 3 JZ co o 3 ‘3> 3 £ CO co ♦- co co £ o 1 - co m jC f*» co cõ 3 co 5 <ũ- 3 3 3 3 _ 3 _ 3 3 _ 91 CD £ CM ^ CO c 3 r- <0- XI — 3C|fl 14 6 th 19 thlế £•5 co !c ề-5 a> -C 'VI) <0 £ ■£ >5) o in co lị” co ưj co CO co *" ■ 3 3 '<D 3 VD I xr ưj ~XD ~ B w VD *■ -£ r- £ £ T CO v» £ vo- I?I c c o N- CO CO CD co ra 3 3 •«D 3 3 ‘«D 3 '<D R Uì «- o 1 03) CO XI co* XI lí) ~ « xr co u có — ra co tữ- n CÓ nj- JÕ ra co co 3 ■<D T- ro- »0 K co- x: «■ 3 <0- ■*- JZ 3 r~ <0- XI CO co -C o co «D Ịc 29 23 h co E. in '-® f .1 XI m to c r* CM xí- lO cò ■*- 3 3 3 N H èố-s T T c o h~ co CVJ »> £ >5 ‘x: *■* •— K o £ co •«Đ CO XI co ~ co co m co VU o £ .c n co o co z z T " c 3 3 3 c c «0 3 v» Aề X XI v» ‘vp «0 Ể 3 <0 co 3 -«Q> w X ĩ £ £ £ 3 X ra co cô cò 3!® X 11 3 X CO CO o co tD CO co £ ẹl c xó !§ĩ o KC _ E ra Nhảm thin 1692 ^co •>,có C> ra e V 7. -3 Lf> E o> c <ũ £ E ♦* ơ) 3 «■ - '5 £ ® — ra z £ ■< c « (0 Õ c ® <0 ^ H 3 w ơ " CL co -co -T- Ò ♦1 ® £ «5 c X- co xr CO c T- Ò 3 co vo- V- 5 514 1926 22 thiếu 23,hiếu 25 hạ 26,hiếu 29 ' ,hiỂU 1 ,hu 518 521 Canh thân 6 7 8 9 10 11 1980 18 19 .hiếu 21hs1hiéu 23 25,hiéu 27 thu 28,hiêu 30 30 .thiếu 30 30 xuân Năm Âm f|ch -24 526 527 Đinhdảu 7 xuân 11 12 14 thiếu 15 16 16 2017 thiếu 8 8ỉhiếu 10 hạ mhiếu ì 7 thiếu 19 19 h đ ô ôn 9 20 19 19 xuân T.10 T.11 T.12 528

Từ khóa » Cách Tính Vòng Trường Sinh Của Thiệu Vĩ Hoa